Mùa xuân đến như báo hiệu với chúng ta một tương lai tốt đẹp 
đang đến gần, giống như vừng rạng đông báo hiệu một ngày mới, tươi sáng 
đang đến gần vậy. 
																
Dù chưa đủ xua tan màn đêm còn sót lại, ánh rạng đông là tín 
hiệu đáng vui mừng và tin tưởng, vì nó báo hiệu bóng tối đang lùi dần, 
nhường chỗ cho ánh sáng mặt trời tỏa ấm và soi sáng muôn vật. Chúng  
ta đang đón tiếp một mùa Xuân dân tộc với một niềm tin tưởng như vậy về 
quê hương đất nước chúng ta. Mặc dù còn nhiều khó khăn cần khắc phục và
vượt qua, xã hội Việt Nam đã có những bước chuyển biến tích cực nhằm  
phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức dân tộc và nhằm hòa nhập vào trào
lưu tiến bộ chung của thế giới; và chúng ta tin tưởng một tương lai  
tốt đẹp đang đến gần với con người và đất nước Việt Nam. Đó là tín hiệu 
mùa Xuân đối với mọi người Việt Nam chúng ta.
Đối với người Phật tử thì mùa Xuân còn là tín hiệu của điềm lành, của
phước nghiệpđang đến gần, đang chào đón chúng ta, những người làm 
lành,  giống như bà con và bạn hữu đang vui mừng chào đón sự trở về của 
người  khách viễn xứ vậy:
"Khách lâu ngày ly huơng,
 An toàn từ xa về,
 Bà con cùng thân hữu,
 Hân hoan đón chào mừng.
Cũng vậy các phước nghiệp,
 Đón chào người làm lành,
 Đời này và đời sau,
 Như thân nhân đón chào". (Pháp Cú, 219-220)
Người khách ly hương quay về xứ sở, góp sức mình cùng xây dựng quê  
hương tốtđẹp. Cũng vậy, các phước nghiệp quay về với người làm lành,  
gióng tiếng nói cho cuộc sống thêm đẹp, cho đời thêm tươi.
Hòa chung niềm vui của đất nước đang có những chuyển biến tốt đẹp,  
người Phật tử Việt Nam chúng ta càng tin tưởng và nỗ lực nhiều hơn nữa  
trong nếp sống thiện, nếp sốngđạo đức và nêu cao nét đẹp đạo đức của  
mình, vì chúng ta hiểu rằng, chỉ có nếp sống thiện, nếp sống đạo đức mới
xây dựng được một xã hội tốt đẹp, một đất nước thật sự phát triển và  
ổn định. Nhân dịp này, chúng tôi muốn giới thiệu với quý vị bài  
kinh "Giáo Giới Rahula", như là phương pháp sống đạo đức của người Phật 
tử, mở đường cho hạnh phúc và an lạc của tự thân, gia đình và xã hội,  
một bài kinh đã được vua A-dục cho khắc vào bia ký và yêu cầu cả giới  
xuất gia và tại gia cần phải tụng đọc và hành trì hằng ngày.
Bài kinh này (Kinh số 61, Trung Bộ) do đức Phật giảng dạy cho Tôn giả
Rahula khi Tôn giả còn là Sa-di, đang tập sự làm người xuất gia hành  
Sa-môn hạnh. Sa-môn hạnh là nếp sống chuyên đào luyện thân tâm dựa trên 
pháp môn Giới, Định, Tuệ của đức Phật. Bài kinh được tóm tắt như sau:
Hôm ấy, đức Phật đến thăm Tôn giả Rahula đang sống tu tập tại ngôi  
rừng Ambalatthika.Tôn giả Rahula đón tiếp bậc Đạo sư của mình với một  
tâm tư hoan hỷ và một vài nghi thức cần thiết như sửa soạn chỗ ngồi, múc
nước rửa chân, kính lễ bậc Đạo sư... Rồi đức Phật, trong khi đang rửa 
chân, đã dùng ảnh dụ "chậu nước rửa chân", để dạy cho Tôn giả Rahula về
hạnh không nói láo, bởi biết mà nói láo là hành vi được xem là phi  
Sa-môn hạnh, khiến Sa-môn hạnh trở nên bị kém cỏi, bị đổ bỏ, bị lật úp, 
trở thành trống rỗng, giống như ảnh dụ cái chậu nước rửa chân vậy.
