Phật Học Online

Việt Nam Phật Giáo Sử Lược
Tác giả: Thích Mật Thể

Vài nét về Thiền sư Mật Thể

Lời khen cuốn Việt Nam Phật giáo Sử lược[1]

Tháng Trọng Xuân năm Quí Mùi, Pháp sư Mật Thể du hành các tỉnh phía Nam mang theo bản cảo Quốc ngữ cuốn Việt Nam Phật giáo sử, và thưa với tôi đó là tập sách do Pháp sư trải bao năm tháng sưu tầm biên soạn mà thành, thỉnh cầu tôi chứng giám. Tôi nhận lấy bản cảo và đọc kỹ. Mỗi khi đêm tĩnh đèn cao, ngồi bên cuốn sách, nghĩ đến Sư đã từng có năm theo học nơi tôi, tôi biết được chí hướng và nguyện vọng của Sư. Ngoài việc tu học, Sư chưa từng lưu tâm đến việc phiên dịch trước thuật nhằm cho sự nghiệp hoằng pháp.

Xưa kia Phật giáo từ Đông độ sang, truyền nhập vào nước Nam ta đã hơn ngàn năm. Chư vị đạo Tổ Thánh Tăng tương tục phát xuất công đức, chiếu sáng lịch sử, há đâu từng mai một. Ngày hôm nay đây có được cuốn sách này, chẳng những có công với Phật giáo mà còn có công với Phật học vậy. Do đó tôi vui mừng vô lượng vô biên, vội có mấy lời tán thán.

Phật giáng thế 2506, tháng ba mùa Xuân,

Chùa Thập Tháp, Bình Định

Hòa thượng Phước Huệ.

Tựa

Phật giáo khởi thủy ở ấn Độ, truyền đi khắp các xứ lân cận. Trước hết sang các nước Trung á Tế á rồi thứ độ sang Tây Tạng, Trung Hoa, Cao Ly, Nhật Bổn và các nước miền Nam Châu á. Việt Nam ta cũng ở trong phạm vi ảnh hưởng ấy. Mỗi khi Phật giáo vào xứ nào thì tùy theo tính tình, phong tục, quốc độ, thời cơ xứ ấy mà phương tiện truyền thụ. Phật giáo mỗi xứ có một  tinh thần và một tính cách khác nhau cũng như lịch sử các xứ ấy Nên muốn khảo về Phật giáo một xứ nào cần phải chia ra làm hai phần : Phần Lịch sử và phần giáo lý cùng triết lý. Lịch sử có khảo cứu được rõ ràng thì giáo lý, triết lý suy nghiên mới được vở vạc.

Hỏi đến Lịch sử Phật giáo Việt Nam nhà thì ai cũng bảo: “Có từ Đinh, Lê trải qua Lý, Trần, Lê rồi đến bản triều”, tựa hồi như một vấn đề giản dị quá. Thật vậy, các quan sử phần nhiều chỉ thấy có nói đến Phật giáo đời Đinh mà thôi. Biết đâu bất đầu từ Đinh, Việt Nam ta đã nhận Phật giáo làm Quốc giáo, đặt Tăng quan trong triều, thì chắc hẳn Phật giáo hồi đó đã tới một trình độ thịnh đạt lắm rồi. Bởi thế trong vấn đề Phật giáo truyền vào từ bao giờ? Truyền vào cách nào? Đường nào? Từ phía Bắc hay từ phía Nam? Ấy, chính những câu hỏi ấy, khiến ta phải để tâm nghiên cứu.

Những sách nói về vấn đề Lịch sử Phật giáo Việt Nam tuy không phải không có, nhưng cũng không lấy đâu được nhiều, mà cũng không phổ cập mọi người. Bất quá chỉ vỏn vẹn được vài ba bộ như : Thiền uyển tập anh, Thống yếu kế đăng lục, Đạo giáo nguyên lưu v...v và một vài bộ Ngữ lục cùng năm ba thiên truyện ký các vị Cao Tăng. Vì những nỗi eo hẹp khó khăn ấy, nên mấy ai đã có cái hứng thú về đường trước thuật, mà có một ít - rất ít - cũng dấu trong chùa riêng, sao đi chép lại, chắc chưa có bản nào là hoàn thiện mà ai cũng được xem. Tuy vậy có còn hơn không : nhờ có những sách ấy của tiền nhân ta để lại mà ta biết được chút ít về Lịch sử Phật giáo nước nhà. Há không phải là những tài liệu quý hóa cho môn sử học này hay sao?

