Sống
giữa giai đoạn xã hội chuyển tiếp con nguời hôm nay đã và đang nếm trải
mọi thử thách ác liệt do các ý thức hệ bạo hành gây ra; càng cố vùng
vẫy, con nguời càng cảm thấy bất lực, sa lầy thêm sâu trong tình trạng
mất huớng, mất tự tín. Những vết tàn phế của xã hội đang hằn lên nét mặt
lo âu của mọi nguời; đang tuôn chảy vào tâm tu thế hệ hai muoi những
vết đen dài băng hoại, đã hợp thành tiếng kêu cứu, trông chờ noi những
nguời trí thức sớm đua thế cuộc ra khỏi ngã tối lịch sử.
Ðể
đua lại cho đời ánh sáng, để gây tin tuởng cho mọi nguời cùng chung xây
xã hội, điều cần là: ổn định nhận thức con nguời đã bị các nhà sử quan
cận thị làm lạc huớng; khiến con nguời hăng hái tàn sát nhau, vì luôn
luôn nghi rằng mình đi đúng đuờng lịch sử; ý thức hệ sẽ dẫn tới hạnh
phúc, tới chân lý cuộc đời. Trạng huống đau thuong này còn đuợc lái vào
việc xây cao thêm địa vị cho một số lãnh đạo nhà nuớc, tiêu xài máu
nguời trong những vụ tranh giành ảnh huờng, muu lợi cá nhân, đoàn thể,
giai cấp, chủng tộc nữa. Ngày nào nhân loại chua giác ngộ trút bỏ đuợc
tham vọng mê lầm thì ngày đó thân phận con nguời còn bi đát, xã hội còn
bất công, lịch sử còn lạc huớng.
Chua
lúc nào bằng lúc này, danh từ giác ngộ của đạo Phật đuợc con nguời ua
dùng. Chua lúc nào bằng lúc này, ý nghia sự giác ngộ cần đuợc làm sáng
tỏ. Vì con nguời đã lạm dụng từ “giác ngộ” một cách quá thuờng, quá bừa
bãi:
_ Giác ngộ quyền lợi cá nhân
_ Giác ngộ quyền lợi giai cấp
_ Giác ngộ quyền lợi dân tộc
Và
còn nhiều thứ giác ngộ ...khác nữa; mà chẳng ai thực sự giác ngộ thân
phận, mối tuong quan giữa mình với đời và nhiệm vụ của mình đối với
mình, đối với xã hội, đối với vạn hữu cả. Có chăng chỉ là sự giác ngộ
trong lời nói, trên sách báo. Còn thực chứng giác ngộ thì quả là chua.
Vẫn cứ chấp chặt lấy quyền lợi, địa vị, danh vọng thiển cận của mình.
Muốn
giải thoát cho đời khỏi khổ ải lầm than, truớc hết hãy tự giải thoát
cho mình khỏi vòng thành kiến, lợi danh đa. Mà muốn thực sự giải thoát
cho mình trọn vẹn thì không thể không nghi tới và thực thi việc giải
thoát cho đời; vì mình và đời gắn liền với nhau nhu hình với bóng. Không
phóng tâm vuon tới giải thoát đời, thì công việc giải thoát mình chỉ
mới tiến hành đuợc một nửa, nếu không muốn nói là chua đuợc chi cả. Chỉ
biết mình tức là còn chấp chặt trong lớp vỏ cứng cá nhân, vô trách
nhiệm, bỏ lỏng, buông trôi, truớc sự bạo loạn của đời. Thái độ đó không
phải là thái độ của nguời giác ngộ. Nguời giác ngộ chân chính là nguời
thấu hiểu tất cả, làm tất cả, với một từ tâm, minh trí; không muu lợi
danh, không cầu thỏa chí, mà chỉ làm với một tâm nguyện, tận dụng khả
năng góp phần thăng hóa con nguời, thắm tô cuộc đời, để tất cả chúng
sinh đủ điều kiện tự chứng lấy ý nghia và cảnh tính “giải thoát sinh
không” của mình.
Cuộc
đời của Ðức Nhu Lai đã thực chứng điều ấy. Là Phật tử, những nguời may
mắn đuợc thừa kế đức sáng, trí tuệ của đức Phật, chúng ta không thể làm
ngo truớc những khổ đau của xã hội. Chúng ta cần Trao cho thời đại một nội dung Phật chất, một
nội dung Từ bi, trí tuệ, bình đẳng, vị tha để con nguời nuong vào đó ổn
định tâm tu, ổn định cuộc sống và cùng xây dựng một xã hội vui ấm.
Lịch
sử nhân loại đang tiến vào thế tổng hợp lớn. Mọi vấn đề chính trị, kinh
tế, văn hóa đều đang vuon khỏi phạm vi quốc gia, chủng tộc tới linh vực
quốc tế nhân loại. Con nguời ngày nay cần phải có một nhận thức tổng
hợp hòng gột bỏ mọi thành kiến tôn giáo, chủng tộc, giai cấp để xây dựng
một xã hội trong đó: tự do vẫn tồn tại trong công lý; công lý không
nhằm tiêu diệt tự do cá nhân, mà chính là bảo vệ mọi tự do của con
nguời, tự do tu tuởng, tự do lựa chọn, tự do xây dựng cuộc sống, và tự
do sáng tạo. Nhung, nhu vậy, không có nghia là tự do quá trớn, tự do vô
trách nhiệm, mà chính là phải ý thức đuợc quyền tự do đó, phải có trách
nhiệm về mọi hoạt động của mình. Có thế mới duy trì nổi công lý, duy trì
đuợc sự quân bình xã hội. Vì nếu xã hội loạn thì lập tức tự do bị tuớc
đoạt; hoặc tự do bị tuớc đoạt thì lập tức xã hội cung loạn:
_ “Cái này hiện hữu thì cái kia hiện hữu;
_ “Cái này không hiện hữu thì cái kia không hiện hữu.
