Một
sự thật hiển nhiên lay thức những ai từng đi về với cửa Khổng - sân 
Trình: “Tâm” của Đức Phật hòa điệu với “Tâm” Nho giáo, để đạo Phật và 
đạo Nho chung một tổ ấm: “Tâm chủ tư” là trái tim chúa tể của CON NGƯỜI 
chủ trì toàn bộ thế giới tâm linh bao gồm cả tình cảm, trí tuệ và ý chí 
nghị lực. Cho nên, ai đã qua Nho giáo, đọc câu “Trong các pháp, tâm dẫn 
đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác”, liền réo vang trong đầu câu nói của nhà 
cự Nho Vương Dương Minh: “Tâm giả nhất thân chi chủ tể, tình chi phát”, ý
nghĩ là trí tuệ cũng từ đó mà có được, và cũng từ đó sản sinh ý chí 
nghị lực. Vậy nên, một Phật tử, một Nho sĩ, cũng như những số kiếp trần 
gian mà bao đời đã tắm trong lễ nghi Nho giáo, đụng đến “tâm” là đụng 
đến những gì thiêng liêng cao cả cũng đồng thời ôm bao uẩn khúc thương 
đau của CON  NGƯỜI.
     “Tâm
dẫn đầu” là trước và trên tâm chả có gì  cả. Là tâm,  cũng là CON NGƯỜI
mang cái tâm chúa tể ấy, đầu đội trời, chân đạp đất, đứng giữa vòng vũ 
trụ bao la thực thi thiên chức. Cũng có nghĩa, tâm đủ sáng suốt thích 
ứng trước mọi thử thách của hoàn cảnh, không hề chờ đợi ngoại lai. Nói 
theo quan niệm Phật giáo, là tâm đủ sáng suốt để  nhận rõ “vui thanh  
cao hay  vui thô  trược”,  “buồn thanh  cao, hay  buồn thô  trược”,  hay
“không vui không buồn thanh cao” hoặc “không vui không buồn thô trược”.
Nói gọn lại, “Tâm dẫn đầu” là tâm trí tuệ, ý thức rõ tầm vóc và chức 
năng của mình trước nhân sinh vũ trụ và luôn luôn” tùy kì thời, tùy kì 
thế, tùy kì cảnh, tùy ngộ nhi yên” là luôn cụ thể tình huống để thích 
ứng tròn đầy, mà vòng hào quang “thích ứng tròn đầy” ấy đã chất chứa bao
anh hoa trí tuệ và uẩn khúc nhân tình.
   “Tâm 
làm  chủ”  là  cái  tâm  không nghiêng ngả trước mọi ghềnh thác thế 
gian, mặc dù không thiếu những ma quỷ hung thần xô đẩy. Là cái tâm đủ 
sức mạnh vượt lên trên mọi thứ trò làn điệu thế tục để xốc tới, từ một ý
chí bản lĩnh rất tự tôn tự trọng.
  Cái
phông “làm chủ” tùy thuộc vào lí tưởng sống của CON  NGƯỜI. Một cá nhân
bước vào đời luôn nơm nớp lo giữ không nghiêng ngả để  bảo toàn phẩm 
cách tự tôn tự trọng thiên bẩm đã đẹp, vậy mà Đức Thế Tôn bước vào đời 
lại luôn nơm nớp lo giữ hạnh phúc của nhân quần xã hội, lo nghĩ cách tế 
độ nhân loại chúng sinh: “Tuy là giới của ta chế, nhưng ở địa phương 
khác không cho là thanh tịnh thì đều không được dùng. Tuy chẳng phải là 
giới ta chế, nhưng ở địa phương khác phải nên làm thì không được chẳng 
làm”, ôi cái phông “làm chủ” của Người mênh mang như trời biển bao la. 
Và từ cái phông “làm chủ” của Người toát lên một lí tưởng sống: Mọi việc
làm đều tùy thuộc vào nhu cầu thực tế khách quan, để từ đó nổi rõ một 
quan điểm duy vật rất trí tuệ.
