MỤC LỤC
Lời nói
đầu
[01]
Chương một: Tâm Vương (Citta)
1) Bất thiện tâm (Akusalacitta)
2) Vô nhân tâm (Ahetukacitta)
3) Tịnh quang tâm (Sobhanacitta)
4) Sắc giới tâm (Rùpàvacaracitta)
5) Vô sắc giới tâm (Arùpàvacaracitta)
6) Siêu thế tâm (Lokuttaracitta)
[02]
Chương hai: 
PHẦN MỘT: Các loại Tâm sở (Cetasika)
1) 7 Biến hành tâm sở (Sabbacittasàdhàranà)
2) 6 Biệt cảnh tâm sở (Pakinnakacetasika)
3) 14 Bất thiện tâm sở (Akusalacetasika)
4) 25 Tịnh quang tâm sở (Sobhanacetasika)
PHẦN HAI: Những tâm sở nào đã 
hiện hành trong những tâm nào
1) 7 Biến hành tâm sở
2) 6 Biệt cảnh tâm sở
3) 14 Bất thiện tâm sở
4) 25 Tịnh quang tâm sở
PHẦN BA: Loại tâm nào có những loại tâm sở nào và bao nhiêu 
tâm sở
1) Với Siêu thế tâm
2) Với Ðại hành tâm
3) Với Dục giới Tịnh quang tâm
4) Với Bất thiện tâm
5) Với Vô nhân tâm
[03]
Chương ba: Linh tinh (Pakinnaka)
1) Phân loại theo thọ
2) Phân loại theo nhân
3) Phân loại theo công tác
4) Phân loại theo căn môn
5) Phân loại theo đối tượng
6) Phân loại theo trú căn[04]
Chương bốn: Lộ trình của tâm 
(Cittavìthi)
1) Lộ trình của tâm qua 5 căn
2) Lộ trình qua ý môn
3) Lộ trình của An chỉ tốc hành tâm
4) Ðồng sở duyên tâm
5) Tốc hành tâm
6) Các loại chúng sanh
7) Các địa giới
[05]
Chương năm: 
Ra ngoài loại hình (Vìthimutta)
1) Bốn địa
2) Các loại kiết sanh thức (Patisandhi)
3) Thọ mạng trên sắc giới thiên
4) Thọ mạng trên vô sắc giới thiên
5) Bốn loại nghiệp
6) Nguyên nhân của chết
7) Nghiệp, nghiệp tướng và thú tướng
8) Lộ trình tâm của một người sắp chết.
9) Giòng tâm thức
[06]
Chương sáu: Sắc (Rùpa)
1) Tóm lược (Samuddesa)
2) Phân loại các Sắc pháp (Rùpavibhàgo)
3) Sắc sinh khởi (Rùpasamutthàna)
4) Tổng hợp các Sắc (Kalàpa-Yojanà)
5) Diễn biến Sắc pháp (Rùpavattikàmo)
6) Niết Bàn (Nibbàna)
[07]
Chương bảy: Tập yếu những danh từ 
Abhidhamma 
(Samuccaya-Sangaha-Vibhàgo)
1) Tạp loại tập yếu (Missako sangaho)
2) Tổng quát tập yếu (Sabbasangaho)
[08]
Chương tám: Duyên khởi và Duyên hệ
1) Trợ duyên tập yếu (Paccaya sangaho)
2) Duyên hệ duyên (Patthanapaccayo)
[09]
Chương chín: Nghiệp Xứ hay Ðối tượng 
Tu hành
[10]
Phụ lục:
Đối chiếu Pàli - Việt
Đối chiếu Việt - Pàli
-ooOoo-
LỜI NÓI ÐẦU (Tập Một)
Văn học Abhidhamma có thể xem là 
môn Tâm Lý Học của Phật giáo vì bốn vấn đề 
được đem ra giải thích cặn kẽ hoàn toàn thuộc về con người và đặc 
biệt là phần tâm thức. Bốn pháp được đề cập là Citta (tâm), Cetasika 
(tâm sở), Rùpa (Sắc) và Nibbàna (Niết bàn). Tâm, Tâm sở, Niết bàn 
dĩ nhiên 
thuộc về tâm thức, nhưng Sắc pháp ở đây nói 
nhiều về thân thể con người và sự liên lạc giữa thân thể ấy với 
tâm 
thức. Ðạo Phật không bao giờ tách rời Tâm và Sắc vì cả hai đều 
tương quan liên đới. Chia chẻ theo 2 pháp thời Nàma 
(danh) thuộc về Tâm pháp và Rùpa (Sắc) thuộc về Sắc pháp. Nói đến 5
Uẩn, thời Rùpakkhandha (Sắc uẩn) 
thuộc về Sắc pháp còn 4 Uẩn còn lại thuộc về Tâm pháp v.v...