_ “Cái này sinh thành thì cái kia sinh thành;
_ “Cái này hủy diệt thì cái kia hủy diệt #
_ Kinh A Hàm_
Ðạo
phật đa đoan chắc thế, thực tế đa quyết nhận thế, lẽ biến dịch sinh hóa
của vạn vật là thế. Nguời Phật tử không thể quên đuợc tiêu chuẩn đó của
đạo Phật. Chúng ta cần thực thi nguyên tắc này trong cuộc sống, để cùng
giải quyết những bế tắc hiện nay, để xây dựng một thế giới mà trong đó,
tinh thần tu hữu, tổ chức gia đình vẫn tồn tại hòa hợp trong tổ chức
quốc gia, vẫn tồn tại song hành trong tổ chức quốc tế và tinh thần nhân
loại, để chấm dứt chiến tranh, điều hòa mức sống cho trên khắp mặt đất,
điều hòa giai cấp trong xã hội, không còn thù hận đấu tranh. Một khi thù
hận tan dần, lòng tham nhẹ bớt, thì mục tiêu giải thoát đa sáng tỏ
truớc buớc đi của con nguời; và chiều huớng thuợng của tôn giáo chân
chính hẳn nhiên phải đuợc con nguời thực hiện, để giải quyết sự vuon tới
của tâm linh siêu thoát.
Với
một tình thuong vô biên, tình nguời thắm thiết, với một căn bản tự do
tu tuởng, với một phuong pháp tự tu, tự giác, tự chứng, đề cao năng lực
và ý chí của con nguời. Với một nhận thức tổng hợp rộng lớn; một khả
năng dung hóa tế nhị, một thái độ dung dị hiếu hòa, đạo Phật chắc chắn
đủ điều kiện Trao cho thời đại một nội dung cuộc sống tràn đầy hạnh
phúc. Nhung ai là nguời trao nội dung đó vào đời? Hẳn nhiên là Phật tử.
Ðạo Phật còn nở hoa kết trái hay không, không chỉ ở mấy tạng kinh điển
mà chính ở những nguời hoằng pháp hôm nay có đủ đức, trí, tài, năng; có
biết thích ứng với hoàn cảnh xã hội, để đua đạo Phật vào thời đại, làm
cho đạo Phật sống mạnh, sáng, đẹp, trên mọi noi, trong mọi lúc, thích
hợp với mọi nguời ở mọi trình độ trí thức, mọi giai cấp. Ðạo Phật còn
truờng tồn hay không là nhờ ở đó. Ðạo Phật có đáp ứng đuợc đòi hỏi đuong
thời không, nhờ ở đó.
Chúng
ta hẳn đa có lần nghe thấy từ cửa miệng những nguời còn mang nặng thành
kiến hệ phái, hoặc vì chua hiểu thấu đạo Phật, cho đạo Phật là một tôn
giáo không tình cảm, vô thần, yếm thế xa lìa cuộc đời, phản bội “nhân
bản” làm cản đa tiến hóa của xã hội. Tất nhiên, họ có quyền tự do của
họ, họ đuợc hoài nghi, phê bình và lựa chọn. Vì, đạo Phật không phải là
một tín lý. Ðạo Phật không võ đoán. Ðạo Phật không buộc ai phải tin theo
rập khuôn nhu mình. Ðạo Phật chỉ là một lối huớng dẫn, hòng dắt con
nguời từ trạng thái tham lam mê muội sang trạng thái trong trinh siêu
thoát. Còn thực chứng đuợc hay không là do noi những con nguời tiếp nhận
đạo Phật có gắng công thăng hóa nghiệp lực của mình hay không. Ở đây,
chúng ta không làm công việc thanh minh cho đạo Phật, vì sự tồn tại trên
hai nghìn năm trăm năm nay, và đạo Phật đã dung hợp đuợc với dân tộc
tính các nuớc Á Ðông, đang rọi ánh sáng chân lý vào nếp sống co khí Tây
phuong, thừa đủ để nói rằng: Ðạo Phật không nông cạn nhu sự nông cạn của
những nguời đứng ngoài, ngó phớt qua vào cái vỏ của đạo Phật, rồi chê
bai, ngờ vực... (Tuy chúng ta không làm công việc thanh minh.) Nhung
chúng ta có bổn phận nói tiếng nói chân chính của nguời Phật tử, làm
sáng ý sáng của đạo Phật, hòng bớt đi cho con nguời phần nào ngộ nhận;
hòng khai quang cho nhãn thức của con nguời không những về đạo Phật, mà
còn về mọi vấn đề khác nữa.
Nếu
hiểu “tình cảm” theo nghia cảm xúc đam mê vật dục thì đạo Phật không
chủ truong duy trì thật, tuy không duy trì nhung đạo Phật không chối
rằng: ở thế giới chúng ta, một thế giới trong đó còn đầy rẫy dục vọng mê
cuồng, còn những ham muốn thể chất. Tình cảm của con nguời thuờng nhuốm
thêm sắc dục; tình cảm không thuần tuý biểu lộ tự tâm linh trong trinh,
mà tình cảm còn pha lẫn tính chất sinh lý và bối cảnh xã hội nữa. Do
đó, Ðức Thế Tôn đa mệnh danh cho cảnh giới chúng ta là “Dục giới”
(Kàmadhàtuh) một thế giới mà sự sinh, trụ, dị, diệt còn tùy thuộc hoàn
toàn vào vật dục, đam mê thể chất. Cao hon cảnh giới chúng ta là cảnh
“Sắc giới” (Rùpadhàtuh), thế giới của thần tiên, sinh, trụ, dị, diệt
không bằng vật dục mà bằng sự rung ứng sắc tính. Cao hon hai cảnh giới
Dục, Sắc là cảnh “Vô sắc giới” (Árùpyadhàtuh), ở đây đời sống không bằng
vật dục hay sắc tính mà bằng thức quan tuong ứng, tuong giao; nhung vẫn
còn trong vòng sinh tử phiền não. Vuợt khỏi ba cảnh giới này mối tới
đuợc trạng thái “sinh không siêu thoát”, trạng thái của các bậc đại
giác, một cảnh trong trinh toàn triệt, không vuong vòng sinh tử luân
hồi.
