Phật Học Online

Con đường tỉnh thức Phật, Tổ và Bồ Tát

Đức tự tin và lòng quả cảm giúp ta mạnh dạn, gan dạ dấn thân đóng góp, phục vụ tất cả chúng sinh không biết mệt mỏi, nhàm chán để mình và người cùng được bình yên, hạnh phúc. Nếu chúng ta không tự tin chính mình và không có lòng quả cảm thì ta sẽ không bao giờ kiên trì, bền chí khi gặp khó khăn.

Chúng tôi biên soạn con đường tỉnh thức Phật, Tổ và Bồ-tát dung hợp thành một pháp tu căn bản từ thấp đến cao, có y cứ lịch sử kinh điển rõ ràng để giúp cho người tu theo đạo Phật, biết cách hành trì vào trong đời sống gia đình và xã hội hay đúng hơn là tu trong bộn bề công việc.

CỘI NGUỒN PHẬT PHÁP

Quyển sách này ra đời nhằm để nói lên tông chỉ nhất quán của thiền Phật, Tổ và Bồ-tát, có thể giúp cho mọi người có đủ niềm tin về chánh pháp, có hiểu biết chân chính và tin sâu lời Phật dạy, để biết cách áp dụng hành trì tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình.

Đọc lịch sử ai cũng biết đức Phật Thích Ca Mâu Ni do tu thiền mà ngộ được yếu chỉ Phật pháp ngay nơi thân này. Thiền là cội nguồn của Phật pháp, tu theo đạo Phật nếu không có thiền dù có diệu dụng không thể nghĩ bàn, nhưng vẫn còn ở ngoài cửa “thiền môn”.

Để cho mọi người không còn nghi ngờ về thiền của Phật, Tổ và Bồ-tát khế hợp và dung nhiếp lẫn nhau như nước trăm sông đổ về biển cả. Chúng ta muốn thấu rõ được cốt tủy của thiền, trước tiên phải trách xa hai cực đoan làm tổn hại đến thân tâm do hưởng thụ lợi dưỡng và khổ hạnh ép xác.

Đây là câu châm ngôn bất hủ mà đức Phật đã chỉ cho năm anh em Kiều Trần Như trong bài pháp thoại đầu tiên, là kinh Chuyển Pháp Luân. Người tu theo đạo Phật trước tiên phải nắm vững nguyên tắc này, để làm hành trang trên bước đường tu học và sau đó tùy theo khả năng mà chọn lựa pháp tu cho thích hợp với căn cơ của mình.

Đức Phật vì lòng từ bi thương xót chúng sinh, tùy theo căn cơ trình độ và sự hiểu biết của mọi người mà chỉ dạy đúng theo tâm tư của họ. Người xuất gia, Phật dạy pháp Tứ Diệu Đế để được giác ngộ, giải thoát hoàn toàn. Người cư sĩ tại gia Phật dạy giữ năm giới, tu mười điều thiện, thọ bát quan trai và phước huệ song tu hành Bồ-tát đạo cho đến khi nào thành Phật viên mãn mới thôi.

Hưởng thụ khoái lạc giác quan là lối sống của đức Phật khi còn là Hoàng thái tử, Ngài có cung vàng điện ngọc vợ đẹp con ngoan, có thần dân thiên hạ, muốn gì được nấy, Ngài đâu có thiếu thốn thứ gì. Tại sao đức Phật dám từ bỏ hết tất cả, để ra đi tìm cầu chân lý cho mình và mọi người, quyết chí tu hành để rồi thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người vượt qua sự cám dỗ của thế gian mà sống đời bình yên, hạnh phúc.

Với lối tu khổ hạnh ép xác, Phật đã từng thực tập như thế trong suốt sáu năm trường, thậm chí mỗi ngày chỉ ăn có một hạt mè, hạt bắp cuối cùng thân thể kiệt quệ, dẫn đến ngất xỉu, may nhờ có cô thôn nữ chăn bò giúp cho bát sữa, nên Ngài mới hồi tỉnh lại. Từ đó Ngài chiêm nghiệm trở lại sự tu tập của mình trong nhiều năm qua, nhờ vậy Phật đã tìm ra con đường trung đạo là không tham đắm lợi dưỡng và không khổ hạnh ép xác. Đây cũng là kim chỉ nam để người tu theo đạo Phật, làm hành trang tu tập mà không rơi vào hai cực đoan thái quá.

Con đường hưởng thụ dục lạc thế gian như chúng ta đã biết, trong cái được gọi là hạnh phúc đó luôn đi đôi với mầm móng khổ đau, bởi tính chất của nó là vô thường, tạm bợ, mong manh. Bởi vì sao? Vì sinh già bệnh rồi thương yêu mà xa lìa khổ, oán ghét mà gặp nhau hoài lại càng khổ hơn, mong cầu không được như ý cũng khổ và cuối cùng là chết khổ, nên sầu bi, ưu phiền, khổ não không có ngày cùng. Con đường khổ hạnh ép xác làm cho thân thể bại hoại, suy yếu, làm hành giả không đủ sáng suốt, minh mẫn, để đạt được mục đích giác ngộ, giải thoát.

Chính đức Phật đã trải qua hai lối sống đó, Ngài đã thật sự trải nghiệm trong tu tập chứ không phải lý thuyết suông, do suy luận vu vơ huyền hoặc. Nhờ vậy, sau khi chứng ngộ, Phật đã đến vườn Nai để chỉ cho năm người bạn khi xưa cùng tu khổ hạnh với mình.

KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

Tôi nghe như vầy, sau khi thành đạo, lần đầu tiên Đức Thế Tôn chuyển bánh xe chánh pháp tại Vườn Nai. Tại đây, Ngài dạy năm vị Tỳ-kheo đầu tiên rằng:

Này các Tỳ-kheo, có hai cực đoan mà người xuất gia không nên làm theo. Những gì là hai. Một là đam mê say đắm các dục lạc thấp hèn, có tính cách thô bỉ, phàm tục, không dẫn đến phẩm hạnh cao quý thánh nhân, làm ảnh hưởng đến mục đích tu tập. Hai là tự làm khổ mình bằng các lối tu khổ hạnh ép xác, không thích hợp với các phẩm hạnh bậc Thánh, không dẫn đến mục đích giác ngộ, giải thoát.