Ðiểm nói bật nhất trong môn học Abhidharma là sự phân tích rất tinh tế 
và tỉ mỉ các tâm và tâm sở, và theo Pàli Abhidhamma, có đến 89 hay 121 tâm (Citta) và 52 tâm 
sở (Cetasika). Ðúng với truyền thống "phân tích tông" (Vibhajavàda, một 
tên khác của Thượng Tọa Bộ), Pàli Abhidhamma chia chẻ các loại tâm thành 
Dục giới tâm; Sắc giới tâm, Vô sắc giới tâm, Siêu thế tâm (theo cảnh 
giới), hoặc thành Bất thiện tâm, Vô nhân tâm, Tịnh quang tâm (theo khả năng 
hướng thiện hay không hướng thiện), hoặc theo Thiện tâm, Dị thục tâm, Duy 
tác tâm (theo khả năng tái sanh một đời sau hay không); hoặc theo Hữu 
nhân, Vô nhân tâm (nếu đứng về phương diện căn nhân chi phối các tâm ấy) 
v.v... Phần tâm sở lại tế nhị hơn, và chúng ta được biết khi nhãn thức khởi lên thời 
ít nhất có 7 Biến hành tâm sở cùng khởi một lần, tức là Xúc, thọ, trưởng, 
tư, mạng căn, nhứt tâm và tác ý. Còn 
tế nhị hơn là những băng thống kê tỉ 
mỉ tìm tòi số lượng các tâm sở hiện hành trong một tâm và những tâm sở nào được tìm thấy trong những loại tâm 
nào. Chúng ta không ngờ hỷ tâm sở có mặt trong 51 tâm, xả tâm sở khởi lên 
trong 70 tâm, và một tâm giản dị như tiếu sanh tâm cũng có đến 12 tâm sở cùng khởi lên một lần 
(xúc, thọ, tưởng, tư, nhứt tâm, tác ý, mạng cặn, tầm, tứ, hỷ, tinh tấn, 
thắng giải). Một sự cống hiến đặc biệt của Pàli 
Abhidhamma cho môn Tâm lý học là sự giải thích về Cittavìthi hay lộ trình 
của tâm. Mỗi khi có một sự kích thích ở ngoài ngang qua 5 căn 
thời cả một số tâm tiếp diễn liên tục, khởi lên, diệt xuống lâu cho đến 16 
tâm sát-na.
      
        
1. Bhavangacalana: Hữu phần chuyển động.
2. Bhavangupaccheda: Hữu phần dừng nghỉ.
3. Pancadvàràvajjana: Ngũ môn hướng tâm.
4. Cakkhuvinnàna: (Nhãn thức hay một trong 4 thức khác).
5. Sampaticchana: Tiếp thọ tâm.
6. Santìrana: Suy đạc tâm.
7. Votthapana: Xác định tâm.
8-14. Javana: Tốc hành tâm.
15-16. Tadàlambana: Ðồng sở duyên tâm.
Như vậy từ khi Hữu phần rung động cho đến Ðồng sở duyên tâm có đến 16 tâm 
sát-na, và nếu chúng ta cộng thêm một tâm sát-na nữa, thời gian cần 
thiết để đối tượng ở ngoài tiếp xúc 
với nội căn, thời chúng ta thấy đời sống một 
lộ trình của tâm có đến tất cả 17 tâm 
sát-na và có 7 loại tâm khởi lên rồi diệt xuống trong một lộ trình 
(Từ Ngũ môn hướng tâm đến Ðồng sở 
duyên tâm). Thật là một sự khám phá hy hữu, và sự phân tích thật vô cùng 
tế nhị và khúc chiết.
