Số 1
MỘT CON ĐƯỜNG (hay MỘT
CỖ XE)
(nhất thừa - Phật thừa - nhất Phật thừa)
 
“Con đường” 
(hay “cỗ 
xe”) là chỉ cho giáo pháp (vì giáo pháp có năng lực đưa con 
người từ 
cõi vô minh đến nơi giác ngộ, cho nên lấy hình ảnh chiếc xe
hay 
con đường làm ví dụ); “một” là chỉ có một chứ 
không có 
hai, ba bốn, v.v… – tức là duy nhất.  Vậy, “một cỗ xe”
là 
giáo pháp duy nhất đưa đến sự chứng ngộ tuệ giác viên mãn của chư 
Phật. 
 
Kinh Pháp Hoa (phẩm “Phương Tiện”)
nói:
“Chư Phật chỉ dùng một con đường (nhất thừa) để 
hoá độ 
chúng sinh, chứ không có con đường (thừa) nào khác, 
dù là 
hai hay ba…”; hoặc: “Thật ra chỉ có một con đường duy nhất
(nhất 
Phật thừa), nhưng chư Phật tuỳ căn cơ mà dùng phương tiện, 
dạy có 
ba con đường (tam thừa).”
 
Các kinh luận thường dùng thuật ngữ này –
nhất thừa – để chỉ cho giáo pháp đại thừa.[1]
 
 
MỘT LÀ TẤT CẢ, TẤT CẢ 
LÀ MỘT
(nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất)
 
Có thể nói, đây là mệnh đề tóm tắt toàn bộ yếu 
nghĩa 
kinh Hoa Nghiêm.  Yếu nghĩa ấy nói về sự tương quan tương 
duyên 
chằng chịt của tất cả mọi sự vật trong vũ trụ: Sự vật này tức 
là sự vật 
kia, sự vật kia tức là sự vật này; một sự vật có mặt trong tất cả 
mọi sự 
vật, tất cả mọi sự vật có mặt trong một sự vật; một sự vật tức là 
tất cả 
các sự vật, tất cả các sự vật tức là một sự vật.
 
Nguyên lý duyên khởi cho ta thấy rằng, 
một sự 
vật không thể tự nó có mặt, mà đã do vô số các sự vật khác, không 
phải là 
nó, hợp lại cấu thành.  Một cuốn sách chẳng hạn, không phải tự nó 
hiện ra, 
nhưng đã do tất cả những cái “không phải là sách” (như 
giấy, mực, 
máy in, nhân công, những vật liệu làm ra giấy, làm ra mực, làm ra 
máy in, 
rồi những thứ đã nuôi sống thợ làm ra giấy, thợ làm mực, thợ in 
v.v…,  
nhiều lắm, cùng khắp vũ trụ, không kể hết được!) hợp lại làm 
thành.  Bởi 
vậy, giữa cuốn sách và chiếc máy in không có gì ngăn cách; trong 
cuốn sách 
có mặt tất cả các thứ giấy, mực, máy in v.v…, kia.  Hành giả khi 
đạt được 
cái thấy này thì tâm ý tức khắc được giải thoát khỏi những ràng 
buộc, 
những hạn chế của ngã chấp và pháp chấp, chấm dứt khổ đau. 
 
Kinh Hoa Nghiêm (phẩm “Công Đức của Người Mới 
Phát Tâm 
Bồ Đề”) nói: “Cái thấy của vị Bồ-tát phát tâm bồ đề rộng lớn 
thật không 
có giới hạn: không có gì khác nhau giữa thể giới thô lậu và thế 
giới vi 
diệu, vì thô lậu tức là vi diệu; không có gì khác nhau giữa thế 
giới nhỏ 
và thế giới lớn, vì nhỏ tức là lớn; không có gì khác nhau giữa một
thế 
giới và vô lượng thế giới, vì một tức là vô lượng; không có gì 
khác nhau 
giữa thế giới dơ và thế giới sạch, vì dơ tức là sạch; một thể giới
nằm 
trong vô lượng thế giới, vô lượng thế giới nằm trong một thế giới;
…”
 
 
MỘT NIỆM BA NGÀN
(nhất niệm tam thiên)
 
Trong Phật học, thuật ngữ “một niệm” (nhất
niệm) thường được dùng để chỉ một ý tưởng, một sát na, một 
khoảnh 
khắc, tức là cái khoảng thời gian ngắn nhất.  “Ba ngàn” ở 
đây tức 
là ba ngàn thế giới.  
 
