Không
ít người, trong đó có tôi từng tự đặt lên những câu hỏi, thắc mắc về 
nguồn  gốc của các loài chúng sanh và môi trường sống, chẳng hạn như câu
hỏi đã được đề  cập đến qua rất nhiều cuốn sách: “ta là ai, ta từ đâu 
đến, ta đến đây để làm gì,  rồi ta sẽ trở về đâu?”, hay “tại sao không 
gian vũ trụ này lại vô tận như vậy?”…
Nhưng khi được tham khảo Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hòa Thượng Thích Minh
Châu  dịch từ tiếng Pali sang tiếng Việt và bậc thiện hữu tri thức chỉ 
dạy tôi nhận ra  rằng với những ai đã thông suốt định lý của Thập Nhị 
Nhân Duyên thì người ta sẽ  không còn sanh khởi rồi chạy theo những câu 
hỏi điên đảo như trên nữa, và đức  Phật đã xác định điều này trong Kinh Tương Ưng Bộ, Tập II: Thiên Nhân  Duyên, Chương I-12. Tương Ưng Nhân Duyên-XX. Duyên (Tạp 12.14, Ðại 2, 84b)  (S.ii,25):
“Do vì, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử khéo thấy như chơn với chánh 
trí tuệ lý  duyên khởi này và các pháp duyên sanh này, nên chắc chắn vị 
ấy không chạy theo  quá khứ (với những câu hỏi): "Ta có mặt trong quá 
khứ? Ta không có mặt không quá  khứ? Ta là gì trong quá khứ? Ta có mặt 
như thế nào trong quá khứ? Hay trước ta  đã là gì, và nay trong quá khứ 
ta là gì?"
Hay không chạy theo tương lai (với những câu hỏi): "Ta có mặt trong 
tương lai?  Ta không có mặt trong tương lai? Ta sẽ làm gì trong tương 
lai? Ta có mặt như thế  nào trong tương lai? Hay trước ta là gì, và nay 
trong tương lai ta sẽ là gì?"
Hay nay các vị ấy sẽ khởi lên những nghi ngờ về tự mình trong hiện 
tại như sau:  "Ta hiện có mặt? Ta hiện không có mặt? Ta hiện là gì? Ta 
hiện có mặt như thế nào?".
Sự kiện như vậy không xảy ra. Vì sao? Vì rằng vị Thánh đệ tử, này các
Tỷ-kheo,  đã khéo thấy như chơn với chánh trí tuệ, định lý duyên khởi 
này với các pháp  duyên sanh này”.
Nếu chúng ta cứ suy tưởng theo các câu hỏi trên để cố gắng tìm ra cho
được một  đáp án thỏa đáng thì không những không tìm được câu trả lời 
mà rốt cuộc chỉ  khiến cho tâm mình thêm phiền não và hoang mang. Và đây
là lời chỉ dạy của đức  Phật về vấn đề này:
“- Này Potthapàda, khi Tỷ-kheo ở đây tự mình khởi tưởng, vị này tiếp 
tục đi từ  tưởng này đến tưởng khác cho đến tưởng tột đỉnh. Và vị này, 
khi đứng lại tưởng  tột đỉnh có thể nghĩ: “Tâm còn suy tưởng, có hại cho
ta, tâm không suy tưởng mới  tốt cho ta. Nếu ta cứ tiếp tục suy tưởng 
khi những tưởng này của ta diệt đi, các  thô tưởng khác lại khởi lên. 
Vậy ta hãy đừng có suy tưởng”. Và vị này không có  suy tưởng. Do không 
có suy tưởng, các tưởng kia diệt tận và các thô tưởng khác  cũng không 
khởi lên. Vị ấy cảm thọ sự diệt tận. Như vậy này Potthapàda là sự  chứng
đạt trí tuệ diệt trừ dần dần các tăng thượng tưởng.” (Kinh Trường Bộ,  TẬP I - 9. Kinh Potthapàda (Bố-Sá-Bà-Lâu)).