Tập Abhidhamma không những giải 
thích sự diễn tiến của tâm thức khi bị 
kích thích bởi ngoại trần hay nội tâm, ngang qua 5 căn 
hay ngang qua ý căn (Pavattana), mà còn miêu tả Kiết sanh thức 
(Patisandhi) liên hệ từ đời này qua đời khác. Ở đây chúng ta thấy 
rõ cả sự 
cố gắng để giải thích trạng thái tái sanh của 
con người, những sức mạnh gì đã 
khiến con người sau khi chết phải đi đầu thai 
một đời nữa để thỏa mãn sự đòi 
hỏi, sự tham sống của kiếp người. Vẫn biết vấn đề này vượt ngoài 
sự nhận thức của con 
người vì chúng ta không nhớ đến khi chúng ta 
lâm chung hay đi đầu thai, nhưng sự cắt nghĩa ở đây có thể xem là 
hợp lý, khoa học nhất, dựa vào thực tế mà trình bày, và đây cũng 
là một sự cống hiến đặc biệt nữa của Abhidhamma cho vấn đề sống 
chết của con người, một vấn đề mà các nhà triết gia bao giờ cũng 
boăn 
khăn tìm hiểu.
Lama Govinda, một tu sĩ Phật giáo người Ðức trong quyển The 
Psychological Attitude of Early Buddhist Philosophy (Thái độ tâm lý của triết học đạo Phật nguyên 
thủy) đã xem văn 
học Abhidhamma như môn tâm lý học và triết học của đạo Phật. Còn ông Egerton C. Baptist 
trong quyển Abhidhamma for the Beginners (Abhidhamma cho những người sơ 
cơ) thì so sánh môn học Abhidhamma như môn siêu hình học của Phật giáo. 
Nếu siêu hình có nghĩa là vấn đề tìm 
hiểu Thượng đế và vấn đề tạo thiên lập địa thì môn học Abhidhamma không thể 
là môn siêu hình học, vì hai vấn đề này 
không được đề cập đến. Ðúng với truyền 
thống thực tiễn của Kinh tạng không muốn đề 
cập đến những vấn đề không liên hệ với
đời sống thực tại, đối tượng của môn học Abhidhamma là vấn đề tâm linh và hoàn cảnh thực tại của 
con người đang sống. Nhưng nếu chúng ta định 
nghĩa siêu hình là những vấn đề vượt 
khỏi sự hiểu biết hiện tại cạn cợt và có giới hạn của chúng ta, 
thời Abhidhamma có thể xem là môn siêu hình vì Sắc giới tâm, Vô sắc giới 
tâm và Siêu thế tâm vượt ngoài sự hiểu biết hiện tại của con người. Muốn 
chứng được Sắc giới tâm, phải tu các pháp 
thiền ở Sắc giới, muốn hiểu Vô sắc giới tâm phải tu các pháp Thiền ở Vô 
Sắc giới, và muốn đạt đến các quả 
thánh, phải tu quán (vipassanà) về Ba pháp ấn. Ở đây chúng ta thấy rõ siêu hình không 
dựa trên lòng tin không bằng chứng vào tưởng tượng và dự đoán mà chỉ là trạng thái tâm thức 
chưa được phát giác ra, bởi vì kinh 
nghiệm cá nhân của con người chưa đạt tới, và 
khi đã
đạt tới, thời siêu hình đã trở 
thành kinh nghiệm cá nhân. Nói một cách khác,
đạo Phật không bác bỏ siêu hình, nếu phần siêu hình được phát giác trên con đường kinh nghiệm cá nhân. Phần này 
chỉ bị bác bỏ khi nào chỉ được hình 
thành trên con đường của tưởng tượng và 
dự đoán. Ở đây, theo tạng Abhidhamma, siêu 
hình là một khái niệm hoàn toàn tương đối mà 
ranh giới tùy thuộc ranh giới kinh nghiệm cá nhân của mình và tùy thuộc 
vào hình thức và tầm lực của nhận thức. Ðức Phật nhiếp phục siêu hình với 
những vấn đề nan giải của siêu hình, 
không phải chỉ không biết đến siêu 
hình, mà chính với thái độ tích cực và 
thiết thực, nghĩa là nhờ ở sự tu tập và tiềm lực của nhận thức, đức Phật thu nhỏ dần ranh giới của siêu 
hình, và như vậy siêu hình trở thành kinh nghiệm.