“Một niệm ba ngàn” -- 
nếu nói cho đầy đủ là “trong một niệm có đầy đủ ba ngàn thế 
giới” – 
là một mệnh đề khai triển từ mệnh đề “Một là tất cả, tất cả là 
một” 
ở trên.  Đó là một trong những điểm đặc sắc của giáo lý tông 
Thiên-thai 
(Trung-hoa).  Vị tổ của tông này, đại sư Trí-Giả (tức Trí-Khải), 
trong bộ 
luận Ma Ha Chỉ Quán, đã chia ra có 10 loại thế giới trong 
vũ trụ:
 
- 
Địa-ngục: thế giới của đau khổ vô 
cùng.
 
- 
Ngạ-qủi: 
thế giới của đói khát và bẩn thỉu cùng cực.
 
- 
Súc-sinh: thế giới của loài vật, 
của ngu 
si tăm tối.
 
- 
A-tu-la: 
thế giới của hận thù, cuồng bạo, chém giết.
 
- 
Người: 
thế giới của loài người, hạnh phúc và đau khổ đều có mặt.
 
- 
Trời: 
thế giới của an vui, phước đức cao hơn loài người.
 
- 
Thanh-văn: thế giới giải thoát do 
kết quả 
của công phu tu học theo đức Phật mà được giác ngộ.
 
- 
Duyên-giác: thế giới giải thoát do
kết quả 
của công phu tự mình quán chiếu thực tại mà được giác ngộ, đó là
một đức 
Phật nhưng không giảng dạy cho kẻ khác.
 
- 
Bồ-tát: 
thế giới của những vị luôn luôn đem tình thương yêu, trí hiểu 
biết, lòng 
cởi mở và chí dũng mãnh để phục vụ và giúp ích cho mọi loài, và 
tinh 
tiến tu tập mãi cho đến ngày thành Phật.  Nói cách khác, đó là 
những vị 
Phật tương lai. 
 
- 
Phật: 
thế giới của các bậc giác ngộ và giải thoát hoàn toàn.
 
 
Giáo lý tông Thiên-thai nói rằng, mười thế giới
ấy 
tương dung tương thiếp lẫn nhau, mỗi thế giới đều mang trong nó cả
9 thế 
giới kia.  Trong thế giới người chẳng hạn, cũng có sự hiện hữu của
các thế 
giới Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Súc-sinh, A-tu-la, Trời, Thanh-văn, 
Duyên-giác, 
Bồ-tát và Phật.  Như vậy, trong vũ trụ không phải chỉ có 10 thế 
giới riêng 
lẻ, biệt lập nhau, mà có đến (10x10) 100 thế giới tương 
quan tương 
duyên với nhau.  Sự hiện hữu của một thế giới bao hàm sợ hiện hữu 
của cả 
một trăm thế giới. 
 
Lại nữa, tất cả 100 thế giới này đều có cùng 
chung 10 
tính chất.  Đó là 10 điều kiện tồn tại của các thế giới mà giáo lý
tông 
Thiên-thai gọi là 10 “như”[2],
gồm có: 1) tướng (hình dáng bên ngoài); 2) tánh (cá 
tính bên 
trong); 3) thể (yếu tố hình thành); 4) lực (năng lực
nội 
tại); 5) tác (tác dụng do năng lực mà có);  6) nhân 
(nguyên 
nhân đưa đến kết quả); 7) duyên (điều kiện giúp cho nhân 
kết thành 
quả); 8) báo (quả báo nối tiếp do nhân, duyên và quả ở trên
đem 
lại); 10) bổn mạt cứu cánh (từ điều kiện 1 cho đến điều 
kiện 9, 
hoàn toàn đều là “như” -- tức là tất cả đều là không, vì 
chính 
không là bản thể của vạn hữu)2.  
Mỗi thế giới đều có 10 “như”; vậy 100 thế giới có (100x10)
1.000 “như” – cũng tức là 1.000 thế giới tương quan tương 
duyên với 
nhau.
 
Cả 3.000 thế giới ấy không ra ngoài một niệm, 
cho nên 
gọi là “một niệm ba ngàn”; cũng như kinh Hoa Nghiêm nói, một niệm 
không 
những bao quát cả quá khứ, hiện tại, vị lai, mà còn bao gồm cả 
không gian 
và vật thể.  Hay nói cách khác, bất cứ một niệm nào của tâm cũng 
bao gồm 
cả vũ trụ vạn hữu. 
 