Khốn nỗi những sách ấy viết toàn bằng chữ Hán cả Đối với phái xuất gia không kể, còn quốc dân ta, từ khi Hán học không được nhận dạy ở các trường công,  học giới ta lấy Quốc văn và Pháp vặn thay vào. Các bậc tân tiến ngày nay đối với kho sách chữ Hán xưa gần như chim chích vào rừng. Nếu không dịch ra chữ Quốc ngữ thì các tài liệu quý hóa ấy cũng chẳng bổ ích cho học giới được bao nhiêu.

Vậy ngày nay trong Thiền gia học giới có người dụng công sưu tập cả tài liệu Hán văn, Quốc văn cùng Pháp văn, đem dịch thuật, sửa soạn phô diễn làm thành một quyển sách khiến độc giả có thể biết qua cả Lịch sử Quốc giáo Việt Nam trong mấy nghìn năm, há chẳng có ích lắm ru ! Không những thế, những tài liệu đã sưu tập lại là tài liệu quý giá cho sử học giới sau này, thì dù ở trong không khỏi có điều sai lầm khiếm khuyết, song

về môn tài liệu thì sách này vẫn là có công to.

Chính vì các lẽ ấy, nên xin giới thiệu cùng các học giả và các Phật tử Việt Nam sách “Việt Nam Phật giáo sử lược” của Thượng tọa Mật Thể, giáo sư Trường Sơn Môn Phật học Huế. Mong rằng Thượng tọa bền chí sửa tập, cố gắng làm thêm cuốn VIỆT NAM PHẬT GIÁO GIÁO LÝ thì thật bổ ích cho tương lai Phật giáo Việt Nam nhà ta lắm vậy.

Riêng phần chúng tôi lấy làm mong mỏi vô cùng.

Nay kính đề
Thúc Ngọc : TRẦN VĂN GIÁP
Viết tại Thư viện chùa Quán sứ
Trụ sở Trung ương Hội Phật giáo Bắc kỳ - Hà Nội
ngày nhập đông tháng mười năm Nhâm Ngọ (1942).
 


Vài nét về Thiền sư Thích Mật Thể
(1913 - 1961)[2]

Thiền sư tên thật  là Nguyễn Hữu Kế, sanh năm 1912 ở làng Nguyệt Biểu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, thành phố Huế.

Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, dòng Thích Lý của cụ Nguyễn Hữu Bộ.

Lúc nhỏ theo học Nho giáo và Quốc ngữ chương trình Pháp Việt. Thiền sư đã đỗ Primaire. Người thông minh, lanh lợi.

Gia đình đều qui hướng theo Phật. Cụ thân sinh và người anh ruột cũng đều xuất gia làm đệ tử chốn Thiền lâm.

Lên 12 tuổi, Thiền sư được thân sanh đem về chùa Diệu Hỷ (Huế) cho tu học. Hằng ngày cần mẫn học tập. Bản chất thông minh nên chả mấy chốc tiếp thu một cách mau chóng Kinh Luật căn bản của Phật giáo.

Lên 16 tuổi Thiền sư nhập chúng ở chùa Từ Quang với Hòa thượng Giác Bổn. Nhận thấy Thiền sư là người xuất sắc, đảm đang, nên cho vào tu học ở chùa Trúc Lâm với Hòa thượng Giác Tiên. Khi vào đây như cá gặp nước, rồng gặp mây, Thiền sư lại được gần Thầy gần bạn, học hỏi chuyên cần nên trí huệ mau chóng phát triển.

Năm lên 18 tuổi, Thiền sư được Hòa thượng Giác Tiên thế độ và cho thọ Sa-di giới với Pháp danh Tâm Nhứt, Pháp tự là Mật Thể.

Năm 1932, Hoà thượng Giác Tiên thỉnh đại lão Hòa thượng Phước Huệ chùa Thập Tháp tỉnh Bình Định ra khai giảng Phật học đường ở chùa Trúc Lâm và Tây Thiên, Thiền sư được đặc cách cho theo học lớp này.