Này các Tỳ-kheo, các vị phải từ bỏ và tránh xa hai cực đoan vô ích này. Hãy đi theo con đường Trung Đạo do Như Lai chứng ngộ, có khả năng đem lại pháp nhãn và trí tuệ thấy biết đúng như thật, dẫn đến sự an tịnh, thánh trí, giác ngộ và Niết-bàn.

Này các Tỳ-kheo, đây là Thánh đế con đường Trung Đạo diệt khổ, chính là tám phương pháp nhiệm mầu: Thấy biết chân chính, tư duy chân chính, lời nói chân chính, hành vi chân chính, nghề nghiệp chân chính, nỗ lực chân chính, ý niệm chân chính và thiền định chân chính.

Này các Tỳ-kheo, sau đây là bốn chân lý cao quý vi diệu của cuộc đời:

Chân lý thứ nhất là thực tại đau khổ. Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thương yêu mà phải xa nhau là khổ, thù ghét mà phải gặp nhau là khổ, mong cầu mà không toại nguyện là khổ, chấp vào thân năm uẫn là khổ và cuối cùng là sầu bi, ưu phiền, khổ não.

Chân lý thứ hai là nguyên nhân dẫn đến đau khổ. Đó là phiền não nhiễm ô, là tâm dính mắc vào ái dục, là sự tham đắm và chấp thủ về cái ta, cái của ta, bởi luyến ái và chấp trước trong sự ràng buộc.

Chân lý thứ ba là Niết-bàn, tức là sự trừ diệt hoàn toàn gốc rễ của khổ đau và những nguyên nhân dẫn đến đau khổ. Đó là sự không còn chấp trước ta, người, chúng sinh bởi đam mê say đắm ham muốn, biết buông xả và giải thoát.

Chân lý thứ tư là con đường dẫn đến Niết-bàn, đó là tám phương pháp tâm linh mầu nhiệm là thấy biết chân chính, tư duy chân chính, lời nói chân chính, hành vi chân chính, nghề nghiệp chân chính, nỗ lực chân chính, ý niệm chân chính và thiền định chân chính, là con đường Trung đạo.

Này các Tỳ-kheo, mỗi hành giả cần phải thấu hiểu về thực tại khổ đau, do ham thích luyến ái dục vọng mà dẫn đến luân hồi sống chết. Đó là điều trước đây ta chưa từng được nghe biết, nay ta đã khám phá, có khả năng đem lại pháp nhãn và trí tuệ thấy biết đúng như thật, nên thấu rõ bản chất mọi sự vật.

Này các Tỳ-kheo, mỗi hành giả cần phải trừ diệt hoàn toàn gốc rễ dẫn đến khổ đau. Đó là điều trước đây ta chưa từng được nghe biết, nay ta đã khám phá, có khả năng đem lại pháp nhãn và trí tuệ thấy biết đúng như thật, nên thấu rõ bản chất mọi sự vật. 

Này các Tỳ-kheo, mỗi hành giả cần phải tu tập trọn vẹn con đường dẫn đến Niết-bàn. Đó là điều trước đây ta chưa từng được nghe biết, nay ta đã khám phá, có khả năng đem lại pháp nhãn và trí tuệ thấy biết đúng như thật, nên thấu rõ bản chất mọi sự vật.

Như vậy, này các Tỳ-kheo chỉ khi nào thấy biết đúng như thật về bốn chân lý cao quý vi diệu của cuộc đời dưới ba sắc thái, gồm mười hai khía cạnh đã trở nên hoàn toàn sáng tỏ, thì khi ấy Như Lai mới xác nhận với thế gian, gồm chư thiên, ma vương, Phạm Thiên, giữa các đoàn thể Sa-môn, Bà-la-môn, giữa loài trời và loài người rằng Như Lai đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tâm Như Lai đã giải thoát và an tịnh tuyệt đối, đời sống này là cuối cùng, Như Lai không còn bị tái sinh luân hồi sinh tử nữa.”

Khi bánh xe chánh pháp đầu tiên này được Như Lai triển khai vận chuyển, tuyên bố, các hàng chư thiên trên địa cầu đều cung kính khen ngợi: Pháp môn này thật là vi diệu ! Không có Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên, ma vương hay Phạm thiên nào có thể thuyết giảng được. Đây là chân lý cao quý vi diệu vừa được Đấng Giác Ngộ khám phá và truyền bá, đem lại an lạc, hạnh phúc cho chư thiên và con người.”

Lúc ấy các chư thiên ở các cõi trời Tứ Đại Thiên vương, trời Đao-lợi, trời Dạ-ma, trời Đâu-suất, trời Hóa-Lạc, trời Tha-Hóa Tự-Tại, trời Phạm Chúng, trời Đại Phạm, trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang, trời Biến Tịnh, trời Quảng Quả, trời Vô Tưởng, trời Vô Phiền và các chư thiên Phạm thiên cũng đều đồng thanh khen ngợi nhiều lần như vậy. Trong khoảng thời gian ấy, mười ngàn thế giới đều chấn động và vang rền tiếng pháp. Rồi một luồng hào quang rộng lớn, rực rỡ phát chiếu, làm sáng cả vũ trụ. Ngay thời pháp thoại này, tôn giả Kiều-Trần-Như đã chứng ngộ và được Đức Phật xác chứng là A-nhã Kiều-Trần-Như.

Giải thích: Kinh Chuyển Pháp Luân là bài kinh đầu tiên sau khi đức Phật ngộ đạo dưới cội Bồ-đề, đức Phật nói tại vườn Nai cho anh anh em Kiều Trần Như, người xuất gia hay tại gia đều phải biết bài kinh này để làm hành trang trên bước đường tu tập nhằm thành tựu đạo giác ngộ, giải thoát ngay trong cuộc sống của mình.

Từ xa, năm người này thấy Phật đang đi đến, họ nói với nhau rằng, “Sa môn Cồ Đàm đã tu theo lối hưởng thụ, chúng ta không nên tiếp”. Tuy đã cùng nhau thỏa thuận như thế, nhưng khi Phật đến, người thì lấy nước rửa chân, người thì mời ngồi và tất cả đều cung kính chào hỏi. Sau lời thăm hỏi sức khỏe và kết quả tu tập, Phật dạy:

Này các Tỳ-kheo “con đường trung đạo do Như Lai thấy biết và chứng ngộ, là phải xa lìa hai cực đoan, tham đắm hưởng thụ và khổ hạnh ép xác”.