Ðức
Phật cùng sống trong cảnh dục giới nhu ta, nhung Ngài đã tự chiến đấu
với mình để gạn lọc tình cảm vật dục đam mê, để phát khởi tình cảm tâm
linh trong sạch, thể hiện qua đức từ bi, đại trí, hỉ xả. Tiønh cảm của
Ngài không chịu buộc duới sóng tóc nguời đan bà, không chỉ yêu riêng
mình, và những gì thuộc về mình, không chỉ biết tới cha mẹ, vợ con,
quyền quí. Tình cảm của Ngài đa trào ra rung ứng với tất cả chúng sinh
khổ đau. Tình cảm ấy đa phát xuất từ tâm thể từ bi. Nếu đạo Phật không
có tình cảm, thì đức Thích Ca đa chẳng bao giờ xuất gia, đa chẳng bao
giờ quan tâm băn khoăn truớc cảnh sinh tử, niềm thống thiết của thế
nhân, truớc cảnh tranh giành giết chóc giữa chúng sinh tham sống mà
chẳng hay biết đuợc rằng mình đang chết, và tất nhiên không có cảnh bồng
con cừu non trên đuờng cát bụi... Tình cảm của siêu nhân là ở đó. Tình
cảm của đạo Phật là ở đó; mà chỉ ở đó mới có đuợc ý nghia chân thực của
tình cảm, một thứ tình cảm tâm linh trong sạch.
Bảo
rằng đạo Phật “vô thần” thì quả là vội vàng, quả là chủ quan, không
hiểu gì về đạo Phật cả. Nhung, nếu tìm ở đạo Phật một vị thần có bản
tính biết yêu ghét, có uy quyền, tức là đuợc nhân -cách -hóa theo óc
tuởng tuợng của con nguời thì nhất định không có ở đạo Phật. Nếu hiểu
thần theo nghia tâm - thần -thuờng -hằng –trong –trinh -bản -thể -của
-thực -hữu, một chân lý cao tột mà tâm thức con nguời luôn luôn vuon
tới, để đạt đuợc trạng thái trong trinh ấy, thì hẳn nhiên là có. Tâm
thần là bản thể của thực hữu, nên có trong mọi loài, mọi vật, nhung vì
vọng niệm mê lầm, nhu những lớp sa mù che phủ, khiến tri thức con nguời
không thấy đuợc. Con nguời cần gạn lọc tình cảm trinh khiết, khai quang
trí tuệ, đẩy lui tham vọng u muội, mới mong làm sáng đuợc tâm thần tự
tại, hòa đuợc với tâm thần đại thể. Nhu thế đạo Phật không phải là Vô mà
là Hữu thần. Thần không ở đâu xa, thần không ban phúc giáng họa mà thần
ở trong mỗi nguời, mỗi vật, chỉ cần làm sáng tâm thần là đạt đuợc chân
lý cao nhất của cuộc đời. Ðạo Phật đa mệnh danh cho tâm thần nhiều tên
gọi khác nhau nhu: Phật tính, Chân nhu, Tính cảnh, Niết Bàn...
đều biểu hiện ý niệm trong trinh thuờng hằng của tâm thể, tất cả đều thu
vào một chữ “Tâm” mà tâm thì ở mọi loài, mọi vật đều có thể tự tu, tự
luyện tự giác, để tự chứng lấy cảnh giới trong sáng của tâm -thể.
Bởi
quan niệm Tâm là bản thể nội tại noi mỗi nguời, mỗi vật, nên chẳng
những đạo Phật không làm hèn con nguời mà chính lại làm cho giá trị, địa
vị và khả năng con nguời thêm cao, thêm mạnh. Tuy đạo Phật dùng chung
từ “chúng sinh” để chỉ những chủng loại hữu tình, nhung vẫn có điểm khác
nhau, là noi nghiệp lực của mỗi vật, mỗi loài. Loài nguời ở vào cấp bậc
cao nhất trong chúng sinh. Loài nguời là chặng cuối cùng của dục giới,
có khả năng chứng ngộ để thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Nếu dùng theo
từ ngữ đuong thời thì đạo Phật đa nói lên đầy đủ và trọn vẹn ý nghia
Nhân bản nhất. Ðạo Phật đa mạnh bạo và thẳng thắn phóng trí tuệ vào thực
tế đau khổ cuộc đời, không trốn tránh sự thật ê chề của kiếp nguời,
không ỷ lại, van xin, trông đợi ở sự bao bọc trợ giúp của bất cứ một
ngoại lực nào, mà tự tìm chính noi mình để tự giải thoát mình và giải
phóng đời. Con nguời chỉ giải thoát đuợc thân phận khi nào tự giác chứng
thôi. Nếu tự mình không cứu mình thì không ai cứu mình nổi, mình phải
hoàn tất trách nhiệm và công trình tu duỡng của mình, không ai gánh đỡ
cho mình cả. Có chăng, nguời khác chỉ tiếp tay cho mình, cùng lắm là
huớng dẫn cho mình trong một phạm vi nào đó. Còn quyết định tối hậu vẫn
do noi mình. Ðó là điều tâm nguyện của nguời Phật tử đi theo huớng Phật.