Tiếp theo, đức Phật dùng ví dụ hai con voi lâm trận để minh họa hai  
nếp sống khác nhau. Thứ nhất là nếp sống biết phòng hộ lời nói (không  
nói láo), được ví cho con voi thứ nhất, biết giữ gìn và bảo vệ cái vòi  
khi lâm trận, nên không quăng bỏ mạng sống của nó nơi chiến địa, là nếp 
sống đáng thực hành, đáng học tập. Thứ hai là nếp sống không phòng hộ  
lời nói (nói láo), được ví như con voi thứ hai, không biết giữ gìn và  
bảo vệ cái vòi khi lâm trận, nên cuối cùng con voi ấy đành quăng bỏ mạng
sống của mình nơi trận mạc, là nếp sống không nên thực hành; bởi vì,  
khi người ta không chú ý đến việc phòng hộ lời nói, khi người ta nói láo
mà không biết tàm quý xấu hổ thì điều đó sẽ có nghĩa là con người ta 
có  thể làm nhiều việc tệ hại hơn, giống như con voi lâm trận nhưng 
không  khéo gìn giữ, bảo vệ cái vòi của nó, con voi ấy sẽ không từ bỏ 
bất cứ  một hành động độc ác nào.
Sau cùng, đức Phật lại dùng ví dụ "chiếc gương soi" để huấn luyện cho
Tôn giả Rahula phương pháp thanh tịnh hóa ba nghiệp–thân, khẩu, ý– 
bằng  cách xem xét và phản tỉnh nhiều lần đối với mỗi hành vi của ba 
nghiệp,  trước khi làm, trong khi làm và sau khi làm, khiến cho ba 
nghiệp được  thanh tịnh, không rơi vào các hành động phi pháp, phi đạo 
đức. Đức Phật  khuyên Tôn giả Rahula nên thực hành pháp môn này, bởi 
vì đó là phương  pháp tịnh hóa ba nghiệp mà bất kỳ Sa-môn hay Bà-la-môn 
nào, dù ở quá  khứ, hiện tại hay vị lai, muốn trang nghiêm thanh tịnh ba
nghiệp của  mình đều thực hành theo phương pháp này.
Như vậy, nếp sống đạo đức của người Phật tử, như được mô tả trong bài
kinh Giáo Giới Rahula, là nếp sống chuyên phòng hộ và tu tập ba 
nghiệp,  không để cho ba nghiệp rơi vào hành vi ác, bất thiện. Người 
Phật tử là  người phát nguyện đi theo con đường giác ngộ của đức Phật, 
do đó, bất cứ  hành vi nào chống lại sự giác ngộ, chống lại khả năng tự 
hoàn thiện  nhân cách giác ngộ ấy đều được người Phật tử nhận chân và 
ngay lập tức  tìm cách loại bỏ nó. Nếp sống đạo đức của người Phật tử là
nếp sống biết  làm điều gì và không làm điều gì.
Không làm mọi điều ác,
 Thành tựu các hạnh lành,
 Giữ tâm ý trong sạch,
 Chính lời chư Phật dạy. (Pháp Cú, 183)
Bài kệ trên đã khái quát rõ một nếp sống mà người Phật tử cần phải  
chọn lựa. Để tìm thấy hạnh phúc, Phật tử không những từ bỏ các điều ác, 
mà còn phải làm các điều lành, bởi chỉ có thân làm lành, miệng nói 
lành,  ý nghĩ lành mới có thể xây dựng một đời sống đạo đức, hạnh phúc 
lành  mạnh. Nếp sống đạo đức của người Phật tử bắt đầu từ việc bỏ ác làm
lành.
Có mười hành vi thường được nói đến trong giáo lý đạo Phật liên quan đến ba nghiệp thân, khẩu, ý gồm:
– Sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, thuộc thân nghiệp.
 – Nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm; thuộc khẩu nghiệp.
 – Tham dục, sân hận, tà kiến; thuộc ý nghiệp.
Mười hành vi này, nếu làm thì gọi là ác hay bất thiện, không làm hay 
từ bỏ thì gọi là thiện, và phương pháp tịnh hóa ba nghiệp như được nói 
trong bài kinh Giáo Giới Rahula chính là nếp sống tử bỏ mười điều ác và
làm mười điều thiện này. Dĩ nhiên, người Phật tử sẽ không bao giờ nhầm
lẫn giữa hai nếp sống thiện và bất thiện bởi giáo lý của đức Phật luôn
luôn phân định rõ ràng biên giới giữa thiện và bất thiện. Một vài định
nghĩa sau đây sẽ giúp soi sáng thái độ chọn lựa của người Phật tử.