Này các Tỳ kheo, ai tu theo đạo giác ngộ, giải thoát, cần phải có chánh trí, tránh xa hai cực đoan này, biết quay trở lại pháp tu trung đạo, làm cho thân tâm hài hòa để thành tựu đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.

Này các Tỳ-kheo, chúng ta hãy theo con đường Trung đạo do Như Lai tu tập, chứng ngộ, có khả năng chịu đựng sự khắc nghiệt trong mọi hoàn cảnh, có được tuệ giác thấu rõ mọi sự vật dẫn đến bình an, hạnh phúc, Niết Bàn và giải thoát.

Này các Tỳ-kheo, một là đắm say các dục vọng, tham muốn thấp hèn, thô bỉ, có tính cách phàm phu tục tử, không dẫn đến đức hạnh Thánh nhân, không liên hệ đến mục đích tu tập, giác ngộ, giải thoát.

Hai là tự mình ép xác, khổ hạnh quá mức, làm thân đau đớn, mệt mỏi, tâm không được thanh tịnh, sáng suốt, không xứng đáng là bậc hiền Thánh, không liên hệ đến mục đích tu tập, giác ngộ, giải thoát.

Này các Tỳ kheo, con đường trung đạo, chính là tám phương pháp tâm linh mầu nhiệm, chánh đáng: Thấy biết chân chính, tư duy chân chính, lời nói chân chính, hành vi chân chính, nghề nghiệp chân chính, nỗ lực chân chính, ý niệm chân chính và thiền định chân chính. Đây là con đường trung đạo, do Như Lai chứng ngộ thấy biết đúng như thật nhờ biết buông xả vọng niệm, nên phát sinh trí tuệ, đưa đến an lạc, hạnh phúc, thể nhập Niết-bàn, giải thoát.

Chính vì vậy sự hưởng thụ, đắm say theo các cảm xúc khoái lạc giác quan mà đa số nhiều người cho đó là hạnh phúc cao nhất trần đời, những tham vọng trần tục, hay lối tu chịu cực khổ quá mức, đều không phải là chánh đạo, không liên hệ đến mục đích tu tập, giải thoát.

Như vậy, trong chừng mực nào đó, con đường trung đạo chính là con đường thiết lập lại quân bình, làm cho thân tâm được an ổn, hài hòa, và biết cách hướng tâm về mục đích nên dễ dàng thoát ra mọi sự ràng buộc khổ đau, do chấp trước vào ta, cái của ta mà sinh ra đam mê say đắm và bị trói buộc vào đó, không có ngày thôi dứt.

Chúng ta muốn đi theo con đường trung đạo, trước tiên phải xa lìa hai cực đoan hưởng thụ và khổ hạnh. Muốn ít, biết đủ hay ba việc thường chớ đủ ăn, mặc và ngủ nghỉ, nhờ vậy thân mạnh khỏe, tâm sáng suốt, nên ta dễ dàng điều phục các tâm niệm xấu ác mà thành tựu giác ngộ, giải thoát.

Trong bối cảnh ngày nay, con người văn minh, tiến bộ vượt bực, nền kinh tế xã hội phát triển vật chất dồi dào, nhờ đó mà chùa to Phật lớn được xây dựng và hình thành theo kiến trúc hiện đại, nhờ vậy giúp cho nhiều người có điều kiện tham quan du lịch tâm linh. Đời sống của người xuất gia được nâng cao với nhiều tiện nghi vật chất, phòng cao cửa kính, sang trọng, bề thế và nhiều nhu cầu xa hoa khác. Người tu hành chân chính, cần phải biết quân bình thân tâm, để không rơi vào hai trạng thái cực đoan trên.

Quan trọng hơn hết, đức Phật đã dạy, tinh thần trung đạo của Ngài là thấy biết chân chính, tư duy chân chính, lời nói chân chính, hành vi chân chính, nghề nghiệp chân chính, nỗ lực chân chính, ý niệm chân chính và thiền định chân chính. Như vậy, người tu hành chân chính là biết tránh xa hai cực đoan để dẹp bớt những trở ngại có tính cách thái quá, sang trọng, vì nhiều tiện nghi vật chất quá thì khó tu. Nói chung, ta phải biết tùy thời, tuỳ duyên không nên quá cố chấp, để rơi vào trạng thái tham đắm, dính mắc quá đáng, và biết tiết chế trong điều kiện muốn ít, biết đủ.

Cốt tủy và cội nguồn Phật pháp là thành tựu chánh kiến, thấu triệt được nguyên lý duyên khởi, vô thường, vô ngã, tất cả thân, tâm và cảnh đều do duyên hợp không thật có. Do đó, ta không si mê chấp ngã, nên vượt thoát mọi sự ràng buộc của tham-sân-si, nhờ vậy không bị dính mắc vào cái ta và của ta, do đó dễ dàng vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà chứng ngộ Niết-bàn, giải thoát.

Ở cực đoan thứ nhất, lúc còn ở trong cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, Thái tử Sĩ Đạt Ta đã hưởng thụ đầy đủ mọi lạc thú trên trần đời này, với danh vọng, quyền uy tột đỉnh nhất trong thiên hạ. Với con mắt bình thường của chúng ta, ai cũng ước mơ và khao khát mong muốn để có được đầy đủ tiện nghi vật chất như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ ấm, mặc sang và hưởng thụ các cảm giác khoái lạc giác quan từ mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý.

Nhưng đối với Phật, Ngài thấy những thứ đó chỉ là hạnh phúc tạm bợ khổ nhiều hơn vui, là cạm bẫy cuộc đời để chôn vùi con người bởi tham đắm, luyến ái vợ con không có ngày thôi dứt. Đời sống lợi dưỡng và sự cám dỗ của ngũ dục như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, mặc ấm ngủ nhiều, khiến chúng ta dính mắc bám víu mà sinh ra chấp ngã, thấy mình là ta và của ta, nên khởi lên tham muốn chiếm hữu về cho riêng mình mà làm tổn hại người khác.