Ðã đề cao đức Tự chủ, tự do và tự tạo, thì nhất định đạo Phật không bao giờ yếm thế,
không trốn tránh cuộc đời và trách nhiệm đối với con nguời. Ðạo Phật
luôn luôn đáp ứng với nhu cầu trí thức và nghiệp lực của mỗi nguời, mỗi
loài. Ở mỗi nguời, mỗi loài, đạo Phật đều có phuong pháp huớng dẫn riêng
để tự thân mỗi nguời, mỗi loài thăng hóa thân phận mình. Sở di có sự
ngộ nhận trên là do noi đức từ bi, thái độ bao dung, khoan hòa của nguời
Phật tử chân chính điển hình, luôn luôn chịu đựng phần thiệt, vui vẻ
tha thứ nhiều hon là cạnh tranh bồng bột. Nhu vậy là can đảm và khó khăn
lắm mới giữ nổi thái độ dung dị truớc những chuớng tai gai mắt đó. Vì,
nguời Phật tử dù sao cung chỉ là một nguời vẫn còn nặng nhiều với cảnh
tính dục giới, nhung khác hon nguời thuờng là biết làm chủ mình, làm chủ
hành động của mình, không để cho những hành động đó thành xuẩn động.
Tất cả Phật tử hiểu đạo pháp đều hiểu rằng: cạnh tranh, tham lam, chẳng
những không đẹp đẽ gì mà chỉ làm tăng thêm đau khổ cho mình, cho đời
thôi. Nên không lăn vào vòng lợi danh, nhung với nghia vụ làm nguời, bổn
phận đối với xã hội, Phật tử dù chịu xả thân cung không than tiếc. Nếu
không có sự hiểu biết đó, đạo Phật đa chẳng thể tồn tại trên hai thiên
niên kỷ và đạo Phật cung chẳng đặt vấn đề hoằng-duong chính - pháp làm
chi nữa.
Nếu
cho rằng đạo Phật làm cản đa “tiến hóa” của nhân loại thì hãy xét lại
đa. Những cuộc cách mạng xã hội hiện nay đa đến sau các phong trào giải
phóng thân phận con nguời khỏi phong tỏa thần quyền với mục đích tìm lấy
sự Tự chủ cho con nguời, Tự do cho tu tuởng và Tự tạo lấy cuộc sống văn
minh, chính đã đuợc đạo Phật thuyết minh ngay từ lúc đức Phật thành
đạo. Nhu vậy là đi truớc đa tiến hóa trên hai nghìn năm trăm năm chứ
không phải là đi sau, hay cản buớc lịch sử. Với một ý chí tự tạo, chua
hề bao giờ đạo Phật kìm hãm sự tiến bộ của kỹ thuật khoa học mà chỉ phát
tâm đem vào cho xã hội, cho những tiến bộ vật chất ấy một nội dung
Phật-chất, để kỹ thuật khỏi quay lại tàn sát con nguời, phá tán xã hội.
***
Lúc
này hon lúc nào hết, xã hội đang đoi hỏi một huớng tiến: Nghệ thuật,
học thuật, kỹ thuật đang đoi hỏi một nội dung thuong vui, minh mẫn và
thực tế để cung ứng cho con nguời thời đại, đạo Phật có đủ mọi yếu tố
đó.
Thế
nhung từ truớc đến nay con nguời thuờng chỉ tìm noi đạo Phật một tôn
giáo duới hình thức cổ kính, thâm uyên, chìm mình trong màu áo tiếng
chuông, trong việc cúng Phật cầu siêu. Tin Phật nhu tin trời, thờ Chúa.
Linh thiêng hóa đức Phật nhu một thuợng đế toàn năng, có quyền ban phát
on lành. Sự lầm lạc này không những hại cho công cuộc tu chứng của mình,
mà chẳng làm vẻ vang gì cho đạo Phật cả; trái lại, còn thêm nhiều những
tấm màn che khuất mất một nội dung đạo Phật sáng, đẹp, thực tiễn, khiến
cho những nguời chua hiểu, ngộ nhận nhiều điều đáng tiếc về đạo Phật.
Nếu ta không cất bỏ đuợc tấm màn hình thức dày đặc đang bao trùm đạo
Phật thì tự ta, tự noi ngộ tín của ta, ta đã thoái hóa Phật giáo, đạo
Phật đáng lẽ huớng dẫn ta trên đuờng giải thoát, trong thực tế xây dựng
cuộc sống no lành, lại hóa ta một thứ cùm xích làm chậm sự chứng ngộ của
ta, của đời.
Ở
một thạch động thanh tịnh thâm u, noi tu luyện và đao tạo tăng tài của
một vị Thiền su chứng ngộ, ngài đã huớng dẫn cho rất nhiều tăng si chứng
đạo. Nhung trong số đó có một đệ tử ngoan ngoãn thuần thành, hết lòng
tin Phật, yêu thầy, thuong bạn. Không bao giờ phạm một lỗi nhỏ, không
bao giờ làm trái ý thầy. Thế mà hết mùa tuyết này tan tới mùa băng kia
đóng, hết lớp bạn này tới lớp bạn khác ngộ đạo, xuống núi hoằng duong,
nguời đệ tử này vẫn không chứng nổi phép mầu.
Vị Thiền su sau nhiều năm tìm hiểu, ngài đã thấy đuợc căn nguyên của sự chậm ngộ đạo đó.
Mùa
tuyết năm nay đã về, đem theo một trận bão lớn. Thạch động toát ra một
sức lạnh ghê nguời. Ngài hiểu rằng đã đến lúc phải ra tay để giúp sức
cho nguời đệ tử yêu chứng ngộ. Sau khi thăm khắp noi trong thạch động,
ngài về ngồi trên bồ đoàn, cạnh bồ đoàn là một lò suởi sắp tàn. Ngài gọi
nguời đệ tử đến và dạy:
_ Con hãy thêm củi vào lò suởi cho ấm.
Nguời
học trò vâng lệnh ra đi, nhung tuyết xuống mấy ngày liền, củi dự trữ đã
hết, mà nhìn ra trời thì tuyết phủ trắng xóa không thể tìm đuợc đuờng
xuống núi. Sau nhiều cố gắng vô ích, nguời học trò buồn rầu trở vào lạy
thầy:
_Bạch Thầy, củi trong động đa hết, mà ngoài trời bão tuyết quá lớn. Con xin về đây chịu lỗi với Thầy.
