Nghi
lễ Phật giáo đã có một lịch sử lâu dài và phát triển trên quê hương đất
nước Việt Nam. Nếu nhìn từ góc độ văn hóa thì nghi lễ chnhs là một 
trong những tố phần cơ bản tạo nên nét đặc trưng minh biệt của Phật giáo
Việt Nam, một tôn giáo gắn liền với vận mệnh thăng trầm của đất nước, 
đậm đà truyền thống dân tộc. Tuy
nhiên, vì nhiều lý do chủ quan cũng như khách quan, thành tố văn hóa 
Phật giáo đã không được trân trọng, nếu không muốn nói là bị xem nhẹ. Có
lẽ đây là lý do vì sao trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, có quá ít dữ 
liệu đề cập đến một cuộc hội nghị qui mô bàn thảo về vấn đề nghi lễ 
tương xứng với tầm vóc của nó. 
Nghi lễ
Phật giáo không sinh ra từ chân không mà khởi nguyên từ nền văn hóa Ấn 
Độ, nơi có quan niệm là âm nhạc là phương tiện gôn ngữ khả dĩ duy nhất 
để diễn bày sự sâu thẳm của chân lý. Ý nghĩa về âm nhạc, do vậy, nơi xứ 
Phật thường đươc biểu hiện ở ba phương diện: 
1. Âm nhạc là hiện thân của suối nguồn tâm linh; 
2. Âm nhạc là phương tiện để khơi nguồn tâm linh; 
3. Âm nhạc là linh ngữ của tế tự, phụng bái thần linh, Phạm thiên.
Âm
nhạc được dùng trong tế tự, cúng bái gọi lọi là lễ nhạc. Trong Phật 
giáo ý nghĩa lễ nhạc được miêu tả trong nhiều đoạn kinh văn thuộc văn hệ
Phật giáo Nguyên thủy cũng như trong văn hệ Phật giáo phát triển đại 
thừa, được thể hiện dưới những hình thái như: chư Thiên rãi hoa trổi 
nhạc cúng dường Đức Phật, ngâm tán thơ ca ngợi chân lý nhiệm mầu …Lễ 
nhạc trong trường hợp này gọi là Pháp lễ hay Pháp nhạc. 
Vào
thời Đức Phật, sự hiến tế sinh vật rất thịnh hành và công việc tế lễ 
thượng đế, thần linh là đặc quyền của giai cấp Bà la môn. Đức Phật nhà 
đại cách mạng đã cực lực phản đối những cuộc hiến tế như thế, Ngài cũng 
chủ xướng học thuyết duyên sinh vô ngã, bác bỏ niềm tin vào một đấng 
thượng đế quyền năng tối thượng. Chính vì những lý do này mà Lễ nhạc 
Phật giáo khi Đức Phật còn tại thế chỉ dừng lại trong phạm vi Pháp lễ 
hay Pháp nhạc. 
Tuy
nhiên, khoảng 100 năm sau khi Thế Tôn nhập Niết bàn, Phật pháp bấy giờ 
được truyền được truyền bá rộng rãi đến nhiều miền khác nhau dọc theo 
vành đai trung Ấn, và giới Tăng sĩ Phật giáo đã chuyển dần từ khuynh 
hướng Tu viện sang khuynh hướng xã hội, công cuộc chuyển mình này theo 
thời gian lại được đẩy cao và xa hơn khi đạo Phật vượt qua biên giới Ấn,
truyền đến các nước dọc theo con đường tơ lụa thuộc Trung Á, Trung Hoa 
và các nước thuộc khu vực Đông Nam Á – Thái Bình Dương. 
Nhằm
thích nghi với phong tục, tập quán, đáp ứng yêu cầu tín ngưỡng của quần
chúng và để tồn tại, phát triển ở những vùng, miền văn hóa rất khác 
nhau này, Pháp lễ hay Pháp nhạc đã được chư Tổ nâng lên thành một pháp 
môn phương tiện với sự quy chuẩn hóa cao về mặt thẩm mỹ và nghệ thuật 
văn hóa, mà thường được biết đến dưới danh nghĩa pháp môn Nghi lễ Thiền 
gia. 