Nói đến đạo đức học tức là giới vức 
thứ ba của triết học, Abhidhamma cũng là môn luân lý học của đạo Phật, vì tất cả lời dạy trực tiếp 
hay gián tiếp của đức Phật đều hướng con 
người đến giải thoát và giác ngộ. Tiêu chuẩn đạo đức ở đây không phải là lời phán 
xét của đức Phật, cũng không phải dựa vào 
truyền thống hay tập tục của một thời đại nào. 
Tiêu chuẩn thiện ác ở đạo Phật tùy 
thuộc ở con người và 12 Bất thiện trong tâm Abhidhamma được định nghĩa là những tâm khiến con 
người đi xa đích giải thoát và giác 
ngộ, 18 Vô nhân tâm (ahetukacitta) là những tâm lưng chừng, không tới cũng 
không lui, và 59 Tịnh quang tâm (sobhanacitta) là những tâm khiến con 
người tiến dần đến mục tiêu giải thoát 
và giác ngộ. Ở đây, chúng ta cũng phải nhận rõ 
thái độ của nhà triết gia Ðông phương 
không những trình bày lý thuyết của mình mà còn phải sống theo lý thuyết 
ấy trên thực tế và kinh nghiệm. Tri hành hợp nhất, trí đức song tu là những tiêu chuẩn bất di 
bất dịch cho những triết gia Ðông phương và do vậy đạo đức học không bao giờ rời khỏi phần triết 
học trong tạng Abhidhamma. Tìm cho ra phần luận lý trong tạng 
Abhidhamma không phải dễ dàng vì văn học 
Abhidhamma tuy đã có sự cố gắng hệ thống hóa những tư tưởng chính 
của đức Phật, sự phát triển này về 
luận lý học chưa đến mực độ trở thành 
một hệ thống riêng biệt về luận lý như Nhơn minh học (Hetuvidyà) của Ðại 
thừa. Nhưng đạo Phật bao giờ cũng chú trọng 
đến lý trí, suy luận, thực tu thực chứng lẽ dĩ nhiên bao giờ cũng 
kính trọng những nguyên tắc căn bản của pháp 
suy luận và do vậy chúng ta có thể nói phần luận lý lúc nào cũng tiềm tàng 
trong tạng Abhidhamma.
Một vấn đề nữa cũng rất quan trọng trong 
khi đề cập đến Abhidhamma là sự liên lạc giữa Kinh tạng và Luận 
tạng, và sự sai khác giữa hai tạng ấy. Dầu Kinh tạng là phần tử hấp dẫn 
nhất trong Ba tạng, và được xem là 
nguyên thủy nhất, Kinh tạng vẫn là sự sưu tầm những lời dạy của đức Phật cho từng trường hợp, từng hoàn 
cảnh, từng cá nhân lẻ tẻ, nhiều khi không có liên hệ tương quan. 
Abhidhamma tạng là cả một sự cố gắng hệ thống hóa những lý thuyết và 
phương pháp tiềm tàng và rải rác trong Kinh tạng, và đặc biệt đặt những hệ thống ấy trên 
một bối cảnh chung và nhờ vậy giúp chúng ta có một khái niệm tổng quát và 
quán xuyến về đạo Phật. Chúng ta không thể 
lấy những điều kiện lịch sử để phán đoán giá trị của Abhidhamma, vì 
rất có thể những phần tử quan trọng của Abhidhamma được hình thành một lần với Kinh tạng. 