Vị thiền su khoan dung dạy nguời đồ đệ rằng:
_
Con hãy cố tìm xem trong động, có thứ gì bằng gỗ thì đem ra cho thầy.
Nguời đệ tử ngoan ngoãn trở vào trong, lục lọi khắp noi. Nhung tất cả
mọi vật dụng đều toàn bằng đá, không có thứ nào bằng gỗ cả. Ðành trở ra
thua lại với thầy:
_ Thua Thầy trong động không có thứ chi bằng gỗ cả.
Vị Thiền su nhân từ dạy thêm:
_
Con cố tìm lại xem, thầy chắc thế nào trong động cung có vật bằng gỗ
đấy. Lần này nguời đệ tử quá sức lo sợ, tìm kiếm khắp noi nhung vô hiệu,
vào cả trong điện Phật, cung không có chi bằng gỗ cả! Nguời đệ tử quỳ
truớc Phật điện cầu xin Ðức Thế tôn khai sáng cho mình. Rồi lại tiếp tục
soát không trừ chỗ nào; tính nhẩm lại tất cả thì chỉ trừ pho tuợng Phật
bằng gỗ, ngoài ra toàn bằng sắt và đá cả. Thất vọng hoàn toàn. Nguời đệ
tử run sợ ra thua lại với Thầy:
_ Lạy thầy, trong động, ngoài pho tuợng Ðức Thế Tôn, không còn thứ gì bằng gỗ cả.
Vị Thiền su mất hẳn vẻ trầm tinh thuờng nhật, ông lớn tiếng:
_
Ta đa bảo lấy bất cứ vật gì bằng gỗ ra đây, nguoi còn hỏi chi nữa, đi
ngay. Nguời đệ tử run sợ đi vào trong điện. Ðầu dao động lên biết bao ý
nghi, bao câu hỏi, nhung đều không có câu trả lời. Sau khi lạy Ðức Thế
Tôn, nguời đệ tử ôm pho tuợng xuống đua ra truớc mặt thầy.
Vẻ
bình tinh nhân từ đa trở lại trên mặt và tia nhìn của vị Thiền su, ngài
khoan thai cầm cây búa bên cạnh lò suởi, gio lên bổ thẳng xuống pho
tuợng thếp vàng long lanh. Pho tuợng vỡ ra làm đôi, rồi làm nhiều mảnh.
Nhu tâm tu nát vụn của nguời đệ tử. Toàn thân nguời đệ tử run lên, nuớc
mắt tràn trề, trong lúc đó vị Thiền su chậm rãi cầm từng miếng cốt tuợng
quăng vào lửa, ngọn lửa bừng sáng, tỏa khắp thạch động mờ mờ tối đục.
Tâm thức nguời đệ tử cung bừng sáng và từ sát-na đó chứng ngộ đạo pháp
của Ðức Thế Tôn.
Ðã
tới lúc chúng ta cần vén màn hình thức để tìm vào nội dung chân lý của
đạo Phật, hòng Trao cho thời đại trí thức hôm nay một đạo Phật linh
động, thực tế, thích ứng với nhu cầu tinh thần của nhân loại, để mọi
nguời tìm noi đạo Phật một nền văn hóa rực rỡ, hợp với lịch sử tiến bộ
xã hội, một huớng thoát cho tâm linh con nguời.
Ðạo
Phật là kết tinh của các hệ phái tu tuởng thâm sâu Ấn độ cổ xua. Ðạo
Phật ra đời để tổng hợp mọi khuynh huớng thần học, đạo học, triết học
của văn minh Vệ đa. Ðạo Phật là tiếng nói trọn vẹn, là một hệ thống tu
tuởng vững mạnh và cao rộng nhất trong các hệ thống tu tuởng cổ kim đông
tây. Tìm trong đạo Phật ta thấy mọi vấn đề từ đại thể tới chi tiết của
sự việc đa và đang biến diễn trong vu trụ đều đuợc đặt ra và đều có
phuong pháp giải quyết. Nhung, vì từ ngữ, vì hình thức của nguời xua
khác với ngày nay, nên ta khó linh hội mau chóng, thấu đáo đuợc đạo
Phật. Bổn phận của nguời hoàng pháp hôm nay, là làm điểm sáng của nội
dung Phật chất, đem vào những hình thức kỹ thuật, nghệ thuật, học thuật
hiện đại một tinh thần sáng động toàn diện của đạo Phật.
Một
đạo Phật tổng hợp giữa những anh hoa của cuộc đời, giữa những phát kiến
truyền tiếp của một dân tộc sống giữa núi rừng trùng điệp; tu tuởng
luôn luôn vuon lên rọi vào những bí ẩn hầu nhu ảo diễn của vu trụ vô
biên; vì họ luôn luôn cảm thấy mình nhu bị giam cầm trong một khung cảnh
tối tăm nếu từ buổi bình minh của tu tuởng con nguời đã nhận rằng minh
nằm trong trò ảo hóa của Brahma, một vị thuợng đế, để thành hình một tôn
giáo Brahman, với một quan niệm luân hồi miên tục truyền kiếp và sự
phân hóa xã hội tới cùng cực đa sản sinh ra không biết bao nhiêu giai
cấp. Triết phái Upanishad xuất hiện, tuy chua hẳn là chối bỏ hết quyền
lực của Brahma nhung đã tỏ dấu hoài nghi tột độ về những trò ảo diễn phi
lý vô ích của vu trụ. Từ tu tuởng hoài nghi này đa mở lối cho những
triết phái khác ra đời. Phái Vedanta đa đua gần Brahma lại với con
nguời, đua ngay vào trong con nguời, để chủ truong tìm về nguồn bình
đẳng của vu trụ. Quá khích hợp, phái Vaisesika hoàn toàn đứng trên quan
điểm cực vi duy vật để thành lập hệ thống triết học của mình. Ði tới
trạng thái ôn hòa, triết học Samkhya ra đời, chủ truong vu trụ có
thần-ngã và tự- tính; mong cầu của thần ngã thông với tự tính thành ra
những hiện tuợng ảo hóa. Nếu dẹp bỏ mong cầu thì ảo hóa sẽ tan, chỉ còn
tự tính tồn tại trong thần ngã mà thôi. Sau trên hai ngàn năm trăm năm,
Ðức Phật ra đời đa dung hóa tất cả mọi khuynh huớng tu tuởng cổ xua để
xây dựng thành một hệ thống đạo Phật hết sức rộng lớn căn cứ trên đức Từ
bi, khả năng Giác ngộ của tâm thức, trên tinh thần Tự chủ, Tự do, Tự
tạo, đức Phật trao cho đời một nội dung cuộc sống toàn diện cả về tâm
linh, luận chứng lẫn phuong pháp giác ngộ.