 
MỘT TÂM BA PHÉP 
QUÁN
(nhất tâm tam quán)
 
Đây cũng là một yếu nghĩa của giáo lý tông 
Thiên-thai.  
Đại sư Trí-Giả đã phối hợp giáo lý “ba phép quán” (tam 
quán) 
trong kinh Anh Lạc với tư tưởng “không có ngăn cách  
giữa không 
và có” (không hữu vô ngại) của Bồ-Tát Long-Thọ mà lập 
nên giáo 
nghĩa “một tâm ba phép quán”, là một trong những giáo lý 
nền tảng 
của tông Thiên-thai.  Ba phép quán là:
1.     
Không: 
quán niệm rằng tất cả mọi hiện tượng đều nương nhau mà có, cho nên
chúng 
không có bản chất chân thật, tất cả đều là không.
2.     
Giả: 
quán niệm rằng tất cả mọi sự vật đều biến đổi luôn luôn (vô 
thường), 
không có tính đồng nhất; tuy chúng có hiện hữu, nhưng sự hiện hữu 
của 
chúng chỉ là giả tạm, không có gì tồn tại vĩnh viễn. 
3.     
Trung đạo: 
quán niệm rằng tất cả mọi hiện tượng vừa là không mà cũng 
vừa là 
giả, đồng thời, không phải là không mà cũng không phải 
là 
giả. 
 
Ba phép quán này, nếu quán niệm một cách có thứ
tự -- 
trước hết là quán niệm về không, thứ đến là về giả, 
sau cùng 
là về trung – thì gọi là “thứ đệ tam quán”; nhưng đó
không 
phải là chủ trương của tông Thiên-thai.  Đại sư Trí-Giả của tông 
Thiên-thai đã phát triển ba phép quán trên đây đến chỗ viên dung, 
không 
ngăn cách, không thứ tự trước sau, vượt tất cả khái niệm: trong một
phép quán gồm đủ cả ba phép quán, cho nên gọi là “nhất tâm 
tam 
quán” – hay cũng gọi là “viên dung tam quán”, “bất thứ đệ 
tam 
quán”, “bất khả tư nghị tam quán”.
 
Ba phép quán trên đây là ba chân lý của tông 
Thiên-thai: chân lý của Không, chân lý của Giả, và 
chân lý 
của Trung đạo.  Ba chân lý này không cách biệt nhau mà dung
nhiếp 
nhau, ba trong một, một trong ba.  Mỗi một trong ba đều có giá trị
toàn 
diện.  Vậy, “một tâm ba phép quán” là phép quán niệm như 
sau:
 
- 
Khi quán 
niệm về không, một cái đã là không thì tất cả cũng đều là
không; 
cả giả và trung cũng đều không (nhất không nhất
thiết 
không).
 
- 
Khi quán 
niệm về giả, một cái đã là giả thì tất cả cũng đều là 
giả; cả 
không và trung cũng đều giả (nhất giả nhất thiết 
giả).
 
- 
Khi quán 
niệm về trung, một cái đã là trung thì tất cả cũng đều là
trung; 
cả không và giả cũng đều trung (nhất trung nhất
thiết 
trung).
 
 
Cũng cần nói thêm, “trung” không có 
nghĩa là ở 
giữa hai, mà là ở trên, vượt cả hai;  cũng có thể nói nó là cả 
hai.  
“Trung” chính là thực tướng, gồm có không tướng và giả
tướng.  
Cả ba chân lý: không, giả và trung luôn luôn hợp 
nhất, dung 
hoà và bao hàm lẫn nhau.  
 
CHÚ THÍCH:
[1]   Xin 
xem thêm các mục “Hai Con Đường” và “Ba Con Đường” ở sau. 
 
CHÚ THÍCH:
[2].  Chữ 
“như” có nghĩa là thể tính bình đẳng, không phân biệt, không 
có hai, 
là thật tướng của vạn pháp.  Kinh Pháp Hoa nói: “Những gì Phật
đã 
thành tựu đều là pháp tối thượng, hiếm có, khó hiểu.  Chỉ có 
chư Phật 
mới thấu suốt được thật tướng của tất cả các pháp, tức là tất 
cả các 
pháp đều có tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, nhân như
vậy, 
lực như vậy, tác như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như 
vậy, bốn 
mạt cứu cánh như vậy.”
 
2. 
Xin xem Trái Tim Mặt Trời (Chương Bốn) của thiền sư 
Nhất-Hạnh để 
hiểu thêm về “như” và “không”.