Phần lớn các nhà học giả đều đồng ý rằng tạng 
Abhidhamma được tổ chức và phát triển từ các Matrikà, nghĩa là 
những công thức đã có sẵn trong kinh 
tạng, và như vậy tạng Abhidhamma vẫn có thể
được xem là tạng có tánh cách nguyên thủy. Vả lại chính trong Kinh 
tạng, cũng có những loại kinh hoặc bộ kinh mang nặng đặc chất Abhidhamma hơn là Kinh tạng, 
như kinh Sangìtisutta trong bộ Dìghanikàya và tập Niddesa trong bộ 
Khuddakanikàya. Và như Lama Govinda đã 
nói, "chính trong thời đức Phật tại thế, vẫn 
không có một đạo Phật tuyệt đối, một hình thức giáo điều của sự thật, mà chỉ có một sự 
hướng dẫn về phương hướng và phương pháp có thể đưa đến sự tự chứng cá nhân. Khi nào 
Abhidhamma còn phụng sự được lý tưởng này 
bằng cách chỉ cho chúng ta rõ, một ít nét đại 
cương của tư tưởng Phật giáo, thì vấn
đề tạng Abhidhamma được kiết tập sớm hay muộn không có gì quan trọng cả".
Về phương pháp diễn đạt, tạng 
Abhidhamma 
chú trọng đặc biệt về một hệ thống gọi là Patisambhidà (Vô ngại 
giải hay Pratisamvit, một hệ thống của luận lý phân tích). Hệ 
thống này được chia thành bốn ngành. 1) Phân 
tích về ý nghĩa (Nghĩa vô ngại giải, Attha) của các danh từ (hay 
vật, vì 
danh từ định nghĩa sự vật). 2) Phân tích về 
pháp (Dhamma, Pháp vô ngại giải). Chữ pháp được tập Vibhanga và 
ngài Buddhaghosa, định nghĩa là sự 
hiểu biết về những nguyên nhân của sự vật. 3) Phân tích về văn 
phạm (Từ vô ngại giải, Nirutti), 4) Phân tích về Patibhàna (Biện 
vô 
ngại giải). Nhưng trong bộ luận chữ Hán Tsa-tsi, Attha lại có 
nghĩa là sự 
hiểu biết về những danh từ riêng và chung, và Dhamma có nghĩa là 
các Ðồng 
nghĩa. Trong tập Niddesa, các danh từ được 
giải thích bằng một danh sách dài các chữ Ðồng nghĩa (Dhamma) và 
các chữ khác được dùng những định nghĩa thông thường (Attha). Còn 
địa phương ngữ và những hình thức đặc biệt cũng cần giải thích và đó 
chính là Nirutti. Ngoài ra, còn có 
sự giải thích về giáo lý và ở đây cần phải có 
sức biện tài (Patibhàna).
Một đặc tánh nữa của tạng Abhidhamma mà 
các luận sư cho là rất đặc biệt là sự 
cố gắng của tạng Abhidhamma giải thích sự vật theo đệ nhứt nghĩa đế (Paramatthasacca), chớ không 
theo tục đế (Sammutisacca) như trong Kinh tạng. Như khi nói đến cái bàn, 
là theo tục đế, nhưng khi nói đến những cơ 
năng, những đặc tánh tạo thành cái bàn là nói đến Ðệ nhứt nghĩa đế. Trong Kinh tạng, đức Phật thường dùng 
những danh từ đàn ông, đàn bà, hữu tình, tự ngã. Trái lại 
trong Abhidhamma, những danh từ như năm uẩn, 
mười hai xứ, mười tám giới được dùng. Nói đến người thời có sự sai khác giữa đàn 
ông đàn bà, con nít người lớn, người 
thông minh kẻ ngu dốt và như vậy nằm trong phạm vi Tục đế. Khi nói đến năm uẩn hay mười hai xứ, thời 
không có sự phân biệt trên và con người chỉ là sự tụ họp của năm uẩn hay 
năm pháp.