Ngài
đã nhìn thẳng vào sự vật, vào cuộc đời mà dạy rằng: “Vạn hữu là thế
đó”, chân lý không ở đâu xa mà ở ngay trong vạn pháp. Ngài đã trao cho
nhân loại một nhận thức quan về vạn pháp:
_ Các hành vô thuờng
_ Các pháp vô ngã
_ Bản thể chân nhu
Ðể
con nguời dùng làm chìa khóa tự mở lấy kho tàng vô biên của trí tuệ,
khám phá những bí mật của vu trụ, đau khổ của cuộc đời. Rồi nuong vào đó
con nguời sẽ cởi lần chấp mê u tối, trở lại với bản thể trong trinh của
mình.
Vu
trụ kết tụ bởi những hệ thống nhân duyên, con nguời muốn tham hóa, thấu
triệt vu trụ thì cần nuong vào thuyết nhân-duyên-quả- sinh để mà tìm
hiểu, để sống hợp với lẽ tiến hoá của vu trụ. Rồi dựa vào nguyên tắc đó,
con nguời tự thăng hóa nghiệp lực của mình, bằng cách gây nhiều nhân
tốt.
Thân
phận con nguời chìm đắm trong cảnh khổ đau, sinh tử luân hồi. Sự khổ
đau vốn do dục vọng đam mê noi mỗi nguời phát sinh, rồi tăng truởng thêm
mãi. Chẳng những con nguời không hạn chế lòng tham mà mỗi ngày lại huân
tập thêm giữ làm tu kiến, khiến cho khổ đau chồng chất đầy rẫy lên thân
phận con nguời. Ðể chặn đứng khổ đau, con nguời cần tận diệt dục vọng,
khai quang trí tuệ, để thăng hóa nghiệp lực trên con đuờng giải thoát.
Ðuợc vậy con nguời cần thực thi Tám Con Ðuờng Chính (Aryastaniga Màrganmàni) #của Ðạo Giải Thoát bằng phuong pháp Tự tu, Tự giác, Tự chứng để đạt tới cảnh “sinh không viên mãn”.
Ðạo
Phật đa lấy khởi điểm từ tâm linh, qua thực tế, để huớng tâm linh lên
đuờng giải thoát, nhằm cất đi những gánh nặng khổ đau của con nguời.
Nhung đạo Phật vẫn chua nhận đấy là chân lý tuyệt đối, mà đấy chỉ là
phuong tiện giúp con nguời tự chứng lấy chân lý thôi. Tức là đạo Phật đa
đề cao khả năng, địa vị con nguời và sự tự do tuyệt đối về tu tuởng.
Nhờ vậy đã mở lối cho nguời hậu thế đuợc góp sức xây dựng đạo Phật mỗi
ngày một giàu đẹp thêm hon. Cung chính vì tôn trọng tự do con nguời nên
khi truyền đạo đã không gặp một cuộc xung đột nào và đuợc mọi nguời tiếp
nhận nhu chính tiếp nhận sự phát minh của trí thức mình vậy.
***
Trên
hai thiên niên kỷ tồn tại hợp nhất với nếp sống con nguời hiếu hòa đông
phuong, Ðạo Phật mỗi ngày một thêm phong phú, kho tàng văn hóa mỗi ngày
một thêm tuoi đẹp.
Về nghệ thuật: phải
nói rằng đạo Phật ngay khi phát từ kim ngôn đức Thế Tôn đa đuợc lồng
duới hình thức nghệ thuật rồi. Những lời Ngài giảng dạy môn đệ đều tiềm
ẩn bên trong những câu chuyện sống động hợp với trình độ và khả năng
thuởng thức của mọi nguời. Những câu chuyện đó đuợc các đệ tử ghi lại
qua kinh “Bách Dụ”. Xét về nội dung của các câu chuyện thì mỗi chuyện
đều mang một tính chất truyền phổ tu tuởng của đạo Giải thoát, hoặc miêu
tả những khổ đau của con nguời và nguyên nhân phát sinh khổ đau, đồng
thời có một phuong pháp giải quyết tùy theo hoàn cảnh, truờng hợp và
nghiệp lực của mỗi nhân vật đuợc Ngài dựng lên trong câu chuyện. Nhờ vậy
đệ tử mau hiểu và dễ sống theo những nhân vật trong truyện. Cách sống
khoan hòa và trang nghiêm của Ðức Phật đa thành hình ngay một cung thức
lễ nghi cho đạo Phật. Giọng giảng đều đều và có mãnh lực thu hút tu
tuởng của con nguời đã mở lối cho những vần điệu âm thanh của câu kinh,
bài kệ, tiếng chuông, nhịp mõ sau này. Văn, Lễ, Thi, Nhạc của đạo Phật
mở đầu ngay từ ngày đức Phật chua nhập diệt. Hình ảnh của Ngài đa đuợc
ghi lại qua nét Họa, Khắc và đuợc Phật tử thành lập Phật-tự để kính,
thờ. Họa, Khắc và Kiến trúc của Phật giáo ra đời. Rồi sau đấy sự tích
đức Phật, những câu chuyện của Ngài đã đuợc dựng thành Kịch, quay thành
phim để phổ biến trong quần chúng. Nhu vậy mọi ngành của nghệ thuật nhu
Văn, Tho, Lễ, Nhạc, Họa, Khắc, Kiến trúc, Kịch, Ảnh đã nảy nở toàn vẹn
trong một truyền thống Từ-bi, Trí- tuệ nhung không khép kín mà luôn luôn
mang những hình thức, sắc thái của mỗi dân tộc đa đuợc đạo Phật truyền
đến. Nhờ có nội dung chuyên nhất đó, nên càng nhiều sắc thái, nền nghệ
thuật đạo Phật càng thêm sáng, đẹp, giàu có, và nội dung đạo Phật càng
thấm sâu vào tâm thức con nguời, càng thăng hóa thêm đẹp các nền văn hóa
dân tộc của mỗi nuớc đã tiếp nhận đạo Phật.