Ở cực đoan thứ hai, Ngài cùng tu khổ hạnh ép xác với năm anh em Kiều Trần Như ròng rã suốt sáu năm trường, đến độ thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, tinh thần u ám, tâm tư không được minh mẫn, sáng suốt, nên không tìm ra lối thoát.

Thân và tâm là hai yếu tố quan trọng luôn liên hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau trong một cơ thể con người. Thế nên, người tu hành chân chính phải luôn tỉnh giác trong từng phút giây, ý thức mạng người sống trong hơi thở mà biết cách điều phục thân tâm. Muốn ít, biết đủ, chỉ ăn uống điều độ vừa đủ để nuôi thân, làm việc, vận động hợp lý, ngủ nghỉ cho có chừng mực, nên thân khỏe mạnh, tinh thần sáng suốt, nhờ vậy mình dễ dàng buông xả tâm niệm xấu ác, có tính cách làm tổn hại người và vật.

Tóm lại, đức Phật khi xưa đã trải qua hai cực đoan, hưởng thụ và hành xác, để rồi cuối cùng, dưới sự quyết tâm dũng mãnh của bản thân, Ngài đã vượt khỏi hai lối sống cực đoan mà thành tựu con đường trung đạo và hoàn toàn giác ngộ, giải thoát.

Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu mục đích và trọng tâm của bài Kinh Chuyển Pháp Luân. Này các Tỳ-kheo, bốn chân lý cao quý vi diệu của cuộc đời:

Chân lý thứ nhất là thực tại đau khổ. Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thương yêu mà phải xa nhau là khổ, thù ghét mà phải gặp nhau là khổ, mong cầu mà không toại nguyện là khổ, chấp vào thân năm uẫn là khổ và cuối cùng là sầu bi, ưu phiền, khổ não.

Chân lý thứ hai là nguyên nhân dẫn đến đau khổ. Đó là phiền não nhiễm ô, là tâm dính mắc vào ái dục, là sự tham đắm và chấp thủ về cái ta, cái của ta, bởi luyến ái và chấp trước trong sự ràng buộc.

Chân lý thứ ba là Niết-bàn, tức là sự trừ diệt hoàn toàn gốc rễ của khổ đau và những nguyên nhân dẫn đến đau khổ. Đó là sự không còn chấp trước bởi đam mê say đắm ham muốn, biết buông xả và dẫn đến giác ngộ, giải thoát.

Chân lý thứ tư là con đường dẫn đến Niết-bàn, đó là tám phương pháp tâm linh mầu nhiệm là hiểu biết chân chính, tư duy chân chính, lời nói chân chính, hành vi chân chính, nghề nghiệp chân chính, nỗ lực chân chính, ý niệm chân chính và thiền định chân chính, là con đường Trung đạo.

Này các Tỳ-kheo, mỗi hành giả cần phải thấu hiểu về thực tại khổ đau, do ham thích luyến ái dục vọng mà dẫn đến luân hồi sống chết. Đó là điều trước đây ta chưa từng được nghe biết, nay ta đã khám phá, có khả năng đem lại pháp nhãn và trí tuệ thấy biết đúng như thật, nên thấu rõ bản chất mọi sự vật.

Này các Tỳ-kheo, mỗi hành giả cần phải trừ diệt hoàn toàn gốc rễ dẫn đến khổ đau. Đó là điều trước đây ta chưa từng được nghe biết, nay ta đã khám phá, có khả năng đem lại pháp nhãn và trí tuệ thấy biết đúng như thật, nên thấu rõ bản chất mọi sự vật. 

Này các Tỳ-kheo, mỗi hành giả cần phải tu tập trọn vẹn con đường dẫn đến Niết-bàn. Đó là điều trước đây ta chưa từng được nghe biết, nay ta đã khám phá, có khả năng đem lại pháp nhãn và trí tuệ thấy biết đúng như thật, nên thấu rõ bản chất mọi sự vật.

Vậy như thế nào mới gọi là khổ?

Khổ là sự khó chịu, bất như ý, không toại nguyện, là trạng thái tâm lý trái ngược lại với vui vẻ, sung sướng, hạnh phúc, thoải mái, dễ chịu, hài lòng, lạc quan và thỏa mãn... Nỗi đau đớn, buồn phiền, lo lắng, sợ hãi, bất mãn, thất vọng, tuyệt vọng, đau nhức... đều được xem là khổ.

Thân khổ có hai loại: bệnh khổ và tai nạn khổ. Như vậy, ai làm người cũng khổ vì thân bệnh là lẽ đương nhiên. Nhưng, khổ về thân bệnh đó chưa quan trọng bằng cái khổ bởi vô minh trong nhiều đời gây ra, có nghĩa là không phân biệt được đúng sai, chánh tà, phải quấy, tốt xấu.

Cuộc sống của chúng ta có quá nhiều nỗi khổ niềm đau, luôn luôn bám víu vào thân phận con người. Khổ về bản thân như đau ốm bệnh tật, già nua. Khổ vì người thân trong gia đình bị mất mát chia lìa. Khổ vì vợ chồng không cảm thông và tha thứ cho nhau nên dẫn đến ly dị. Khổ vì con cái bụi đời nghiện ngập hút sách bê tha hư hỏng. Khổ vì phải làm việc nhọc nhằn, vất vả để lo cho gia đình người thân: Như lo ăn, lo uống, lo mặc, lo chỗ ăn ở, lo nghèo giàu đủ thứ…

Khổ vì hoàn cảnh như chiến tranh, thiên tai lũ lụt, hạn hán, mất mùa, dịch bệnh. Khổ vì thi rớt, vì thất tình, vì của cải bị phá sản, vì thua bài bạc bán hết gia tài, vì bị giựt hụi mất hết một số tiền lớn .v..v. Luận về những nỗi khổ ở đời, thì ai cũng có những nỗi khổ niềm đau của riêng mình. Thực khó mà kể ra cho hết được.

Khổ được biểu hiện qua phần thân và tâm. Cơ thể đau nhức là nỗi khổ ở thân này, chẳng hạn như cảm giác đau đớn do bệnh tật hay tai nạn, và cảm thấy khó chịu do nóng lạnh, đói khát. Tâm đau khổ như bất mãn, phiền muộn, buồn rầu, lo lắng, sợ hãi, bất an bởi những thứ không được hài lòng vừa ý.