"Chư Hiền, thế nào là bất thiện? Chư Hiền, sát sanh là bất thiện, lấy
của không cho là bất thiện, tà hạnh trong các dục là bất thiện, nói 
láo  là bất thiện, nói hai lưới là bất thiện, nói lời độc ác là bất 
thiện,  nói lời phù phiếm là bất thiện; tham dục là bất thiện, sân hận 
là bất  thiện, tà kiến là bất thiện.
Chư Hiền, thế nào là thiện? Chư Hiền, từ bỏ sát sanh là thiện, từ bỏ 
lấy của không cho là thiện, từ bỏ tà hạnh trong các dục là thiện, từ bỏ
nói láo là thiện, từ bỏ nói hai lưỡi là thiện, từ bỏ nói lời độc ác là
thiện, từ bỏ nói lời phù phiếm là thiện; từ bỏ tham dục là thiện, từ 
bỏ  sân hận là thiện, từ bỏ tà kiến là thiện" (Trung Bộ I, Kinh Chánh 
Tri  Kiến, số 9).
GIẢI PHÁP HAY NẾP SỐNG ĐẠO ĐỨC ĐƯỢC ĐỀ BẠT TRONG BÀI KINH
I. Nếp sống từ bỏ mọi điều ác bằng cách xem xét và phản tỉnh về ba nghiệp thân, khẩu ý.
"Này, Rahula, khi ông muốn làm một thân, khẩu, ý nghiệp gì, hãy phản 
tỉnh như sau: "Thân, khẩu, ý nghiệp này ta muốn làm; thân, khẩu, ý  
nghiệp này của ta có thể đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai, thời  
thân, khẩu ý nghiệp này là bất thiện, đưa đến khổ đau, đem lại quả báo  
khổ đau". Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng thân, khẩu, ý
nghiệp ông muốn làm ấy có thể đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai,  
thời thân, khẩu, ý nghiệp ấy là bất thiện, đưa dến khổ đau, đem lại quả 
báo khổ đau, thời này Rahula, một thân, khẩu, ý nghiệp như vậy ông  
nhất định chớ có làm.
"Này Rahula, khi ông đang làm một thân, khẩu, ý nghíệp gì, ông cần  
phải phản tỉnh như sau: "Thân, khẩu, ý nghiệp này ta đang làm; thân,  
khẩu, ý nghiệp này của ta có thểđưa đến tự hại, hại người, hại cả hai,  
thời thân, khẩu, ý nghiệp này là bất thiện, đưa đến khổ đau, đem lại quả
báo khổ đau”. Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng thân, 
khẩu, ý nghiệp ông đang làm ấy có thể đưa đến tự hại, hại người, hại cả
hai, thời thân, khẩu ý nghiệp ấy là bất thiện, đưa đến khổ đau, đem 
lại  quả báo khổ đau, thời này Rahula, ở đây ông hãy từ bỏ thân, khẩu, ý
nghiệp như vậy.
"Này Rahula, sau khi làm xong một thân, khẩu, ý nghiệp gì, ông cần  
phải phản tỉnh như sau: "Thân, khẩu, ý nghiệp này ta đã làm; thân, khẩu,
ý nghiệp này của ta có thểđưa đến tự hại, hại người, hại cả hai, thời 
thân, khẩu, ý nghiệp này là bất thiện, đưa đến khổ đau, đem lại quả báo
khổ đau”. Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng thân, 
khẩu, ý  nghiệp ông đã làm ấy có thể đưa đến tự hại, hại người, hại cả 
hai, thời  thân, khẩu ý nghiệp ấy là bất thiện, đưa đến khổ đau, đem lại
quả báo  khổ đau, thời này "Rahula, một thân, khẩu, ý nghiệp như vậy 
ông cần phải  lo âu, tàm quý, nhàm chán, ông cần phải thưa lên, cần phải
tỏ lộ, cần  phải trình bày trước vị Đạo sư hay trước các vị đồng Phạm 
hạnh có trí.  Sau khi lo âu, tàm quý, nhàm chán, thưa lên, tỏ lộ trình 
bày, ông cần  phải phòng hộ trong tương lai" (Trung Bô Kinh I, số 61, 
kinh giáo giới  La-hầu-La ở rừngAmbala).