Sự thực, nếu ta có đưa vấn đề này đến thỉnh hỏi bậc đã giác ngộ lý 
Duyên Khởi,  thì người ta cũng không trả lời vì dù có trả lời thì cũng 
chẳng thể làm cho anh  hiểu được! Tại sao? Ví như một người nhắm mắt 
(đang vô minh) mà được một vị mắt  sáng miêu tả cho vật này vật nọ thì 
liệu người nhắm mắt đó có thể hình dung và  thấy được như thật chăng? Do
vậy, thái độ của Phật trước những câu hỏi trừu  tượng, siêu hình là 
hoàn toàn dứt khoát: Ngài không trả lời câu hỏi không thuộc  về đích 
giải thoát, không thuộc về Pháp, không thuộc căn bản của phạm hạnh,  
không đưa đến yểm ly, đến ly tham, đến tịch diệt, đến tịch tịnh, đến 
thắng trí,  đến giác ngộ, đến Niết bàn, Ngài chỉ trả lời những điều đưa 
đến sự yểm ly, tịch  tịnh, thắng trí và Niết Bàn. Trở lại đoạn kinh đức 
Phật giảng cho du sĩ ngoại  đạo Potthapada (Bố Sá Bà Lâu), tính thực tế 
của Phật Pháp đã thuyết phục được vị  du sĩ đang suy tưởng, đang kẹt 
trong các chấp kiến này:
“- Bạch Thế Tôn, con có thể hiểu được chăng “tưởng là tự ngã của con người” hay  “tưởng khác, tự ngã khác”?
- Này Potthapàda, thật khó cho ngươi biết được “tưởng là tự ngã của 
con người”  hay “tưởng khác, tự ngã khác”, vì ngươi có dị kiến, có tin 
tưởng khác, có lý  tưởng khác, có thiên tư khác, có hạnh nguyện khác.
- Bạch Thế Tôn, nếu thật khó cho con biết được “tưởng là tự ngã của 
con người”,  hay “tưởng khác, tự ngã khác” vì con có dị kiến khác, có 
tin tưởng khác, có lý  tưởng khác, có thiên tư khác, có hạnh nguyện 
khác, thời bạch Thế Tôn, thế giới  có phải là thường còn không? Chỉ có 
quan niệm này là đúng sự thực, ngoài ra là  mê muội không?
- Này Potthapàda, Ta không trả lời: “Thế giới là thường còn, chỉ có quan điểm  này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội”.
- Bạch Thế Tôn, có phải thế giới là vô thường, chỉ có quan điểm này là đúng sự  thực, ngoài ra là mê muội không?
- Này Potthapàda, Ta không trả lời: “Thế giới là vô thường, chỉ có quan điểm này  là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội”.
- Bạch Thế Tôn, có phải thế giới này là hữu biên, chỉ có quan điểm này là đúng  sự thực, ngoài ra là mê muội không?
- Này Potthapàda, Ta không trả lời: “Thế giới là hữu biên, chỉ có quan điểm này  là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội”.
- Bạch Thế Tôn, có phải thế giới là vô biên, chỉ có quan điểm này là đúng sự  thực, ngoài ra là mê muội không?
- Này Potthapàda, Ta không trả lời: “Thế giới là vô biên, chỉ có quan điểm này  là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội”.
- Bạch Thế Tôn, có phải sinh mạng và thân thể là một, chỉ có quan điểm này là  đúng sự thật, ngoài ra là mê muội không?
- Này Potthapàda, Ta không trả lời: “Thân thể và sinh mạng là một, chỉ có quan  điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội”.
- Bạch Thế Tôn, có phải sinh mạng khác, thân thể khác? Chỉ có quan điểm này là  đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
- Này Potthapàda, Ta không trả lời: “Sinh mạng khác, thân thể khác. Chỉ có quan  điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội”.
- Bạch Thế Tôn, có phải Như Lai tồn tại sau khi chết? Chỉ có quan điểm này là  đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
- Này Potthapàda, Ta không trả lời: “Như Lai tồn tại sau khi chết. Chỉ có quan  điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội”.