SINH KHỔ

Chân lý thứ nhất là thực tại đau khổ. Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thương yêu mà phải xa nhau là khổ, thù ghét mà phải gặp nhau là khổ, mong cầu mà không toại nguyện là khổ, chấp vào thân năm uẫn là khổ và cuối cùng là sầu bi, ưu phiền, khổ não.

Khổ đế, chữ “đế” nghĩa là chắc thật, không sai chạy. Như vậy cái khổ Phật đưa ra là một lẽ thật, không ai chối cãi được. Khổ có mấy thứ? Đầu tiên là khổ về thân. Thân này có sinh, già, bệnh, chết, bốn thứ đó Phật nói là khổ. Có người chưa chịu sinh là khổ, vì lúc mới lọt lòng mẹ có biết gì đâu mà khổ. Nói không biết gì hơi quá đáng, không biết, vậy chớ ai khóc? Biết khóc tức là có cảm giác khổ. Trăm đứa bé lọt lòng mẹ đều khóc, chứng tỏ chúng có cảm thọ khổ. Đó là khổ khi sinh. 

Như vậy đời sống của chúng ta thường gặp khổ nhiều hơn vui. Khi lọt lòng mẹ đã có cảm giác khổ, rồi trong cuộc sống kéo dài mấy mươi năm cũng khổ. Vì vậy Phật nói sinh khổ, chúng ta chối cãi được không? Thế nhưng nhiều người lại cứ tưởng như vui, đó là vui trong tưởng tượng thôi chớ không thật có. Vậy mà thiên hạ cứ bảo cuộc đời là hạnh phúc bởi vì nó có nhiều thú vui làm cho con người ta đam mê say đắm dính mắc vào đấy mà chịu muôn vàn sự khổ đau. Thực tế hạnh phúc thì quá ít, còn đau khổ thì quá nhiều. Đó là khổ thứ nhất, sinh khổ. 

Sự sinh sống của con người có hai phần khổ: Khổ trong lúc mới sinh ra và kế tiếp là khổ trong đời sống. Khổ trong lúc sinh. Người sinh và kẻ bị sinh đều khổ cả. Khi người mẹ mới có thai là đã bắt đầu biếng ăn, mất ngủ, nôn ọe, dã dượi, tinh thần mệt mỏi... Thai mỗi ngày mỗi lớn, thì người mẹ mỗi ngày mỗi thêm mệt mỏi, nặng nề, đi đứng khó khăn, làm lụng chậm chạp.

Đến khi gần sinh, sự đau đớn hành hạ xác thân người mẹ không sao kể xiết, chỉ có những người từng làm mẹ mới cảm thông cho nỗi đau khổ này. Dầu được thuận thai đi nữa, mẹ cũng phải chịu sự dơ uế cả tháng trời, yếu đuối nhiều tháng, vì tinh huyết hao mòn, ngũ tạng suy kém, nếu không có cha mẹ hai bên chắm sóc thì lại càng khỗ não hơn. Còn rủi bị nghịch thai, thì mẹ phải bị mổ xẻ, đau đớn trăm bề. Có khi sau một lần sinh bị giải phẩu, mẹ phải chịu tật nguyền suốt cả cuộc đời.  

Còn con, từ khi mới đầu thai cho đến lúc chào đời, cũng phải chịu nhiều điều khổ sở. Trải qua chín tháng mười ngày, con bị giam hãm trong khoảng tối tăm, chật hẹp, còn hơn cả lao tù ngục tối! Mẹ đói cơm, khát nước, thì con ở trong thai bào lỏng bỏng như bong bóng phập phều. Mẹ ăn no thì con bị ép như bồng bột bị đè dưới thớt cối, khó bề cựa quậy. Ðến kỳ sinh sản, thân con phải chen qua chỗ chật hẹp như bị đá ép, nên khi vừa thoát ra ngoài, liền cất tiếng khóc vang: "khổ a! Khổ a!".

Khổ trong đời sống. Về phương diện vật chất hay tinh thần, đời sống đều có nhiều khổ sở.  Về vật chất, con người đòi hỏi những nhu cầu thiết yếu như món ăn, thức uống, đồ mặc, nhà ở, thuốc men.

Để có được những nhu cầu cần thiết ấy, con người phải siêng năng làm việc vất vả nhọc nhằn, đổ mồi hôi, sôi nước mắt, mới mua được chén gạo, bát cơm, manh quần, tấm áo và các phương tiện sống khác. Về phương diện nhà ở, thì có những gia đình phải thuê phòng trọ ở tạm qua ngày, vì không có khả năng tạo dựng được một ngôi nhà nho nhỏ.  

Cuộc sống của con người chẳng phải đợi đến cảnh đói khát mới gọi khổ, ăn uống thất thường, thiếu thốn đủ mọi thứ cũng đã là khổ rồi. Đâu phải chỉ có những người nghèo hèn thiếu thốn khó khăn mới khổ đâu? Người giàu có sang trọng cũng vẫn khổ như thường. Muốn có tiền bạc vật chất dồi dào, tất nhiên họ phải thức khuya dậy sớm, buôn tảo bán tần, đầu tắt mặt tối trong công việc, đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có được.

Về phương diện tinh thần, đời người cũng có nhiều điều khổ tâm, có nhiều khi còn đau khổ hơn cả những thiếu thốn vật chất. Tóm lại, về vật chất hay tinh thần, sự sống mang theo nhiều cái khổ. Sinh khổ là như thế, bởi vì có sự tiếp nối theo quy luật nhân quả, nên đời người khổ là lẽ đương nhiên.

GIÀ KHỔ

Sự khổ trong lúc tuổi già. Con người khi già yếu, mắt mờ, tai điếc, gối mỏi lưng còng, chân tay run rẫy, ăn không có cảm giác ngon miệng, ngủ không ngon giấc, trí nhớ giảm sút đáng kể, làn da khô nhăn, răng thường đau nhức, rụng bớt. Dù cho thanh niên cường tráng, hay thiếu nữ khỏe mạnh, theo thời gian rồi cũng phải đối đầu với cái tuổi già yếu này. Người tuổi già thường hay lú lẫn, đây là nỗi khổ niềm đau của người già.