II. Nếp sống làm các điều lành qua việc xem xét và phản tỉnh về ba nghiệp.
"Này Rahula, khi ông muốn làm một thân, khẩu, ý nghiệp gì, hãy phản  
tỉnh như sau: "Thân, khẩu, ý nghiệp này ta muốn làm; thân, khẩu, ý  
nghiệp này của ta không có thểđưa đến tự hại, hại người, hại cả hai,  
thời thân, khẩu ý nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo  
an lạc”. Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng thân, khẩu, ý
nghiệp ông muốn làm ấy không có thể đưa đến tự hại, hại người, hại cả 
hai; thân, khẩu, ý nghiệp ấy là thiện, đưa đến an lạc, đem lại quả báo 
an lạc, thời này Rahula, một thân, khẩu, ý nghiệp như vậy ông nên làm.
"Này Rahula, khi ông đang làm một thân, khẩu, ý nghiệp gì, ông cần  
phải phản tỉnh như sau: "Thân, khẩu, ý nghiệp này ta đang làm; thân,  
khẩu, ý nghiệp này của ta không có thể đưa đến tự hại, hại người, hại cả
hai, thời thân, khẩu? Ý nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem lại  
quả báo an lạc”. Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng thân,
khẩu, ý nghiệp ông đang làm ấy không có thể đưa đến tự hại, hại người,
hại cả hai; thân, khẩu, ý nghiệp ấy là thiện, đưa đến an lạc, đem lại 
quả báo an lạc, thời này Rahula, một thân khẩu, ý nghiệp như vậy ông 
cần  phải tiếp tục làm.
"Này Rahula, sau khi làm xong một thân, khẩu, ý nghiệp gì, ông cần  
phải phản tỉnh như sau: "Thân, khẩu, ý nghiệp này ta đã làm; thân, khẩu,
ý nghiệp này của ta không có thể đưa đến tự hại, hại người, hại cả 
hai,  thời thân, khẩu, ý nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem lại 
quả báo  an lạc”. Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng 
thân, khẩu, ý  nghiệp ông đã làm ấy không có thể đưa đến tự hại, hại 
người, hại cả  hai; thân, khẩu, ý nghiệp ấy là thiện, đưa đến an lạc, 
đem lại quả báo  an lạc, thời này Rahula, ông cần phải an trú trong niềm
hoan hỷ, tự mình  tiếp tục tu học ngày đêm trong các thiện pháp" (Trung
Bô Kinh I, số 61,  kinh giáo giới La-hầu-La ở rừngAmbala).
Giải pháp hay nếp sống đạo đức như được gợi ý ở các đoạn kinh trên là
hết sức căn bản và rõ ràng. Đạo đức ở đây là đồng nghĩa với việc bỏ ác
làm lành, là một nếp sống thiết thực có cân nhắc chọn lựa vừa thiện và
bất thiện, chớ không có mơ hồ, tưởng tượng. Bởi các nghiệp sẽ đưa đến 
ác  báo, khổ đau và thiện nghiệp đưa đến thiện báo, an lạc; do đó, sống 
đạo  đức, bỏ ác làm lành, cũng có nghĩa là sống hạnh phúc. Có rất nhiều ý
kiến khác nhau xoay quanh khái niệm hạnh phúc, nhưng đạo Phật nhấn 
mạnh  hạnh phúc của nếp sống bỏ ác làm lành. Quả vậy, với tiêu chuẩn 
thiện ác  rõ ràng, không lẫn lộn, người Phật tử có thể quyết định số 
phận khổ đau  hay hạnh phúc của chính mình qua nếp sống thiện hay bất 
thiện, như đức  Phật đã chỉ rõ:
"Nếu với ý ô nhiểm,
 Nói lên hay hành động,
 Khổ não bước theo sau,
 Như xe, chân vật kéo". (Pháp Cú 1)
Hay là :
"Nếu với ý thanh tịnh,
 Nói lên hay hành động,
 An lạc bước theo sau,
 Như bóng không rời hình". (Pháp Cú, 2)
Một vài nhận xét về bài kinh:
Tiếp theo, chúng tôi xin trình bày với quý vị một vài nhận xét về bài kinh vừa nêu.
Trước hết, Giáo Giới Rahula là bài kinh căn bản giúp xây dựng nếp  
sống thiện, nếp sống đạo đức, hạnh phúc cho người Phật tử. Nếp sống đạo 
đức của người Phật tử là nếp sống bỏ ác làm lành. Bài kinh cần được các
Phật tử lưu tâm học thuộc lòng nhiều đoạn, nhất là các đoạn nói về 
cách  từ bỏ ba nghiệp ác, thực hành ba nghiệp thiện qua việc xem xét và 
phản  tỉnh nhiều lần, trước khi làm, trong khi làm và sau khi làm ba 
nghiệp.