Năm 1935, Hòa thượng Bổn sư viên tịch. Năm 1937 Hòa thượng Thập Tháp vì tuổi già không thể dạy tiếp nên trở về Tổ đình Thập Tháp ở Bình Định an nghỉ. Thiền sư xin với Sư huynh sang Trung Quốc nghiên cứu về Phật học ở Viện Phật học Tiêu Sơn do Hòa thượng Tinh Nghiêm làm Trú trì.

Cuộc chiến tranh Hoa-nhật bùng nổ, năm 1938 Thiền sư trở về Việt Nam làm Giảng sư cho Sơn môn Phật học và An Nam Phật học Hội. Trong thời gian này Thiền sư trước tác quyển Việt Nam Phật giáo Sử lược. Ngoài ra còn dịch tiếp quyển Phật giáo Khái luận, Phật học dị giải và kinh Đại thừa vô lượng nghĩa.

Năm 1941, Thiền sư nhận làm giáo thọ cho Phật học đường Lưỡng Xuyên tại Trà Vinh được một năm rồi trở ra Huế.

Đến năm 1944, Thiền sư thọ Cụ túc giới ở Giới đàn tại chùa Thuyền Tôn do Hoà thượng Giác Nhiên làm Đàn đầu.

Trong Giới đàn này Thiền sư đứng đầu các giới tử và được công nhận là Thủ Sa-di.

Năm 1945, Thiền sư được Sơn môn cử giữ chức Trú trì chùa Phổ Quang ở cố đô Huế. Những văn nhân nghệ sĩ tên tuổi thời bấy giờ như cụ Trần Văn Giáp, Phạm Quỳnh, Khái Hưng . . . đều đặn đến chùa Phổ Quang đàm đạo với Thiền sư.

Năm 1946, Thiền sư tham gia Phong trào Phật giáo cứu quốc khi Chính phủ Lâm thời tổ chức Tổng tuyển cử, Thiền sư được đề cử ra ứng cử đơn vị Thừa Thiên và đắc cử Đại biểu Quốc Hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cũng năm 1946 này, Thiền sư được mời làm Chủ tịch ủy ban Phật giáo Cứu quốc tỉnh Thừa Thiên. Trong những năm sơ tán, Thiền sư về ở Nghệ An và viên tịch tại đây.

Thiền sư trụ thế 49 năm, thị tịch năm 1961 tại Nghệ An. Những tác phẩm của Thiền sư đã xuất bản từ năm 1941-1957 gồm có :

- Phật giáo yếu lược.

- Phật giáo khái luận.

- Cải tổ sơn môn.

- Xuân đạo lý.

- Đại thừa Vô lượng nghĩa.

- Việt Nam Phật giáo sử lược.

Trong thời gian ở Nghệ An, Thiền sư đã phiên dịch và trước tác Kinh Luật Luận rất nhiều, nhưng hiện nay đã thất lạc vì chiến tranh. Tháp của Thiền sư hiện đã được cải táng ở chùa Trúc Lâm - Huế.
 

Lời nói đầu

Đứng về phương diện tuyệt đối mà nói, chân lý vốn không có thời gian và không gian. Thời gian và không gian đã không, thì, trên cõi đời này có cái gì đáng gọi là lịch sử và ai là nguội chép lịch sử ? Xưa đức Phật tổ qua 49 năm thuyết pháp giáo hóa, khi gần nhập Niết-bàn, Ngài muốn khai thị cho chúng biết đạo lý "bất nhị pháp môn", Ngài dạy: Ta xưa nay chưa từng nói một chữ[3]

Huyền diệu thay ! Câu nói tuy rất vắn tắt, đơn sơ mà bao hàm biệt bao ý nghĩa. Vì sao ? Với chân lý tuyệt đối bản thể "pháp giới thanh tịnh tâm " thì văn tự hay ngữ ngôn đều là thừa cả.