- Bạch Thế Tôn, có phải Như Lai không tồn tại sau khi chết không? Chỉ
có quan  điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
- Này Potthapàda, Ta không trả lời: “Như Lai không tồn tại sau khi 
chết. Chỉ có  quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội”. (…)
- Bạch Thế Tôn, vì sao Thế Tôn không trả lời?
- Này Potthapàda, câu hỏi này không thuộc về đích giải thoát, không 
thuộc về  Pháp, không thuộc căn bản của phạm hạnh, không đưa đến yểm ly,
đến ly tham, đến  tịch diệt, đến tịch tịnh, đến thắng trí, đến giác 
ngộ, đến Niết bàn. Vì vậy, Ta  không trả lời.
- Bạch Thế Tôn, vậy Thế Tôn trả lời những gì?
- Này Potthapàda, Ta trả lời: “Ðây là khổ”. Ta trả lời: “Ðây là khổ 
tập”. “Ta  trả lời: “Ðây là khổ diệt”. Ta trả lời: “Ðây là con đường đưa
đến khổ diệt”.
- Bạch Thế Tôn, vì sao Thế Tôn trả lời?
- Này Potthapàda, câu hỏi này thuộc về đích giải thoát, thuộc về 
Pháp, thuộc căn  bản của phạm hạnh, đưa đến yểm ly, đến ly tham, đến 
tịch diệt, đến thắng trí,  đến giác ngộ, đến Niết bàn. Vì vậy Ta trả 
lời.
- Bạch Thế Tôn, như vậy là phải. Bạch Thiên Thệ, như vậy là phải. 
Bạch Thế Tôn,  nay đã đến thời Ngài làm gì Ngài xem là phải làm.” (Kinh Trường Bộ, TẬP I - 9. Potthapàda Sutta)
Sau đây, tôi xin giới thiệu một trong những bài kinh nổi tiếng trong 
đó đức Phật  đã đưa ra một ví dụ minh họa rất sống động về các chấp kiến
của nhiều người khi  đưa ra và y cứ nương tựa theo thế giới quan của 
mình. Tất nhiên, chúng ta cần  lưu ý rằng người đang tu không nên chỉ 
trích, bác bỏ, hủy báng bất kỳ một quan  điểm triết học nào.
Trích Dẫn Tiểu Bộ Kinh, tập I, Chương VI - Phẩm Chưa Sanh Ðã Mù:
“Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu
vườn ông Anàthapindika. Lúc  bấy giờ một số đông các ngoại đạo sai 
khác. Các Sa-môn, Bà-la-môn, các du sĩ  ngoại đạo đều vào Sàvatthi để 
khất thực. Họ có quan điểm khác nhau, có kham nhẫn  khác nhau, có sở 
thích khác nhau, y cứ nương tựa vào quan điểm khác nhau. Một số  Sa-môn,
Bà-la-môn, luận thuyết như sau: "Thế giới là thường còn, chỉ đây là sự 
thật, ngoài ra là hư vọng". Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như 
sau, quan  điểm như sau: "Thế giới là vô thường, chỉ đây là sự thật, 
ngoài ra là hư vọng".  Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, 
quan điểm như sau: "Thế giới là có  biên tế, chỉ đây là sự thật, ngoài 
ra là hư vọng". Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận  thuyết như sau, có quan 
điểm như sau: "Thế giới là vô biên, chỉ đây là sự thật,  ngoài ra là hư 
vọng". Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm  như sau:
"Sanh mạng và thân thể là một, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư 
vọng".  Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau:
"Sanh mạng và  thân thể là khác, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư 
vọng". Một số Sa-môn,  Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau:
"Như Lai có tồn tại sau khi  chết, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư 
vọng". Một số Bà-la-môn, Bà-la-môn luận  thuyết như sau, quan điểm như 
sau: "Như Lai không có tồn tại sau khi chết, chỉ  đây là sự thật, ngoài 
ra là hư vọng". Một số Bà-la-môn, Bà-la-môn luận thuyết  như sau, quan 
điểm như sau: "Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết,  chỉ
đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng". Một số Bà-la-môn, Bà-la-môn luận 
thuyết như sau, quan điểm như sau: "Như Lai không có tồn tại và không 
không tồn  tại sau khi chết, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng". 