Bài kinh chỉ nêu lên cách thức quán sát và phản tỉnh về ba nghiệp  
thân, khẩu, ý, mà không đề cập cụ thể các hành vi thường đi liền với ba 
nghiệp. Do đó, một sự liên kết mười thiện nghiệp hay mười ác nghiệp gắn
liền với thân, khẩu, ý là hết sức cần thiết trong khi thực hành phương
pháp thanh tịnh hóa ba nghiệp này.
– Sự xem xét và phản tỉnh về ba nghiệp là rất quan trọng trong pháp  
môn thanh tịnh hóa ba nghiệp, bởi vì, có xem xét và phản tỉnh nhiều lần 
thì mới đoan chắc điều gì nên làm và điều gì không nên làm. Có thể nói,
cốt lõi của bài kinh là nằm ở chỗ này, tức là sự xem xét và phản tỉnh 
về  những gì muốn làm, đang làm hay đã làm bởi thân, khẩu, ý; vì nếu 
không  có sự xem xét hay phản tỉnh về ba nghiệp thì không thể có sự 
phòng hộ  hay tu tập ba nghiệp. Tương tự, thái độ xem xét thành thật về 
ba nghiệp,  thiện hay ác, là hết sức cần thiết nhằm chặn đứng điều ác, 
nếu có, và  nhằm khích lệ các điều thiện đã làm.
– Thiện hay ác không dễ dàng đến với mình nếu không do sự tích lũy  
dần dần trong cuộc sống. Một cuộc đời chứa đầy ác, ấy là do thái độ xem 
thường của con người đối với các điều ác nhỏ nhặt được tích lũy lâu 
ngày  trong cuộc sống. Tương tự, người Phật tử chứa đầy thiện, ấy là do 
thái độ biết trân trọng các điều thiện, dù rất nhỏ, được nuôi dưỡng lâu
năm dần trong nếp sống làm lành:
"Chớ chê khinh điều ác,
 Cho rằng chưa đến mình,
 Như nước nhỏ từng giọt,
 Rồi bình cũng đầy tràn.
 Người ngu chứa đầy ác,
 Do chất chứa dần dần". (Pháp Cú, 121)
và:
"Chớ chê khinh điều thiện,
 Cho rằng chưa đến mình,
 Như nước nhỏ từng giọt,
 Rồi bình cũng đầy tràn,
 Người trí chứa đầy thiện,
 Do chất chứa dần dần". (Pháp Cú, 122)
– Tính cách thực tiễn của bài kinh khiến chúng ta tin tưởng rằng lời 
dạy của đức Phật không phải để dành riêng cho ai, mà dành cho tất cả 
mọi  người, cho những ai biết trân trọng và tìm thấy lợi ích, hạnh phúc 
trong nếp sống thiện, nếp sống có đạo đức. Giải pháp đạo đức được đề 
bạt  trong bài kinh là thiết thực và dễ dàng, liên quan đến đời sống 
hàng  ngày của con người (lời nói, suy tư và hành động), do đó mọi người
đều  có thể ứng dụng. – Sau cùng và cũng là điều quan trọng hơn cả là 
việc  ứng dụng bài kinh vào cuộc sống hàng ngày của người Phật tử. Bài 
kinh  nói về nếp sống thiện, nếp sống đạo đức; nhưng đạo đức không có ở 
trong  bài kinh, đạo đức chỉ có nơi những người chuyên tâm thực hành 
những lời  kinh dạy. Do đó, giảng nói về đạo đức là cần thiết, nhưng 
quan trọng hơn  vẫn là sống một nếp sống đạo đức thực sự với sự xem xét 
và phản tỉnh  thường xuyên về ba nghiệp, thân, khẩu, ý của mình.