  Cái
phông “làm chủ” của một tầm vóc luôn tìm kiếm cách tế độ nhân loại 
chúng sinh. Có lúc nó trải ra mênh mang  trời biển, và có khi nó đòi hỏi
một đức hi sinh cao vời  vợi như tháp trụ, làm cho mọi vọng ngôn tà đạo
phải run sợ: “Bồ Tát đạo rất khó, ta đã không tiếc thân mạng hi sinh 
rất nhiều để cứu độ chúng sinh - Làm một vị Bồ Tát dĩ nhiên không được 
làm ác và tạo tội, nhưng vì cứu độ chúng sinh cũng quyết không sợ, vì 
cứu độ chúng sinh mà chính mình phải làm ác và tạo tội”. Ôi! Muôn kiếp 
không mờ.
  Nhất
là khi Người, Đức Thế Tôn, tự “chủ” vứt bỏ ngai vàng lầu son gác tía, 
nửa đêm lén nhìn cha già, vợ dại, con thơ qua khe cửa, rồi lặng lẽ dấn 
thân vào muôn trùng gian nguy khổ hạnh để tìm đường cứu độ nhân loại 
chúng sinh, thiết nghĩ cõi trần gian này khó có gì để so sánh.
  “Tâm
tạo tác” với tâm tạo tác, Đức Thế Tôn chỉ giáo cho đệ tử hai điều: 
“Một, trong  “Tập  A  Hàm”  quyển  4,  Ngài khuyên mọi người: phải có 
phương tiện nghề nghiệp đủ để tự mưu sinh. Hai, là “tạo” dựng một sự 
nghiệp, hay “tác” hành trong một sự nghiệp nào đó, tác là đi vào thực 
hiện ước mơ hoài bão, phải hết mình với đầu óc sáng “tạo”, tuyệt đối  
không theo đường mòn, lối cũ. Và Người đã chỉ giáo về yêu cầu này, một 
chỉ giáo đanh thép như lời Tuyên ngôn: “Đừng vội tin một điều gì vì đó 
là truyền thống, vì được ghi trong sách hoặc được suy luận theo lôgích 
đơn giản, hoặc là do hiểu biết hời hợt, hoặc là do hứng thú vào một học 
thuyết nào đó, hoặc là vì điều ấy có vẻ thích hợp, hoặc là vì kính trọng
một bậc đạo sư. Chỉ chấp nhận những  gì mà theo sự  thể nghiệm trực 
tiếp của bản thân, đem lại hạnh phúc cho mình và tất cả mọi người khác, 
thì hãy thừa nhận những điểm ấy là chân lí và hãy sống theo chân lí ấy” 
(Kinh Kalama, trang 189).
  Lí
tưởng của Đức Thế Tôn là sống hết mình với “chân lí” mà “chân lí” phải 
thể nghiệm trực tiếp của đời mình, với mục đích “đem lại hạnh phúc cho 
mình và tất cả mọi người khác”.
  Chỉ
một nét khắc họa “Tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác”, mà nổi lên 
một hình tượng cao vọi giữa nhân sinh vũ trụ, với vầng trán tĩnh lặng 
trước mọi khốn nguy mà cả ma quỷ hung thần phải run sợ, với ánh mắt đầm 
ấm ôm ấp cả thế gian. Nhất là, hình tượng ấy được coi là, tự khẳng định 
là nguồn gốc của mọi nghiệp báo thế gian:
  -
Nói năng và hành động với tâm thanh tịnh, sự vui sẽ theo nghiệp kéo đến
như bóng theo hình - Nói năng và hành động với Tâm ô nhiễm, khổ đau sẽ 
theo nghiệp kéo đến như bánh  xe lăn theo dấu chân con thú kéo xe - 
Những ai không sa vào khoái lạc, khôn khéo nhiếp hộ sáu căn, ăn uống 
sinh họat điều độ, vững tin và siêng năng, như núi đá trước các làn gió.
Những ai chỉ lăn vào khoái lạc, không chịu nhiếp hộ sáu căn, ăn uống 
sinh hoạt vô độ, biếng nhác chẳng tinh cần, chả khác cành mềm trước cơn 
gió lốc...