Khi
gọi là pháp môn, nghi lễ bấy giờ rõ ràng không chỉ dừng lại ý nghĩa 
phương tiện đưa người vào đạo, mà còn là một pháp môn tu tập đưa đến sự 
thể nhập chân như bằng sự rung cảm tâm linh. Thật vậy, vì nghi lễ định 
tính và được định tính bởi sự rung cảm, nên nghi lễ chính là một trong 
hai con đường đưa đến giải thoát, đó là bằng tư duy để ngộ nhập chân lý,
và bằng rung cảm dọn đường cho một rung cảm trác tuyệt. 
Nghiêm
là cốt của lễ, hòa là lỏi của nhạc. Để lễ được trang nghiêm, thì lễ 
phải có nghi, và để nhạc được hòa thì nhạc phải có điệu. Nghi nghiêm, 
nhạc hòa là hai yếu tính cơ bản định danh nên Pháp môn Nghi lễ Thiền 
gia. Để “Nghi nghiêm” và “Nhạc hòa”, hay để “Danh” song hành với “Thực”,
do vậy, nghi lễ Phật giáo đòi hỏi người hành nghi lễ, đối tượng nghi lễ
và nội dung nghi lễ phải đáp ứng một số phẩm chất nhất định. 
*
Người hành lễ có thể gồm những người thực hành nghi lễ, người truyền bá
nghi lễ, và người vừa thực hành, vừa truyền bá nghi lễ. Người hành nghi
lễ cần hội đủ ít nhất ba phẩm chất: 
a. Có thanh văn, tướng trang nghiêm; 
b. Có chiều sâu nhất định về tu tập tâm linh; 
c. có thẩm quyền về nghi lễ. 
Trong ba phẩm chất trên, thì hai phẩm chất đầu là điều kiện cần, phẩm chất sau là điều kiện đủ của một người hành nghi lễ. 
*
Đối tượng nghi lễ ở đây chính là những đối tượng mà nghi lễ phục vụ, 
hay nói khác đi là những giới, những người có nhu cầu về nghi lễ. Như 
vậy bao hàm một diện rộng trong xã hội, bao gồm cả giới xuất gia và tại 
gia, Phật tử và không phải Phật tử. Tuy nhiên, điều qua trọng là đối 
tượng nghi lễ nhất thiết phải có thành, có tín và có lễ. Có thành tâm 
tin tưởng và có lễ tắc thì nghi lễ mới thật sự có ý nghĩa, giá trị và 
hiệu quả tác dụng. Tạo dựng được phẩm tố nầy nơi đối tượng nghi lễ là 
trách nhiệm và vai trò của người thực hành truyền bá nghi lễ. 
*
Cuối cùng là nội dung nghi lễ gồm có hai phần: nghi thức và lễ nhạc. 
Nghi thức tức là văn bản hay văn chương về nghi lễ, hay còn gọi là lễ 
văn, nhạc lễ. Tức là âm nhạc biệt dụng cho tế lễ, hay còn được gọi là lễ
nhạc. Vì nội dung nghi lễ là biểu hiện cụ thể của thẩm mỹ học Phật 
giáo, thẩm mỹ giải thoát, nên nghi thức phải nghiêm chỉnh, lễ văn cần 
phải hoàn bị và lễ nhạc phải hài hòa, thiền vị. Đây là ba yếu tố quyết 
định của nội dung nghi lễ Phật giáo.
Pháp
môn Nghi lễ thiền gia gồm ba thành phần: người hành nghi lễ, đối tượng 
nghi lễ và nội dung nghi lễ. Tuy mỗi thành phần xác định những phẩm chất
riêng biệt, nhưng mối quan hệ giữa chúng là mối quan hệ hữu cơ. Một 
thành tố bị khiếm khuyết sẽ ảnh hưởng đến sự hoàn thiện của toàn thể. 
Cùng
với bước chân hoằng dương Phật pháp của chư Tổ đức, các truyền thống 
nghi lễ Phật giáo từ Ấn Độ, Trung Hoa và các nước Đông Nam Á – Thái Bình
Dương đã du nhập vào Việt Nam, một vùng đất xưa từng được mệnh danh là 
“ngã tư đường giao lưu văn hóa Đông Tây”. Trải qua quá trình lịch sử dài
dung hóa và phát triển, các truyền thống lễ nhạc này đã được Việt Nam 
hóa để trở thành một thành tố đặc thù của văn hóa Việt Nam và của Đạo 
Phật Việt Nam.