Họ sống cạnh tranh,  luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí
miệng lưỡi: "Như thế này là  pháp. Như thế này là pháp. Như thế này 
không phải pháp. Như thế này không phải  pháp".
Rồi nhiều Tỷ-kheo vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào Sàvatthi, để 
khất thực,  Khất thực ở Sàvatthi xong sau buổi ăn, khi đi khất thực trở 
về, đi đến Thế Tôn,  sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, các  Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Ở đây, bạch Thế Tôn, một số đông ngoại đạo sai khác, các Sa-môn, 
Bà-la-môn,  các du sĩ ngoại đạo đều vào Sàvatthi để khất thực. Họ có 
quan điểm khác nhau, có  kham nhẫn khác nhau, có sở thích khác nhau, y 
cứ nương tựa vào quan điểm khác  nhau. Một số Sa-môn, Bà-la-môn, luận 
thuyết như sau: "Thế giới là thường còn,  chỉ đây là sự thật, ngoài ra 
là hư vọng". Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết  như sau, quan điểm 
như sau: "Thế giới là vô thường, chỉ đây là sự thật, ngoài ra  là hư 
vọng". Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: 
"Thế  giới là có biên tế, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng". Một 
số Sa-môn,  Bà-la-môn luận thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Thế 
giới là vô biên, chỉ  đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng". Một số 
Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như  sau, quan điểm như sau: "Sanh mạng và
thân thể là một, chỉ đây là sự thật, ngoài  ra là hư vọng". Một số 
Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau:  "Sanh mạng và
thân thể là khác, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng". Một số  
Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: "Như Lai có 
tồn tại  sau khi chết, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng". Một số 
Bà-la-môn,  Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: "Như Lai 
không có tồn tại sau  khi chết, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư 
vọng". Một số Bà-la-môn, Bà-la-môn  luận thuyết như sau, quan điểm như 
sau: "Như Lai có tồn tại và không có tồn tại  sau khi chết, chỉ đây là 
sự thật, ngoài ra là hư vọng". Một số Bà-la-môn,  Bà-la-môn luận thuyết 
như sau, quan điểm như sau: "Như Lai không có tồn tại và  không không 
tồn tại sau khi chết, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng". Họ  sống
cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng 
lưỡi:  "Như thế này là pháp. Như thế này là pháp. Như thế này không phải
pháp. Như thế  này không phải pháp".
- Này các Tỷ-kheo, các du sĩ ngoại đạo là những người mù, không có 
mắt, không  biết mục đích, không biết phải mục đích, không biết pháp, 
không biết phi pháp.  Do họ không biết mục đích, do họ không biết   
không phải mục đích, do không biết pháp, do không biết phi pháp, họ sống
cạnh  tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng 
lưỡi: "Như thế  này là pháp. Như thế này là pháp. Như thế này không phải
pháp. Như thế này không  phải pháp".
Này các Tỷ-kheo, thưở xưa tại thành Sàvatthi này, có một ông vua. Này
các  Tỷ-kheo, ông vua ấy bảo một người: "Này người kia, phàm có bao 
nhiêu những người  sanh ra đã mù ở Sàvatthi hãy nhóm lại một chỗ tất cả"
- "Thưa vâng, Ðại vương".
Này các Tỷ-kheo, người ấy vâng đáp ông vua ấy, phàm có bao nhiêu 
những người  sanh ra đã mù ở Sàvatthi, người ấy giữ lại tất cả, rồi đi 
đến ông vua ấy, sau  khi đến thưa với vị vua: "Thưa Ðại vương, phàm có 
bao nhiêu những người sanh ra  đã mù ở Sàvatthi đã được tụ tập lại".
- Này khanh, hãy đưa ra một con voi cho những người mù.
- “Thưa vâng, Ðại vương”.