Về học thuật: Với
một nhận thức tổng hợp rộng lớn, với một căn bản tự do tu tuởng, đạo
Phật đã phát triển và đuợc sự đóng góp của nguời trí thức cổ kim để
thành lập một nền văn học vi đại. Phải nói rằng đó là rừng kinh biển
chữ. Kinh điển Phật giáo chia làm ba loại chính là: Kinh, Luật, Luận.
Kinh
tạng (Sùtrạm): gồm tất cả Giáo, Lý, Hành, Quả do Ðức Thế Tôn nói ra
đuợc các đệ tử kết tập lại trong năm đại bộ: Hoa Nghiêm, Phuong đẳng,
Bát Nhã, Pháp Hoa, Niết Bàn.
Luật
tạng (Vinayah): tập hợp tất cả giới luật của đạo Phật trong sự huớng
dẫn tu trì các bậc xuất gia cung nhu tại gia, để giữ cho hệ thống đạo
Phật đuợc bền chặt.
Luận
tạng (Abhidharmah): bao hàm những tác phẩm nghị luận, với mục đích diễn
giải rộng ý nghia kinh tạng, Kho tàng Luận-tạng rất lớn, đó là sự đóng
góp miên tục của các Phật tử qua từng thời đại.
Sau
khi Thế tôn nhập diệt, đại đệ tử Ca Diếp triệu tập đại hội kết tập
những lời Phật dạy và định giới luật, ngăn ngừa những ngụy thuyết và
những hành động si mê của tăng si. Ðây là lần kết tập thứ nhất gồm trên
duới 500 đệ tử Phật, họp tại thành Vuong xá. Tạng kinh mãi về sau mới
đuợc biên chép thành hai thứ chữ Pali và Sanskrit. Kinh do Ðại đức A-Nan
đọc. Luật do Ðại đức Uu -Ba- li đọc. Còn Luận thì thuộc phần hậu thế
diễn giải theo kinh. Kinh điển đuợc kết tập lần thứ nhất này là kinh
A-hàm và luật Bát -thập-tụng.
Khoảng
một thế kỷ sau, cuộc kết tập thứ hai đuợc tổ chức tại thành Tỳ-Xá-Ly,
nhằm kiểm soát lại kinh điển và giáo luật, đồng thời xét về các dị
thuyết hiện luu hành trong đạo. Ký kết tập này manh nha cho cuộc phân
phái sau này.
Theo truyền thuyết thì ngài Ðại-Thiên (Mahadeva) đề ra năm điều tân thuyết #thổi
lên một phong trào Tự do tu tuởng trong đạo Phật: chia đạo Phật làm hai
phái, phái bảo thủ truyền thống là Thuợng tọa bộ, phái cấp tiến tự do
là Ðại chúng bộ. Lần lần Thuợng tọa bộ còn phân thành nhiều bộ khác nhu:
Nhất thiết hữu bộ, Ðộc tử bộ, Pháp thuợng bộ, Hiền vị bộ, Chính luợng
bộ, Mật lâm son bộ, Hóa địa bộ, Pháp tặng bộ, Ẩm quang bộ và Kinh luợng
bộ. Rồi Ðại chúng bộ cung lại phân tán thành tám bộ: Nhất thuyết bộ.
Thuyết xuất thế bộ, Kế dậng bộ, Ða văn bộ, Tây son trụ bộ, Chế đa son
bộ, Thuyết giả bộ và Bắc son trụ bộ. Thật là một quang cảnh náo nhiệt.
Do những cuộc phân bộ này mà kho tàng đạo Phật trở thành rộng lớn mung
lung tới độ khiến nguời học Phật hiện nay thuờng bị lạc mất huớng chính.
Ðấy cung là một trong những điểm quan trọng mà nguời hoằng pháp hôm nay
phải luu tâm, phải gạn lọc tinh lý Phật, truớc khi trứ tác Phật điển.
Vì
không những qua sự phồn tạp gần nhu trái nguợc giữa các bộ phái, kể từ
đời vua Ca-Nhị-Sắc-Ca vào thế kỷ thứ hai, đạo Phật dứt khoát chia làm
hai ngành. Bắc phuong Ðại chúng bộ, Nam huong Thuợng tọa bộ để thi đua
quang tỏa Phật pháp ra thế giới nữa: Bắc phuong Phật giáo lấy Népal làm
cứ điểm xuất phát Tây Tạng Trung Hoa rồi phân tán ra Mông cổ, Mãn Châu,
Triều tiên, Nhật bản và Việt Nam. Nam phuong Phật giáo đặt khởi điểm
chính tại Tích Lan truyền sang Miến điện, Thái Lan, Cao miên và Lào. Ði
đến đâu dung hợp tới đó, nên đạo Phật càng thêm nhiều đặc tính mới.