Đành vậy, nhưng cuộc đời này là tương đối. Trăm ngàn hiện tượng phô diễn trước mặt, người ta không thể cùng nhau bảo là không được. Toàn thể nhân loại chúng sinh đã mê lầm, nhận vạn hữu trong vũ trụ cho là thật có, nên đã manh tâm tranh dành kiến thiết, để mưu cầu sự tiến hóa hạnh phúc. Nhưng trái lại, chỉ cùng nhau quay cuồng hụp lặn trong biển khổ ! Nỗi nguy hại của lịch sử đã biểu diễn ra rành rành, sao người ta không chịu xóa nhòa nó đi, để mọi người được sống trong cảnh giới hòa đồng, không còn phân chia văn hóa, chủng tộc của mỗi địa giới ? Nói vậy, không phải tôi bi quan, phủ nhận sự tiến hóa hiện thời của nhân loại. Nhưng tiến hóa bằng cách nào chứ ? Nếu tiến hóa mà buộc nhân loại mãi rước lấy sự chém giết lẫn nhau, thì khốc hại biết chừng nào ?

Mục đích và tinh thần Phật giáo vốn dắt dẫn mọi người đạt đến chân lý tuyệt đối. Và, chúng tôi bao giờ cũng thể theo tâm “Vô tướng” của chư Phật, chân lý tuyệt đối của “pháp giới” mà tu trì;  ngoài ra không dám manh tâm tranh dành một địa vị hay một thiên lịch sứ gì cho Phật giáo hay cho cá nhân ở trong xã hội nhân loại này. Chẳng qua với giữa hoàn cảnh người người đều xem trong lịch sử, suy tầm lịch sử, mà Phật giáo lại là nền giáo lý vốn sẵn phương tiện tùy duyên khai hóa, đủ có pháp này pháp kia cho hết thảy mọi người biết mà tu học.

Vậy Phật giáo đã là một hiện tượng trên thế giới, nói hẹp là một tôn giáo đã truyền vào nước Việt Nam này, lẽ nào lại không có một lịch sử truyền bá ?

*

Kể Phật giáo từ khi truyền vào đất Việt Nam ta đến nay đã gồm có cái lịch sử gần 2.000 năm. Qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê không phải là không thạnh và, Phật giáo không bổ ích cho thế đạo nhơn tâm. Các vị Tổ sư, các bậc Cao Tăng xưa như ngài Pháp Hiền Thiền sư, Khuông Việt thái sư, Vạn Hạnh Thiền sư, Cảm Thành Thiền sư và Trúc Lâm tam tổ v.v... đã từng đem chỗ tu học hoằng pháp của mình mà mở mang nền đạo đức văn hóa cho nước nhà không phải là ít.

Thế mà trừ một  ít tài liệu chép rải rác trong các sách sử và một đôi quyển Ngữ lục gia phổ ở các chùa, thì không còn có một quyển sách nào cụ thể đáng gọi là một quyển lịch sử có tổ chức để làm gương soi chung cho người sau, noi theo đó biết được điều hay cần bắt chước, điều dở phải tránh xa, đặng giúp về sự xét đoán trên bước đường tu học hoằng pháp. (Nói thế chứ tôi đâu dám chỉ trích gì cổ nhân. Không, tôi biết lắm ! -  1. Người xưa tánh tình thuần phác, vả lại nền kinh tế kỹ nghệ[4] chưa được phát triển mấy, nên người học đạo (Phật hay Nho cũng vậy) cột để tu tâm dưỡng tánh, chứ đâu phải để chuyên về mặt văn hóa trước thuật. Vì  vậy, không những riêng về Phật giáo

thiếu quan niệm lịch sử mà cho đen thế gian các bậc tiền bối ta cũng thiếu hẳn quan niệm ấy. Huống nữa Phật giáo là một tôn giáo chứa đầy tư tưởng “vô tướng”. Người hành đạo dù có làm việc gì to lớn đến đâu cũng không cần ai biệt và chẳng lưu tâm biên chép điều đó để lại làm gì. 2. Nước Việt Nam ta là một nước nhỏ ở gần một nước lớn - Trung Hoa, ngót 1000 năm nội thuộc, hết thảy văn hóa, giáo dục đều phải học đòi theo những sách vở mà họ chở qua cho ta đọc còn không hết, có thì giờ đâu mà nghĩ đến việc trước tác. Vả dù có nghĩ đến việc trước tác thì, viết chữ Hán chi bằng đọc sách họ là hơn, mà nếu viết bằng tiếng nước nhà thì chữ Nôm ta thời ấy còn cho là nôm na, không có giá trị, chi bằng thôi là xong. Những khuyết điểm ấy ta phải nhận là một công lệ của thời đại trước. Mà thật ra người đương thời đó cũng không lấy thế cho là khuyết điểm).

