Mục lục
Lời nói đầu
Phần 1
ANURUDDHA
[1] Thời niên thiếu và duyên lành xuất gia
[2] Ðắc "Thiên Nhãn Thông"
Phần 2
[3] A Nậu Lâu Ðà tiến lên Thánh Hạnh A-la-hán
[4] A Nậu Lâu Ðà và Thánh pháp Tứ Niệm xứ
Phần 3
[5] A Nậu Lâu Ðà và nữ phái
Phần 4
[6] Vài giải đáp và va chạm của Sa-môn A Nậu Lâu Ðà
[7] Tiền kiếp A Nậu Lâu Ðà
[8] A Nậu Lâu Ðà sau khi Phật nhập diệt
Bài thơ cúng dường THÁNH TĂNG A NẬU LÂU ÐÀ
"Namo
Tassa Bhagavato Arahato Sammà Sambuddhassa".
Thành
kính đảnh lễ đấng Toàn Giác
Ngài là bậc thân khẩu ý trọn lành, không còn luân hồi trong tam giới nữa.
Lời Nói Ðầu
Như chúng
ta đã biết: Ðức Phật có năm thượng thủ đại Tôn đồ, sắp theo thứ tự là:
1. Ðại Ca Diếp (Mahà Kassapa).
2. Xá Lợi Phất (Sàrìputta).
3. Ðại Mục Kiền Liên (Mahà Moggallàna).
4. A Nậu Lâu Ðà (Anuruddha), và
5. A Nan Ðà (Ànanda).
Lịch sử của bốn vị: đệ nhất, đệ
nhị, đệ tam, và đệ ngũ Tôn đồ kể trên, chúng tôi đã tùy duyên phiên dịch ra
Việt ngữ, và phổ biến rồi.
Bây giờ đến sử tích của vị đại
Tôn đồ thứ tư, tức thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà, một Thánh nhân rất thâm hậu trong
thiền pháp, nhất là Ngài đã đắc "Thiên Nhãn Thông" siêu đẳng (Dibbacakkhu),
nhờ thuần thục tuyệt diệu trong Chánh Ðịnh, trước khi đạt đến cứu cánh giải
thoát.
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là
Sa-môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên Nhãn" theo dõi
"Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh
thoát xả báo thân, an nghỉ Niết Bàn.
Lúc còn sinh tiền, Thiền Tăng A
Nậu Lâu Ðà tuy là người ít nói, ít tiếp xúc với các hàng tứ chúng, nhưng ông
lại là một Sa-môn dễ hòa hợp với chư huynh đệ nhất, ngay cả trong các trường
hợp đang bế môn tu luyện ở những nơi thanh vắng. Ðọc qua sử tích của Thánh
Tăng, chúng ta không thể không chú ý đến đặc điểm này.
Do đó, cuộc đời của Thiền Tăng A
Nậu Lâu Ðà đáng coi là một tấm gương sáng cho hậu thế noi theo. Vì quả lành noi
gương ấy cũng chẳng kém gì hạnh phúc của sự thực hành đúng lời Phật dạy.
Chúng tôi cố gắng làm công tác
của một cư sĩ nghiên cứu Phật học, và góp phần vào tủ sách dịch thuật. Khả năng
của chúng tôi quả thật còn tương đối, khi đứng trước một rừng chân lý Phật giáo
vi diệu mênh mông. Nếu có điều chi sơ sót, ngưỡng mong chư vị học giả niệm tình
bổ túc cho. Chúng tôi vô cùng cảm tạ .
Quả phúc do sự phiên dịch này
thật tế không phải hoàn toàn qui về dịch giả, mà là của tất cả những ai hằng
giúp đỡ, sưu tầm tài liệu, hùn phước ấn tống, và nhất là do công đức của hai
học giả Hellmuth Hecker và Nyànaponika Thera đã có công đi tiên phong
trong việc tra cứu rất sâu vào Tam Tạng Kinh Ðiển chánh thống, bằng chữ Pàli
và chữ Sanskrit, để biên soạn và chuyển ngữ ra hai bảng tiếng Ðức và tiếng
Anh.
Dịch giả chân thành dâng hiến
phước lành này đến hai vị tiền bối ấy, và cũng không quên hồi hướng công đức ấn
tống đồng đều đến tất cả Phật tử hữu duyên, đã góp phần trong việc hoằng dương
chánh pháp.
Một phần phước khác, dịch giả
xin thành tâm cúng dường đến song đấng sinh thành, và các bậc ân nhân, thầy tổ
của dịch giả.
Nguyện cho dân tộc Việt Nam nói riêng,
và toàn thể nhân loại nói chung, đừng oan trái lẫn nhau, và hằng sống trong ánh
đạo TỪ BI VÔ LƯỢNG của Ðức Phật.
Dịch giả
Nguyễn Ðiều