Nhận
thức được tầm vóc giá trị đó của nghi lễ, Giáo hội Phật giáo Việt Nam 
đã thành lập một Ban ngành cấp Trung ương chuyên trách về nghi lễ, và 
mỗi tỉnh, thành đều có chuyên ban nghi lễ. Đặc biệt Ban Nghi lễ Trung 
ương trong thời gian gần đây đã có nhiều hoạt động nổi bật nhất là kiện 
toàn và phát triển nghi lễ. Tuy nhiên, vì nhiều lý do chủ quan và khách 
quan, nghi lễ vần con nhiều vấn đề cần khắc phục, đòi hỏi nhiều nỗ lực 
hơn nữa trong việc đào tạo lớp người kế thừa có đủ phẩm chất của một chủ
thể nghi lễ, giáo dục đối tượng nghi lễ, nhất là hoàn thiện và thống 
nhất nội dung nghi lễ. 
I. Người hành nghi lễ 
Để
có những thế hệ thực hành nghi lễ và truyền bá nghi lễ xứng đáng, nhằm 
hướng đến xây dựng trường chuyên về âm nhạc Phật giáo, đưa nghi lễ vào 
chương trình giáo dục Tăng Ni, Ban Nghi lễ Trung ương cần có những hoạt 
động cụ thể: 
1.
Thành lập Tiểu bản Khoa giáo cấp Trung ương để chuyên trách nghiên cứu 
và biên soạn giáo trình, giáo án cũng như sách giáo khoa nghi lễ cho các
trường Phật học từ Sơ cấp đến Học viện.
2.
Ban Nghi lễ tỉnh, thành mở lớp thường niên đào tạo nhân sự nghi lễ 
(người hành nghi lễ) phù hợp với văn hóa và nội dung nghi lễ của địa 
phương. 
3.
Cấp giấy xác nhận thẩm quyền nghi lễ để nâng cao vai trò của người hành
nghi lễ, đồng thời cần trong sạch hóa hàng ngũ người hành nghi lễ. 
II. Đối tượng nghi lễ 
1. Quy định cụ thể chức năng và phạm vi của giới tại gia cư sĩ liên quan đến nghi lễ. 
2. Cần kết hợp với Ban Hoằng pháp các cấp để phổ biến tinh thần của nghi lễ Phật giáo đến quảng đại quần chúng Phật tử.
III. Nội dung nghi lễ 
Để
bảo tồn âm điệu, thiền nhạc mang tính đặc thù văn hóa mỗi vùng, miền, 
vấn đề thống nhất lễ nhạc có thể chưa đặt ra, nhưng về văn bản nghi lễ 
cũng cần có sự thống nhất. 
Nghi thức lễ hiện hành trong Phật giáo Việt Nam có một số lễ như sau: 
1. Đại lễ của Giáo hội, Đại lễ Phật đản, lễ vía chư Phật và Bồ tát.
2. Nghi lễ Đại giới đàn. 
3. Lễ tang hay Thiền môn chánh độ của chư Tôn đức Tăng Ni.
4. Nghi lễ công phu thường nhật tại các Tự, Viện.
5. Nghi lễ đặc biệt tại các Tự, Viện như: Lễ khánh thành (lạc thành), tôn trí Phật tượng, đúc chuông … 
6. Lễ truyền giới Bát quan trai. 
7. Lễ an vị Phật.
8. Lễ cầu an, cầu siêu. 
9. Nghi Mông sơn Du già hay lễ Chẩn tế bạt độ. 
10. Lễ tang, trai tuần chung thất …và húy kỵ. 
Tất
cả những lễ nêu trên, nói chúng đều có văn bản nghi lễ, tuy nhiên việc 
thực hành còn nặng về tiếng Hán cổ, tiếng Phạn, tiếng Pàli và chưa có sự
thống nhất trong toàn quốc. Để việc thống nhất một số nghi lễ mang tính
quan trọng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, chúng tôi đề xuất giải 
pháp: 
- Thống nhất lại các nghi thức Đại lễ của Giáo hội, Đại giới đàn. 
- Biên soạn nghi thức lễ dành riêng cho chư vị tôn túc Ni. 
-
Cổ vũ và xúc tiến mạnh hơn trong việc Việt hóa nghi thức lễ. Trước mắt 
cần tu chỉnh và Việt hóa những nghi thức lễ liên quan đến giới tại gia 
Cư sĩ, ít nhất trong mức độ khả thi./.