Chúng ta hồi tưởng lại cuộc đời của đức Phật, có một lần đi ra khỏi cổng thành, thái tử thấy một người già ốm o gầy mòn, dung nhan tiều tụy, đi phải dùng gậy chống đỡ, vừa đi vừa thở hỗn hễn rất là đau khổ. Thái tử thấy cảnh người già như thế mới quán xét và chiêm nghiệm, rồi đây mình sẽ già nua, yếu ớt và cũng tàn tạ như vậy. Càng chiêm nghiệm, càng thấm thía sâu sắc, cảnh người già khốn khổ thái tử nghĩ ngay rồi mình cũng sẽ già khổ, nên cảm thương họ nhiều hơn.

Chúng ta bây giờ thấy người già mà không biết soi xét lại chính mình để có sự cảm thông và thương tâm những người già nhiều hơn. Thấy người khác già thì biết chúng ta cũng sẽ già, từ đó ta có sự tôn trọng, kính mến, quan tâm giúp đỡ những người già nhiều hơn nữa. Đồng thời chúng ta quyết tâm sống và tu tập, biết cách làm chủ bản thân để thoát khỏi sự chi phối khổ sở của tuổi già.

Vì sao già lại khổ? Hiểu biết nhận thức giảm sút, mắt mờ tai điếc, đi đứng lọng cọng, gối mõi lưng còng, ăn uống khó khăn…. già như vậy quả thật là khổ. Người già lại thường chậm chạp, luống cuống trong mọi sinh hoạt hằng ngày khi ăn uống, lúc đi đại tiểu tiện… và thường làm nhơ nhớp nên con cháu dễ sinh tâm chán nản mà lơ là chăm sóc. Chính những hành động, thái độ thiếu hiểu biết, vô trách nhiệm của con cháu đã khiến người già chịu nhiều đau khổ hơn.

Chỉ có những người con chí hiếu, thì dù ở vào hoàn cảnh nào cũng thương yêu, quý kính, chăm sóc chu toàn cho ông bà, cha mẹ. Quả thật tuổi già thật đáng buồn tủi, khổ sầu nếu không biết tu sửa theo lời Phật dạy. Thời thanh niên cường tráng đã qua, thời già nua suy yếu đến, mạng sống con người cứ rút ngắn theo thời gian và cuối cùng thể xác đi dần đến hư hoại. 

Tuy nhiên có những người lớn tuổi già yếu rồi, nhưng khi ngồi với nhau nói toàn những chuyện quá khứ hào hùng của mình thuở trước như để khoe hay, khoe giỏi cho nên khi con cháu không đáp ứng nhu cầu cần thiết thì cau có, giận dỗi buồn phiền. Nhiều người bây giờ đã già mà vẫn không chịu biết mình đang già, nếu khéo nhìn lại, thấy mình đã già yếu mới cố gắng tu nhiều hơn.

Bây giờ chỉ dốc tâm tu tập, kiếm chút ít tư lương, tích tạo phước đức để ngày ra đi được an ổn, nhẹ nhàng. Chúng ta dám nhìn thẳng vào sự thật là đã biết cách học theo hạnh giác ngộ của đức Phật. Lúc còn trai tráng, thái tử đang là một người có đầy đủ tất cả quyền uy, thế lực, văn võ song toàn. Vậy mà khi thấy người già thì liền biết mình rồi cũng sẽ già nua và yếu ốm như người kia. Thấy rõ cuộc đời không có gì đáng để gọi là vui cho nên Ngài quyết chí xuất trần. Nhìn nhận, chiêm nghiệm và thấu tột được như vậy là chúng ta đã biết học theo cái nhìn của bậc giác ngộ. Xét ra cái già thật không có gì là vui thú nếu chúng ta không biết tu tập chuyển hóa thì càng già, càng khổ não nhiều hơn.

BỆNH KHỔ

Là sự khổ đau trong cơn đau bệnh. Có thân là có bịnh, từ những loại bệnh nhẹ thuộc ngoại cảm, đến các chứng bịnh nặng thuộc nội thương. Trong cuộc thế, có rất nhiều người vướng phải những bệnh nan y như: ung thư, lao, cùi, tiểu đường, tai biến... Vướng vào những bệnh nan y, tự thân cảm thấy đau đớn, lại tốn kém, hoặc không có tiền chạy chữa lại càng khổ hơn. Sự khổ lụy không chỉ riêng mình, mà còn khiến cho gia đình người thân bị ảnh hưởng theo. Bệnh khổ có 2 loại: 

Thân bệnh: Thân bệnh là tất cả những chứng bệnh con người mắc phải, gánh chịu. Những chứng bệnh này đều do tứ đại không điều hòa mà phát sanh, như địa đại không điều hòa, thì thân thể nặng nề; phong đại không điều hòa, thì thân thể bị tê cứng; thủy đại không điều hòa, thì thân thể bị phù thũng; hỏa đại không điều hòa, thì thân thể bị nóng bức.. 

Tâm bệnh: Trong lòng luôn ôm ấp những tâm lý khổ não, buồn thảm, bi ai, ganh ghét tật đố, lo lắng bất an, sợ hãi, cô đơn trong tuyệt vọng...Rồi một lần khác thấy một người bệnh đang rên đau, thái tử nghĩ, hóa ra con người ta cũng có khi phải bệnh đau như vậy! Cùng là thân người như nhau, nhưng người kia đang bị bệnh thì có lúc mình cũng phải bị bệnh như mọi người. Đã bệnh thì phải đớn đau, khổ sở trăm bề không có gì là vui hết. Từ đó thái tử thấy được sự tạm bợ của thân người và sự sống này không có gì bền chắc, ý chí xuất trần trong thái tử được nung nấu mạnh mẽ hơn.

Chúng ta thấy được như vậy thì không còn nhầm tưởng thấy mình khỏe mạnh mãi để sanh tâm cống cao ngã mạn, mà xem thường người khác. Đồng thời chúng ta sẽ cảm thông, thương yêu người bệnh và tìm cách để vượt lên, không bị bệnh hoạn khổ đau chi phối.