  Đó là mấy câu tiêu biểu trong 20 bài kệ của Phẩm Song Yếu, phẩm mở đầu Kinh Pháp Cú  rằng,
mọi nỗi vui sướng hay khổ đau, thọ trường hay yểu chiết, thanh thản ung
dung hay day dứt ưu phiền..., nhất nhất đều do nghiệp báo từ sự sống, 
cách sống của CON  NGƯỜI. Tuyệt nhiên không hề có chuyện ngoại lai. Có 
nghĩa, đời là chuỗi dài những  quả báo “Thiện giả thiện lai, ác giả ác 
báo”.
  Đức
Thế Tôn đề cao Tâm chúa tể là nguồn gốc mọi quả báo nhân sinh trong bối
cảnh nước ấn Độ hiện tồn bốn giai cấp: giáo sĩ, vua chúa, nông thương 
và nô lệ hạ lưu, mà lớp giáo sĩ và vua chúa dẫm đạp lên quyền sống CON  
NGƯỜI chả khác gì thú vật. Lại còn Thần Phạm Thiên uy linh tối thượng, 
tự quyết mọi nỗi thế gian, thân phận CON  NGƯỜI leo teo chả khác cái 
cuống rác bên đường. Giữa bối cảnh ấy, Đức Thế Tôn nhìn CON  NGƯỜI mang 
cái Tâm chúa tể là nguồn gốc mọi quả báo nhân sinh. Rõ ràng, CON  NGƯỜI 
“Tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác” của Đức Thế Tôn có địa vị tôn 
nghiêm vượt lên trên mọi giai cấp xã hội ấn Độ, ngang tầm Thần Phạm 
Thiên, sừng sững giữa vũ trụ bao la, tự quyết mọi quả báo của đời mình.
  Đã thế, Đức Thế Tôn còn trao cho CON  NGƯỜI danh nghĩa “Mỗi người là một Thượng Đế của chính mình” (trang 95).
  Nhìn
ra, ta thấy các tôn giáo khuôn mình trong vòng cương tỏa: Quyết định sự
sống chết, vui buồn, thọ yểu, giàu nghèo của kiếp người, là nhờ lượng 
Thượng Đế, Chúa Trời, Thần Thánh. Riêng Đức Thế Tôn lại khẳng định CON  
NGƯỜI tự quyết mọi quả báo của đời mình, rõ ràng Đạo Phật là Đạo CON  
NGƯỜI.
   Hình
tượng cao vời vợi giữa nhân sinh vũ trụ, vượt lên trên các giai cấp xã 
hội Ấn Độ đương thời, ngang tầm Thần Phạm Thiên, và được chính Đức Thế 
Tôn phong tặng “Mỗi người là một Thượng Đế của chính mình” ấy, là luồng 
hào quang rực sáng bao quanh luận đề “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm 
làm chủ, tâm tạo tác” và chính là tấm gương cho mọi lớp người thấy rõ 
định phận của đời mình. Và cao hơn, đòi hỏi mọi lớp người tự quyết định 
phận của mình. Vui hay buồn? Thọ hay yểu? Giàu hay nghèo? Day dứt khổ 
đau hay ung dung thanh thản? là chính anh, là chính Thượng Đế tâm linh 
anh tự quyết.
   Mà
chả có gì huyền bí, xa lạ. Hoài Nam Tử nói: “Tích vu nhu tắc cương. 
Tích vu nhược tắc cương. Quan kì sở tích, tri họa phúc chi hương”, sống 
mềm dẻo khéo léo thì tự mình làm chủ đời mình, cũng có nghĩa sống hung 
hãn bạo tàn là tự hủy diệt. Nhìn cách sống của anh, đã thấy rõ phúc họa 
ngày mai của anh rồi. Tiến sĩ Trần Đức Công nói: “Thế giới khách quan sẽ
không còn phải là khách quan nữa nếu ta nhận thấy nó chỉ là “sản phẩm” 
của A lại da thức của chúng ta, vì vậy “tạo” và vật “thọ  tạo” là  
“một”. Thế  giới  khách quan chỉ là hiện hữu tấm gương quy luật quả báo 
của CON  NGƯỜI. Liệu mà sống, để tiếng thơm sống mãi./.
  Đỗ Đức Thịnh