Chúng tôi vừa giới thiệu với quý vị bài kinh Giáo Giới Rahula với  
giải pháp đạo đức thực tiễn có thể giúp ứng dụng dễ dàng vào đời sống  
hàng ngày của mỗi người Phật tử chúng ta. Chúng tôi cũng đã có vài nhận 
xét gợi ý nhằm giúp cho quý vị thấy rõ tầm quan trọng của pháp môn 
thanh  tịnh hóa ba nghiệp đối với cuộc sống là như thế nào. Vấn đề còn 
lại chỉ  là mỗi cá nhân chúng ta có cương quyết thực hiện hay không mà 
thôi. Tất  nhiên, chúng tôi rất tin tưởng mỗi người Phật tử chúng ta đều
đang nỗ  lực thực hành lời Phật dạy, nhất là vấn đề tu dướng đạo đức là
hết sức  cần thiết cho cuộc sống con người và xã hội ngày nay. Quả 
thật, chúng ta  cần bình tâm mà nhận ra rằng, dù đã có những bước chuyển
mình khá  tốt đẹp, xã hội Việt Nam đang tồn đọng nhiều vấn đề đòi hỏi 
mỗi người  Việt Nam chúng ta cần phải quan tâm nhiều hơn mới mong giải 
quyết được.  Nhưng điều chúng ta lo ngại nhất là nếp sống văn hóa và đạo
đức truyền  thống đang có nguy cơ bị đẩy lùi khiến ảnh hưởng đến các 
thế hệ con em  của chúng ta, vì nó làm cho con người Việt Nam vốn mất 
dần đi tính chất  của con người Việt Nam vốn có cội nguồn văn hoá vàđạo 
đức rất đặc biệt.  Nguyên nhân của vấn nạn trên là gì nếu không nói là 
sự thờ ơ và xem  thường của con người Việt Nam trước vấn đề đạo đức của 
cá nhân dẫn đến  sự thờ ơ đối với đạo đức gia đình và xã hội? Tại sao 
trẻ em Việt Nam  chưa ngoan? Tại sao trẻ em Việt Nam thiếu hoặc không 
tôn trọng bố mẹ,  thầy cô giáo? Tại sao trẻ em Việt Nam trở thành kẻ 
phạm pháp? Câu trả  lời thì đã có nhiều, nhưng chắc chắn con em của 
chúng ta sẽ không có  những sai phạm nói trên nếu như những người lớn 
chúng ta đã không tỏ ra  quá buông thả trong đời sống cá nhân khiến ảnh 
hường đến tâm lý hay học  đòi, bắt chước của chúng? Vấn đề đang đòi hỏi 
sự quan tâm nhiều hơn nữa  về nếp sống đạo đức và nêu cao đạo đức của 
mỗi người Việt Nam chúng ta.
Chúng ta đã từng có, trong lịch sử dân tộc, những mùa Xuân thật sự  
hạnh phúc và thái bình mà tấm thảm dệt nên mùa Xuân đó không gì khác là 
nếp sống thiện, nếp sốngđạo đức của một dân tộc được phát huy cao độ.  
Một thoáng nhìn về quá khứ để thấy rằng dân tộc Việt Nam chúng ta đã  
từng tu dưỡng đạo đức qua nếp sống từ bỏ mười điều ác, thực hành  
mười điều thiện của thân, miệng, ý và đã từng hưởng trọn những mùa Xuân 
an lành, thịnh vượng nhờ nếp sống ấy. Đó là những mùa Xuân thời Lý,  
Trần. Chúng ta từng có những ông vua bỏ ngai vàng xuất gia, kiên quyết  
sống đời sống đạo đức và khuyên dạy người dân tu dưỡng đạo đức qua nếp  
sống làm mười điều thiện khiến ảnh hưởng đến đời sống đạo đức của toàn  
dân và thái bình của xứ sở.
Lịch sử đã sang trang. Thời Lý, Trần đã lùi về quá khứ. Nhưng phải  
chăng tấm gương của thời Lý, Trần đã cần thiết cho cuộc sống hiện tại  
của chúng ta để suy gẫm lại nếp sống của chính mình, giống như "chiếc  
gương soi" của đức Phật trong bài kinh Giáo Giới Rahula là hết sức cần  
thiết để soi lại ba nghiệp thân, khẩu, ý của mỗi người chúng ta? Chúng  
tôi hy vọng mỗi người Phật tử chúng ta sẽ mang sắc bên mình "chiếc gương
soi" mà hơn 25 thế kỷ trước đức Phật đã ưu ái trao cho Tôn giả Rahula.
Và đó là tín hiệu đầu Xuân mà chúng tôi thân ái muốn gởi đến.
(Bài giảng đầu Xuân Giáp Tuất năm 1994 tại Thiền viện Vạn Hạnh)
Trích từ sách "Chánh Pháp và Hạnh Phúc"