Từ đó chúng ta sẽ có tâm cảm thông, thương yêu người bệnh, tôn trọng mọi người, không thờ ơ hay xem thường một ai. Chúng ta thấy người khác bệnh thì liền biết rồi mình cũng sẽ bệnh trong một ngày nào đó thôi. Thấy người khác bệnh, biết mình rồi cũng sẽ bệnh. Từ đó thấy rõ thân này mong manh, giả tạm, không bền chắc, nên ta không tham đắm. Đồng thời, chúng ta sẽ cảm thông, thương yêu, tôn trọng người bệnh, từ đó thiện căn được tăng trưởng và giảm bớt sự chấp ngã về thân này.

CHẾT KHỔ

Thứ tư là chết khổ. Như chúng ta thấy người thân khi sắp lâm chung đau đớn quằn quại rất thống khổ. Đó là chưa kể thần thức hôn mê, người sắp chết thấy những cảnh giới gì đó hiện ra, lòng họ hoảng sợ, hoang mang kêu gào than khóc, thật là thảm thương.

Ai cũng tham sống sợ chết muốn sống dai, sống già, sống thọ cho nên nhiều người tìm cách để luyện trường sanh bất tử nhưng cuối cùng rồi ai cũng phải chết. Và chết là một sự thật không chừa bất cứ một ai, dù là đức Phật cũng phải xả thọ mạng này khi hết duyên đời. Mình muốn sống hoài mà không được, cho nên nếu ai không biết tu thì gần chết rất khổ sở vì không biết mình sẽ đi về đâu.

Mọi người đều muốn sống an vui, chết nhẹ nhàng, nhưng việc ấy rất khó toại nguyện, mà phần nhiều thân thể con người luôn bị bịnh khổ hành hạ đau đớn cho đến khi chết. Thân đã bị bệnh khổ như thế, tâm lại càng hãi hùng, lo sợ, tham tiếc tài sản của cải mình tạo ra, luyến tiếc vợ con trước khi nhắm mắt lìa đời nên lại càng khốn khổ hơn. Chết, quả thật là rất khổ nên ai cũng sợ. Chết khổ có 2 loại: 

Cơn bệnh kéo lâu dài, mạng sống hết phải chết. Chết do duyên bên ngoài đưa đến bất đắc kỳ tử: Gặp chuyện không may bị người giết hại hoặc bị tai nạn mà chết, bị chết nước, lửa thiêu... vì chiến tranh loạn lạc mà chết. 

Khi đi ra bốn cửa thành, thái tử thấy một người chết. Thấy vậy, thái tử liền nhìn lại và nhận ra rằng, người ấy chết rồi đến lúc mình cũng sẽ chết. Càng thấy rõ sự tạm bợ của kiếp người, chí xuất trần của thái tử càng nung nấu mãnh liệt hơn.

Mới ngày nào đây còn liệt liệt, oanh oanh, sao bây giờ chỉ còn lại một tấm thân tàn ma dại, nằm bất động, ai làm gì cũng không biết. Chúng ta bây giờ tận mắt chứng kiến cảnh người chết, chúng ta mới thấy tấm thân này quá mỏng manh, kiếp người quá ngắn ngủi, cõi đời thật phù du, giả tạm.

Nếu chúng ta thấy rõ được sự mong manh của kiếp sống con người, thấy được khoảng thời gian sống và chết kề cận một bên thì chúng ta sẽ tỉnh giác mạnh hơn, không bao giờ có sự tranh cãi nhau nữa. Tranh cãi, giận dữ là do người kia không tự làm chủ được chính họ. Chính khi đang giận dữ họ cũng rất khổ sở chứ không sung sướng gì. Mình là người tỉnh táo làm chủ được mới thấy rõ nên thông cảm và thương họ, tội nghiệp cho người ta.

Phật nói thân hiện tại của chúng ta đây, mang tính chất đau khổ từ lúc mới sinh, cho đến khi trưởng thành rồi già, bệnh, chết đều phải trải qua nhiều thống khổ. Đó là một lẽ thật. Mới nghe người ta thấy đạo Phật như bi quan, nhưng thực tế đạo Phật rất lạc quan và yêu đời. Tại vì đạo Phật nói rõ lẽ thật của cuộc đời, để cho mọi người không lầm lẫn, biết cách làm chủ bản thân trên những khổ vui đó.

Như một ai đó, đang gánh một gánh nặng suốt một chặng đường dài lâu quá cảm thấy mỏi mệt, đuối sức nếu lúc đó để gánh nặng xuống vui hay khổ? Chắc chắn là vui. Còn gánh nặng trên vai thì khổ, để xuống hết nặng là vui. Sau khi biết khổ rồi mới thấy vui, chớ cái vui ấy không ngoài sự khổ. Cũng chính vì thế, đạo Phật nói rõ nguyên nhân của sự khổ đau để chúng ta biết cách chuyển hóa tiêu trừ, khi đó khổ hết thì vui đến.

YÊU THƯƠNG XA LÌA KHỔ

Kế đến còn bốn thứ khổ về tâm nữa, tổng cộng vừa thân tâm là tám thứ. Nếu kể tiếp theo thì thứ năm là “yêu thương xa lìa khổ”: khổ do thương mến nhau mà phải bị mất mát, bị xa lìa. Trong cái tình yêu thương giữa cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em đang mặn nồng, thắm thiết mà bị chia ly, thì thật không có gì đau đớn hơn. Sự chia ly có hai loại: sanh ly và tử biệt.  

Sinh ly khổ: Một gia đình đang sống trong cảnh đàm ấm vui vầy, bỗng bị hoàn cảnh bắt buộc, hay vì một tai họa bất thình lình xảy đến, như giặc giã, bão lụt, hỏa hoạn... làm cho kẻ ở đầu này trông đợi, người ở góc kia nhớ thương mong chờ. Thật đau lòng xót dạ!

Điều này trong hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc, ta càng thấy rõ. Biết bao thanh niên xa gia đình người thân dấn thân nơi chiến trận chết chóc đau thương không ngày gặp mặt. Kẻ ở người đi nhớ thương trong đau khổ não nề ... Ai luyến ái nhiều thì khổ nhiều. Bởi vì, đâu phải ai đi xa mình cũng khổ, chỉ người mình thương yêu trìu mến nếu đi xa ta mới cảm thấy khổ đau trong nhung nhớ. Khổ này gốc từ tham ái mà ra. Do khao khát, mong muốn được sống gần người mình thương yêu mà phải xa lìa cho nên khổ. Ðó là cái khổ của "Sinh ly".  