Này các Tỷ-kheo, người ấy vâng đáp ông vua ấy, đưa ra một con voi cho
những  người mù: "Này các người mù, đây là con voi". Với một số người 
mù, ông ta đưa  cái đầu và nói: "Này các người mù, đây là con voi". Ðối 
với một số người mù, ông  ta đưa cái lỗ tai con voi và nói: "Này các 
người mù, đây là con voi". Ðối với  một số người mù, ông ta đưa các ngà 
con voi và nói: "Này các người mù, đây là  con voi". Ðối với một số 
người mù, ông ta đưa cái vòi con voi và nói: "Này các  người mù, đây là 
con voi". Ðối với một số người mù, ông ta đưa cái thân con voi  và nói: 
"Này các người mù, đây là con voi". Ðối với một số người mù, ông ta đưa 
cái chân... Ðối với một số người mù, ông ta đưa cái lưng... Ðối với một
số người  mù, ông ta đưa cái đuôi... Ðối với một số người mù, ông ta 
đưa cái lông đuôi và  nói: "Này các người mù, đây là con voi".
Này các Tỷ-kheo, rồi người ấy sau khi đưa con voi cho các người mù, 
đi đến ông  vua ấy, sau khi đến tâu với vua: "Thưa Ðại vương, con voi đã
được các người mù  thấy, nay Ðại vương hãy làm những gì Ðại vương nghĩ 
là hợp thời!"
Rồi này các Tỷ-kheo, ông vua đi đến các người mù ấy, sau khi đến nói với họ: "Này  các người mù, các ông đã thấy con voi chưa?”
- "Thưa Ðại vương, chúng tôi đã thấy con voi".
- Này các người mù, hãy nói con voi là như thế nào?"
Này các Tỷ-kheo, những ai được sờ cái đầu con voi, họ nói như sau: "Thưa Ðại  vương, con voi là như thế này, như cái ghè!"
Này các Tỷ-kheo, những ai được sờ  cái tai con voi, họ nói như sau: 
"Thưa Ðại vương, con voi là như thế này, như  cái rổ sàng gạo."
Này các Tỷ-kheo, những ai được sờ cái ngà con voi, họ nói như sau: "Thưa Ðại  vương, con voi là như thế này, như cái lưỡi cày."
Này các Tỷ-kheo, những ai được sờ cái vòi con voi, họ nói như sau: "Thưa Ðại  vương, con voi là như thế này, như cái cày".
Này các Tỷ-kheo, những ai được sờ cái thân con voi, họ nói như sau: "Thưa Ðại vương, con voi là như  thế này, như cái kho chứa."
Này các Tỷ-kheo, những ai được sờ cái chân con voi, họ nói như sau: "Thưa Ðại  vương, con voi là như thế này, như cái cột."
Này các Tỷ-kheo, những ai được sờ cái lưng con voi, họ nói như sau:  "Thưa Ðại vương, con voi là như thế này, như cái cối."
Này các Tỷ-kheo, những ai được sờ cái đuôi con voi, họ nói như sau: "Thưa Ðại  vương, con voi là như thế này, như cái chày".
Này các Tỷ-kheo, những ai được sờ cái nhóm lông đuôi con voi, họ nói 
như sau: "Thưa Ðại vương, con voi là như thế này, như cái chổi"
- "Con voi các ông nói như vậy không phải là con voi. Con voi không 
phải như vậy.  Con voi không phải vậy. Như thế này là con voi".
Cho đến khi họ đánh lộn nhau bằng tay. Rồi này các Tỷ-kheo, ông vua ấy hoan hỷ.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, các du sĩ ngoại đạo là những người mù, 
không có mắt,  không biết mục đích, không biết phải mục đích, không biết
pháp, không biết phi  pháp. Do họ không biết mục đích, do họ không 
biết  không phải mục đích, do không  biết pháp, do không biết phi pháp, 
họ sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả  thương nhau bằng binh khí
miệng lưỡi: "Như thế này là pháp. Như thế này là pháp.  Như thế này 
không phải pháp. Như thế này không phải pháp".
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói 
lên lời cảm  hứng: “Có một số Sa-môn/ Cùng với Bà-la-môn/ Họ chấp 
trước,giành giật/ Trong các luận thuyết này/ Họ tranh luận tranh chấp/ 
Họ nhìn chỉ một phía.”
Tâm Thuận