Ngày nay nhơn phong trào học thuật tiến bộ, tư tưởng người ta đã quan niệm nhiều về lịch sử. Riêng về Phật giáo phần đông người học Phật cũng muốn biết đến tung tích nền Phật giáo của nước nhà mình thế nào ... Vẫn biết học đạo chỉ tìm thấy con đường về là được cần gì phải hỏi đến Tổ tông[5] . Nhưng thiết nghĩ, nếu biết được Tổ tông thì lại có hại gì ? Vả lại bước đầu nếu không biết Tổ tông thì nương vào đâu mà tìm thấy được con đường về.

Vì  thiên kiến, muốn thích ứng với nhu cầu của thời đại, bổ khuyết vào chỗ khuyết hám trên nền Lịch sử Phật giáo nước nhà, quyển Việt Nam Phật giáo sử lược này ra đời. Nói lại lần nữa, bản ý chúng tôi không vì xua đùa theo danh lợi, hay phô trương cái hay cái giỏi trong Phật giáo, mà chỉ một lòng vì văn

hóa học thuật, đi với mục đích hoẵng pháp lợi sanh, chỉ mong được làm - dù công việc gì, nhiệm vụ của một Phật tử trong một thời đại.

Những tài liệu chúng tôi dùng viết sách này, về phương diện Phật học phần nhiều căn cứ vào quyển Việt Nam Thuyền uyển tập anh, Thống yêu kế đăng lục,  Việt Nam Thuyền tôn thế hệ và quyển Le Bouddhisme An-nam des origines au XIII è siècle của Trần Văn Giáp tiên sanh. Còn về sách ngoài thì có bộ Quốc Triều tiền biên. Chánh biên, lịch sử nhân vật chí, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Việt ký, Đại Nam nhất thống chí, Việt Nam sử lược v.v… Tóm lại những sách vở hoặc báo chí gì đã dùng làm tài liệu để kê cứu trong khi việt sách này, chúng tôi đều có kê vào mục sách tham khảo rõ ràng để tiện độc giả khi muôn xét lại điều gì. Tiếc vì không gian quyển sách này có hạn và mọi phiền tạp trong sự biên tập nên chúng tôi không thể đánh dấu hết sơ xuất của mỗi chỗ được. Điều đó, tưởng độc giả cũng xét biết mà lượng thứ cho.

Nội dung sách này chia làm hai phần : Tự luận và Lịch sử. Phần Tự luận chia làm bốn chương. Trước hết thuật qua lược sử đức Thủy tổ Phật giáo và tình hình duyên cách Phật giáo ở ấn Độ, rồi đến Phật giáo ở Trung Hoa; địa thế nước Việt Nam, nguồn gốc và tinh thần người Việt Nam v.v... Về phần Lịch sử chia làm mười chương. Bắt đầu khảo xét Phật giáo từ khi mới du nhập, lần lượt qua các triều đại cho đến hiện đại.

Trong khoảng thời gian gần 2000 năm, sự bố giáo của liệt vị Tổ sư ra thế nào, tình cảnh thạnh suy của Phật giáo qua các triều đại ra thế nào, chúng tôi đều tham hiệp với tình hình chính trị, kinh tế của mỗi thời đại trong nước mà ghi chép rõ ràng kỹ lưỡng. Sau mỗi tôn phái lại có một bản đồ kê về thế hệ cho độc giả tiện bề tham khảo. Chúng tôi không dám tự nghĩ là đã hoàn toàn trong công cuộc khảo xét, nhưng với tài liệu xưa, chúng tôi cố tìm và cố chọn lấy những điều xét thật đáng tin. Chúng tôi không có xa vọng gì hơn là mong sách này nó chỉ là một cuộn đại quan về một thiên lịch sử, phận sự của nó là mở đường cho những cuốn Việt Nam Phật giáo sử sau nầy.