      
Khi chúng tôi bắt đầu dịch tập 
này, 
chúng tôi gặp một sự khó khăn lớn là 
có nhiều danh từ chưa bao giờ được dịch ra 
chữ Hán và như vậy chúng tôi phải tự dịch theo nghĩa, hoặc dịch 
theo ý. Với những danh từ như Pìti (Hỷ), Vitakka (Tầm), Vicàra 
(Tứ), thời 
không có gì khó khăn vì chữ Hán đã dùng nhiều lần. Nhưng Citavìthi
(Tâm lộ hay lộ trình của tâm), Parikamma (chuẩn bị), Upacàra (cận 
hành), 
Anuloma (thuận thứ), Gotrabhù (chuyển tánh), Appanà (an chỉ) 
v.v... toàn 
là những danh từ mới mẻ, phải tự dịch ra. Ðể tiện tìm hiểu và khảo
cứu, 
chúng tôi cho in hai tập ngữ vựng, Pàli - Việt và Việt - Pàli, 
toàn những 
danh từ chuyên môn. Khi gặp chữ Pàli, muốn tìm chữ dịch ra tiếng 
Việt thì 
tìm ngữ vựng Pàli - Việt. Khi gặp chữ Việt mà muốn tìm chữ Pàli 
tương đương thì tìm ngữ vựng Việt - Pàli. Vì đây không phải là tự điển, 
nên 
chúng tôi chỉ cho in những danh từ chuyên môn mà thôi.
Trong khi dịch và giải thích tập này, chúng tôi chia mỗi đoạn văn thành bốn phần:
I. Pàli văn, tức là bản văn chính.
II. Thích văn, là dịch những chữ Pàli khó ra Việt văn.
III. Việt văn, là bản dịch Pàli văn ra Việt văn.
IV. Thích nghĩa, là giải thích đoạn 
văn trên.
Sự trình bày này giúp nhiều cho những người mới biết riêng Pàli cũng 
như những ai muốn nghiên cứu sâu vào vấn đề. 
Riêng đối với những người chỉ muốn 
hiểu tiếng Việt cũng có thể học hỏi nghiên cứu không có gì khó khăn. 
Tập này cũng có dụng ý giúp cho sinh viên Vạn Hạnh học chứng chỉ 
Abhidhamma và sinh viên Văn khoa Sài 
Gòn học chứng chỉ Triết Ấn, vì khi nào có sách học thời rất dễ cho sự tìm 
hiểu và chính nhờ sự hiểu biết về căn bản của 
tập này, sinh viên mới có sự hiểu biết căn 
bản để nghiên cứu các tác phẩm khác.
Quyển Abhidhammatthasangaha này là quyển sách căn 
bản cho những ai muốn tham học tạng A-tỳ-đàm và trở thành quyển 
sách đầu giường cho chư Tăng Miến
Ðiện, Tích Lan, Thái Lan v.v... Không những tập này cho chúng ta những 
hiểu biết căn bản về môn học Abhidhamma, tập 
này có thể xem là chìa khóa độc nhất 
mở cửa cho chúng ta vào tham cứu bảy tập Abhidhamma chính thống, mà 
sự trình bày, cùng những danh từ chuyên môn khó hiểu và khô khan đã làm chán ngán thất vọng những kẻ sơ 
cơ muốn tìm hiểu tạng này. Ngài Anurudha đã 
thành công khi ngài chẩn mạch được căn bệnh 
cổ truyền và khéo hệ thống hóa tư tưởng và triết học Abhidhamma một 
cách gọn ghẽ súc tích, khiến cho tập này trở thành một quyển sách đầu giường cho các Tăng ni Phật tử muốn nghiên 
cứu Luận tạng A-Tỳ-đàm. Tập này đã được 
dịch ra tiếng Miên, Thái, Tích Lan, Miến Ðiện, Ấn Ðộ, Anh, Pháp 
v.v... chỉ trừ có tiếng Việt và bản dịch này là để bổ khuyết sự thiếu sót 
ấy.