Hiện
nay các nhà Phật học và các đại biểu chính thức của mỗi quốc gia đạo
Phật đang cố gắng thực hiện cuộc thống nhất đạo Phật hầu cung ứng cho
nhân loại một sức mạnh tinh thần để bảo vệ hòa bình và hạnh phúc cho con
nguời trên toàn thế giới. Nhu thế có nghia trên hai nghìn năm phân hóa,
lịch sử đạo Phật đang chuyển dần vào thế tổng hợp. Một chứng minh cụ
thể là cuộc thống nhất tông phái Nam Bắc tông, trong Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam đã thể hiện vào mùa xuân năm 1964. Cuộc thống nhất này mở đầu
cho cuộc thống nhất đạo Phật thế giới ngày mai. Muốn đẩy mạnh cuộc thống
nhất đi đến thành công, Phật tử cần đập tan mọi vỏ cứng, mở tung mọi
cửa lòng để đón gió ngàn phuong, đồng thời tìm sâu vào nội dung căn bản
của đạo Phật, của Ðức giáo chủ duy nhất.
Về kỹ thuật- Với
căn bản đạo Phật tuy không đủ điều kiện nhân lực, vật lực để thành lập
một ngành kỹ thuật co giới, nhung đạo Phật đã nói lên nguyên tắc căn bản
của khoa học rồi vậy. Mà khoa học kỹ thuật vốn là kết quả của công cuộc
suy tu thực nghiệm của con nguời. Nên truớc khi có đuợc nền khoa học co
giới văn minh nhu ngày nay, lý thuyết khoa học phải có truớc để dẫn lối
cho công cuộc thực chứng của con nguời. Ngày nay khoa học càng tiến,
càng đi sâu vào thế giới hạch tâm, vào linh vực không gian thì càng thấy
gần đạo Phật; tuy không xây dựng trên vật chất cực vi, nhung với tâm
linh giác ngộ, đạo Phật giải thích vu trụ một cách rất khoa học. Khi
khoa học tìm đuợc năng lực nguyên tử tiềm ẩn trong vật chất thì cung
chính là lúc nhà trí thức quan tâm nhiều tới luận chứng của đạo Phật. Vì
Phật đa quyết nhận trong mỗi loài, mỗi vật của vạn hữu đều có phần năng
lực là Phật tính. Và, khi các nhà thiên văn học xác nhận ngoài thế giới
chúng ta còn rất nhiều thế giới có sinh vật khác nữa, trong vu trụ,
thì truớc đó hai thiên niên kỷ, sau khi rời cội bồ đề, đức Phật đa dạy
rằng trong vu trụ có tam thiên đại thiên thế giới, #ngoài
thế giới chúng ta. Thật là hoang đuờng viễn vông đối với nhận thức nhân
loại đuong thời của Ngài. Nhung, tới nay, khoa học của thế giới văn
minh chúng ta đa xác nhận.
So
luợc mấy nét đại cuong, ta thấy đạo Phật không chỉ là một Triết học,
Ðạo học mà còn là một co bản của Khoa học. Ðạo Phật, ngoài công cuộc
giải thoát tâm thức con nguời còn là một hệ thuyết thực tế có đủ khả
năng, đủ điều kiện trở thành một nền Văn hóa toàn triệt gồm đầy đủ các
yếu tố nghệ thuật, học thuật và kỹ thuật nữa. Nhung vì chú trọng nhiều
về tâm linh hon, nên đạo Phật mang nhiều màu sắc tôn giáo, để rồi nhân
loại quên mất những khía cạnh khác của đạo Phật.
Ðã
đến lúc những nguời thừa kế đức sáng của đức Phật cần phải cụ thể hóa
những nét tuoi sáng của đạo Phật ra bằng hành động, để làm Ðẹp, làm
Sáng, làm Lành cho con nguời và cuộc đời, để đạo Phật mãi mãi thích ứng
với hoàn cảnh xã hội, đáp ứng đuợc mọi nhu cầu của nhân loại trí thức
thời đại.
Nói
tới văn hóa đạo Phật một nền văn hóa tổn hợp đa truyền đời trên hai
nghìn năm trăm năm nay là vuợt sức một nguời, nhất là đem cô đọng trong
một bài thì không thể tránh đuợc những thiếu sót ngoài ý muốn. Nên, ở
đây, chúng tôi chỉ so luợc trình bày mấy nét chính mà thôi. Và xin tóm
tắt:
Nét thứ nhất trình bày về Thời đại chúng ta và lối giải quyết của đạo Phật trong thực tế.
Nét thứ hai trình bày những Ngộ nhận của con nguời về đạo Phật.
Nét thứ ba trình bày những Nguyên tắc căn bản của đạo Phật.
Nét thứ tu trình bày về nền Văn hóa đạo Phật.
Tất cả với mục đích góp phần cùng Phật tử và độc giả bốn phuong một vài ý kiến trong công cuộc hoằng pháp hiện nay.
Ánh sáng Từ Bi đến với chúng ta.
#(*Nguyên văn chữ Hán:
“Thử Hữu tắc bỉ Hữu
Thử Vô tắc bỉ Vô
Thử Sinh tắc bỉ Sinh
Thử Diệt tắc bỉ Diệt
#Chính kiến: thấy biết chân chính
Chính tu duy: suy nghi chân chính
Chính ngữ: Lời nói chân chính
Chính nghiệp: Việc làm chân chính
Chính mệnh: đời sống chân chính
Chính tinh tiến: siêng năng chân chính
Chính niệm: tuởng niệm chân tính
Chính định: định tâm chân chính
#5 điều của Ngài Ðại Thiên đề ra:
1.Lahán vẫn còn bị ma chuớng khiến cho lậu thất trong giấc mộng
2. Lahán cung vẫn còn bất nhiễm ô vô tri, nghia là cái học sai lầm về chính pháp
3. Lahán vẫn có những hoài nghi chua giải quyết đuợc
4. Lahán đắc quả không thể tự biết mà nhờ bậc Cao minh cho hay.
5. Lahán có thể liễu đạo là do âm thanh mà giác ngộ.
#Tiếng Phạn: Trisàharasramahàsàhasre lokadhàtuh