*

Chúng tôi vẫn nhận thấy khảo xét lịch sử là một công việc rất lớn lao, không phải riêng phần cá nhân mà đảm đương nổi. Riêng về Phật giáo, Thượng Chi tiên sanh cũng đã từng than : “Sưu tầm tài liệu để viết quyển Việt Nam Phật giáo sử là một việc rất khó”[6]. Nhưng chúng tôi đã đem hệt nhiệt tâm, nhận lấy một trách nhiệm, trong ba, bốn năm nay với sự yếu đau, với những khi mệt nhọc, chúng tôi vẫn cố gắng quyết đeo đuổi một mục đích : Phụng sự Phật giáo.

Trong sự biên tập cũng nhờ có nhiều thiện hữu tri thức đã giúp cho tôi, hoặc về tài liệu, hoặc biên chép hay cho những đoạn Pháp văn có quan hệ đến Lịch sử Phật giáo. Tiếc rằng không thể ghi hết được, vậy xin các bạn hoan hỷ nhận lấy ở đây, lòng thành thật cảm ơn của tôi.

Và chúng tôi rất trông mong các bậc Đại đức trong các Sơn môn cùng các học giả, cư sĩ trong nước, sau khi quyển sách này ra đời nếu được may mắn nằm trên tay quí ngài, như còn chỗ nào sai lầm khuyết điểm, xin quí ngài vui lòng chỉ giáo lại cho. Chúng tôi rất chân thành cảm tạ.

ĐIỀU NGỰ TỬ MẬT THỂ
Viết ở Trúc Lâm - Huế
Giữa mùa Xuân năm Quí Tị
(Phật lịch : 2506 - Tây lịch : 1943)
 

PHÀM LỆ

1. Phần Tự luận trong sách này, vì thảo luận các vấn đề có hơi dài sau nghĩ muốn bỏ đi, nhưng lại tiếc cái công trình đã thảo ra nó. Vậy độc giả muốn hiểu ngay tình hình của một thiên lịch sử, xin hãy giở ngay phần lịch sử đọc trước, khi rỗi rảnh sẽ tham khảo phần Tự luận sau, cũng không ngại gì.

2. Những bản đồ trong sách này, trừ bản A, bản H, và bản I ra, còn các bản khác đều theo sự sắp đặt của Trần tiên sanh trong sách Le Bouddhisme en An-nam ... Chẳng qua đoạn dưới bản đồ G, tác giả có sửa lại mấy tên cho đúng hiệp với thứ tự về những chữ trong giòng kệ.

3. Kể ra Phật giáo ở Trung kỳ gần đây, ngoài phái Nguyên Thiều và Liễu Quán, còn có các phái nhỏ khác, gốc ở hai phái trên mà lập ra, đặt riêng một giòng kệ khác. Nhưng sự truyền thống không được phát đạt lắm, nên đại khái không thể chép thành bản đồ được

4. Bất cứ một tôn giáo này, truyền vào nước nào, về sự thạnh suy đều có liên quan bởi các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của các thời đại trong nước ấy. Sách này vì muốn khởi hứng cho độc giả, nên tác giả dựa theo tình hình của các thời đại trong nước, lược thuật một cách rõ ràng, độc giả khi đọc rất có nhiều thú vị.

5. Sách này viết xong vừa gặp thời cuộc chiến tranh ngày thêm rắc rối, đối với vấn đề ấn loát thật trăm phần khó khăn, nên đành phải để nằm trong tủ một thời gian, nay mới đem in được. Vậy các giáo hữu xa gần, hữu tâm mong đợi xin vui lòng lượng thứ.
 

TIỂU DẪN

Theo tục truyền, nước Việt Nam ta khai quốc bắt đầu từ dời Hồng Bàng (2879 trước TL..?)  lấy quốc hiệu là Xích Quỷ.

Bấy giờ dân ta còn mông muội lắm, ngoài sự tín ngưỡng thần trời (ông Sâm, mụ Sét), thần cây, thần đá v. v… như các dân mọi rợ hiện giờ, thì cũng không có một tín ngưỡng gì thuộc về một tôn giáo nào nữa.