      
Về phần giải thích, chúng tôi y cứ vào hai bản Abhidhammatthasangaha 
của Ðại Ðức Narada, người Tích Lan và Ðại Ðức Kashyap, Viện Trưởng Viện 
Phật Học Nalanda người Ấn. Ngài Narada dịch rất sát nguyên văn 
và phần chú thích chú trọng nhiều về ngữ nguyên các danh từ cùng 
những giải thích truyền thống. Ngài Kashyap trái lại dịch rất thoát nguyên 
văn và thích nắm giữ những khái niệm 
chính của từng mục, từng đoạn. Dung hòa 
hai phương pháp và kết nạp và trích lựa tinh hoa của hai tập trên, tập 
"Thắng pháp Tập yếu" bằng tiếng Việt này là sự cố gắng để phụng sự Phật học nước nhà nói 
chung và Ban Tu Thư Viện Ðại Học Vạn Hạnh nói riêng. Chúng tôi cũng có hy 
vọng tập này sẽ mở đầu cho một sự so sánh 
giữa tập Pàli Abhidhamma và Tạng Sanskrit Abhidhamma, và tập Pàli 
Abhidhammatthasangaha và tập Sanskrit Abhidharmakosa, một sự so sánh rất 
hào hứng, đầy những khám phá mới lạ và thích thú.
Tập Abhidhammatthasangaha có đến 9 chương 
và chúng tôi dịch đến chương thứ V. Còn bốn chương sau, chúng tôi sẽ cho 
dịch tiếp.
Mùa Phật Ðản 2510
Tỳ kheo THÍCH MINH CHÂU
Viện Trưởng Viện Ðại Học Vạn Hạnh
-ooOoo-
LỜI NÓI ÐẦU (Tập Hai)
Bản dịch quyển "Abhidhammasangaha" (Thắng Pháp Tập Yếu Luận) tập II nay 
mới được in xong, dầu chúng tôi dịch xong đã 
khá lâu, nguyên do chính vì vấn đề ấn loát 
khó khăn, nhất là in chữ Pàli, vật liệu khan hiếm đắt đỏ, và trách nhiệm của một vị Viện 
Trưởng khá đa đoan phiền toái.
      
Tập II này đề cập đến hai Thắng pháp còn 
lại là Rùpa (Sắc) và Nibbana (Niết Bàn) được 
phân chia như sau:
      
        
Chương VI: Sắc Pháp
Chương VII: Các danh từ Abhidhamma phân loại theo Bất thiện, Thiện và 
Bất thiện, liên hệ với Giác ngộ.
Chương VIII: Duyên khởi và Duyên hệ
Chương IX: Tu tập và đối tượng Tu tập,
      
      
Cũng như tập I, chúng tôi có in bản chính Pàli, tiếp theo là Thích văn, 
Dịch văn và Thích nghĩa, chúng tôi y cứ vào hai bản Abhidhammatthasangaha 
của Ðại Ðức Nàrada, Tích Lan và Ðại Ðức Kashyap, Viện Trưởng Viện Ðại học 
Nalandà, Ấn Ðộ.
Chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn về các 
danh từ Abhidhamma chuyên môn, những danh từ chuyên môn có chữ Hán 
tương đương thời chúng tôi dùng chữ 
Hán đã
được Việt hóa, còn những danh từ không có chữ Hán tương đương, chúng tôi phải tạm thời dịch theo 
nghĩa để chờ đợi tìm được những danh 
từ chính xác hơn. Bao giờ cũng vậy, đi tiên phong trong vấn đề nào cũng có những khó khăn 
trong bước đầu, và ở đây tìm được những danh từ Việt hay Việt hóa sát 
nghĩa với nguyên văn là cả một 
vấn đề thiên nan vạn nan. Chúng tôi 
sẵn sàng chấp nhận những khó khăn ấy để mở 
đường cho những dịch phẩm về sau về Pàli Abhidhamma.
Sài Gòn, ngày 15 tháng 12 năm 
1973
Tỳ kheo THÍCH MINH CHÂU
Viện Trưởng Viện Ðại Học Vạn Hạnh