Điều đó không có gì là lạ; bởi không luận dân tộc nào, hễ còn ở vào cái thời kỳ dã man, trí thức chưa được nảy nở, thì về phần tín ngưỡng, đại khái đều giống nhau. Và người ta còn dùng bao nhiêu câu thần thoại để giải thích những hiện tượng mà người đương thời đó cho là bí mật khó hiểu trong vũ trụ. Như chuyện Sơn tinh, Thủy tinh trong I.ích sử nước ta chẳng hạn v.v.. Nên ta có thể nói sự tín ngưỡng ấy là một Thần đạo rất phổ biến của nhân loại buổi sơ khai.

Đến đời Tần Thủy Hoàng sai Đề Thư đem quân sang đánh Bách Việt (Quảng Đông, Quảng Tây và Bắc kỳ bây giờ), (214 trước TL), cho đến khi Triệu Đà nổi lên làm bá chủ cả quận Nam Hải và Âu Lạc (tên cũ nước ta ngày xưa) (207 trước TL) thì dân ta mới bắt đầu tiếp xúc với văn hóa Trung Quốc. Tuy vậy cũng chưa được hấp thụ gì mấy.

Mãi đến đầu thế kỷ, sau khi Lộ Bác Đức diệt xong họ Triệu, các vua Trung Quốc mới nghĩ đến việc truyền bá văn chương, lễ nghĩa sang lãnh thổ mới. Nhưng thật ra, thời ấy họ cũng chỉ dạy cho một số ít người hiểu sơ về lễ giáo và đủ làm thông ngôn mà thôi.

Đến đời Sĩ Nhiếp, nghĩa là bắt đầu vào khoảng năm 178, họ Sĩ được lãnh chức Thái Thú ớ đất này, bấy giờ sự giáo dục mới có tổ chức, các học thuyết Khổng, Mạnh mới bắt đầu truyền bá một cách rõ rệt. Trong khi họ Sĩ đương đem Nho học khai hóa cho dân ta, đồng thời Phật giáo cũng ở ấn Độ và Trung Quốc truyền vào; sau Phật giáo lại có Lão giáo, cũng truyền vào lúc này.

Thế là dân nước ta đến đây đã có được ba tôn giáo. Tựu trung Phật giáo trước tiên được nhận làm Quốc giáo và được nhân dân sùng tín hơn cả. Nhờ tinh thần sáng suốt của thể đạo, với công nghiệp bố giáo của các Tổ sư, Phật giáo rất có công to trên lịch sử văn hóa nước nhà.

…Mà Phật giáo là gốc ở ấn Độ truyền qua Trung Quốc sang ta; vì sự liên quan ấy, nên trước khi muốn rõ Lịch sử Phật giáo Việt Nam, ta cần phải biết qua nguồn gốc Phật giáo Ân Độ và Phật giáo Trung quốc. Điều đó tưởng cũng không phải là vô ích.
 
 
 

[1] Tường Như Lược dịch
[2] Có tham khảo lời Sư bà Diệu Không kể do Lệ Như ghi năm 1985. Tiểu sử này được công bố năm 2004
[3] Ngô bổn lai bất thuyết nhất tự. Đồng với tư tưởng này Lão Tử nói: “Đại biện nhược nói”
[4] Ngày xưa sự khắc bản in sách rất khó, nên ai có làm được quyển gì chỉ để đựng trong nhà, ít khi có dịp in thành sách mà công bố cho đời.
[5]“Xú đồ thành trệ, phất Tổ thành oan”? Câu thoại đầu của phải Thiền tôn…“Kim triệu nguyện môn hoàn gia lý, hà tất bôn man vân tổ tông" - Liễu Quán.
[6] Phật giáo lược khảo - Nam Phong 40 (Mà cũng khó thật, sách vở nước ta ngày xưa ghi chép hết sức lan man. Đến đời Trần Nhân Tôn lại bị người Chàm kéo vào cướp đốt khắp nơi; đời Hồ lại bị tướng Minh thu hết cả sách vở đem về Kim lăng (Trung Quốc) trước khi Gia Long phục quốc lại phải mấy năm chiến tranh với Tây Sơn nên sách vở và bia ký các chùa cũng đã tiêu tán mất nhiều

Nguồn: Thư Viện Hoa Sen


© 2008 -2024  Phật Học Online | Homepage