Chết vĩnh biệt khổ: Nhưng mặc dù xa cách nhau người sống còn có ngày gặp gỡ, chứ chết rồi bao thuở được vum vầy! Chính vì vậy, đứng trước cảnh chết chóc đau thương, kẻ ở người đi thương tiếc ngậm ngùi. Do đó, lâm phải cảnh tử biệt này, có người đã xót thương rầu rĩ đến quên ăn, bỏ ngủ, có người đau đớn, khổ sở cho đến tuyệt vọng muốn chết theo người quá cố.  

Trong bốn hiện tượng của vô thường; sinh, già, bệnh, chết thì "chết" là cái làm cho mọi người lo lắng sợ hãi nhất. Những người không được may mắn nên bị bịnh nan y như ung thư, bịnh hủi, sida sống thêm một ngày là khổ thêm một ngày, thế mà những người bạc phước ấy cũng vẫn muốn sống đời mà thôi.  

Chúng ta thấy một người bệnh khi hấp hối bị hành hạ xác thân đau đớn trong khổ sở rồi mới biết cái chết là đáng sợ. Người sắp chết, mệt mỏi thở không ra hơi, méo miệng, uốn mình, co tay, bẻ chân... Chúng ta thử rờ vào người chết, thì thấy lạnh ngắt như đồng, thân thể cứng đơ như khúc gỗ.

Con người đang trong cảnh thương yêu mặn nồng, chẳng ai muốn xa lìa nhưng hoàn cảnh trớ trêu kẻ ở người đi trong nỗi nhớ niềm thương! Cái khổ phải biệt ly đối với hai người thương yêu nhau như thế nào, thì cái khổ phải hội ngộ đối với hai người ghét nhau cũng lại như thế.  

OÁN GHÉT MÀ GẶP NHAU KHỔ

Thứ sáu là “oán ghét mà gặp nhau khổ”. Ngược lại với mến thương là oán ghét. Người mình ghét mà cứ hiện diện trước mặt hoài, ta rất bực bội khó chịu, muốn họ đi đâu cho khuất mắt. Nhưng ngặt nỗi, trên đời này người mình thương thì cứ phải chịu xa lìa, còn kẻ mình ghét thường hay gặp gỡ. Cái khổ oán ghét này gốc từ sân hận mà ra. Do sân hận nên chúng ta rất khổ sở khi làm việc chung với người mà mình oán ghét.

Chưa nói đến trường hợp những người xa lạ, ngay trong gia đình bà con quyến thuộc, giữa vợ chồng, anh em, khi vì một lý do gì đó, sanh ra bất hòa với nhau, cũng đủ khó chịu rồi. Muốn lánh mặt nhau, mà mỗi khi đi ra đi vào lại phải gặp nhau mãi! Quyết không nói chuyện với nhau, mà nhiều khi bắt buộc nín không được, phải nói ra với sự ngượng ngùng khó chịu.

Ngược lại với thương yêu là sự thù hằn, ghét bỏ. Không có gì đau khổ bằng thù ghét mà gặp nhau hoài. Thương và ghét là hai vế đối nghịch nhau, đã thương thì không ghét, đã ghét thì không thương; nhưng vì ta hay ích kỷ, hẹp hòi, nên khi thương không được thì sinh ra thù hằn, ghét bỏ, và từ sự ganh ghét đó mà mình có thể hãm hại người kia bằng mọi cách.  

Thù ghét sẽ làm cho ta xấu xí, khổ đau hơn, vì tâm niệm ích kỷ, oán giận, hờn mát trong lòng, nên lúc nào cũng mong muốn người ấy bị hại, bị khổ, bị mất mát, bị đau thương, thậm chí còn muốn người đó mau chết đi càng sớm càng tốt.

Khi ta thù ghét ai, trước tiên ta khổ trước, vì thái độ bực tức không bằng lòng với hiện tại. Người kia chưa khổ, nhưng ta đã tự tàn phá sắc đẹp của mình, thậm chí có khi ta không giằng được cơn nóng giận, nên đánh đập, hành hạ người thân, vì không biết cảm thông và tha thứ. Ta cứ muốn người kia như bản sao của mình, khác đi một chút thì mình không chịu, mình bám víu, chấp trước, thậm chí nhiều khi mình còn ngoan cố, ép buộc người kia phải làm theo.

Thế giới con người do không có tình thương chân thật, nên lúc nào cũng oán giận, thù hằn, ghét bỏ nhau mà sinh ra chiến tranh, binh đao, tàn sát, giết hại lẫn nhau không thương tiếc. Có khi ta nhân danh đấng thần linh thượng đế để trừng phạt thiên hạ, tạo ra biết bao nỗi khổ niềm đau, làm tổn hại cho nhau.

Vì ta thương yêu trong ích kỷ, hẹp hòi do không có hiểu biết, nên mình dễ dàng hành hạ, đánh đập người thân khi không làm chủ được cơn sân hận. Ai có tâm niệm thù ghét như thế sẽ không bao giờ tìm được sự an lạc nội tâm, vì trong lòng lúc nào cũng chất chứa bao phiền muộn, đau khổ.

Khi ta thương yêu, quý trọng lẫn nhau một cách chân tình, tình thương đó có sự bù đắp lâu dài, nên mình tìm cách bảo vệ và gìn giữ chúng, đến khi cảm thấy bị người phụ bạc, ruồng bỏ, tìm đến người bạn khác, mình cảm thấy bơ vơ, lạc lỏng giữa chợ đời yêu thương, nên tiếc nuối, khóc lóc, hờn giận và cuối cùng dẫn đến thù hằn, ghét bỏ.

Một khi ai đã ôm cảm xúc đó vào lòng, thì giống như một lưỡi dao bén đang từ từ cứa vào thân thể, làm ta thất vọng, đau khổ đến tột cùng. Ta không còn sáng suốt nữa mà điên cuồng trong vô vọng. Nếu đã dùng hết cách mà không chuyển hóa được cảm xúc thù ghét, ta phải biết rằng, mình đang rơi vào hố sâu của ngục tù tội lỗi.

Ai dại gì phải chịu như thế trong khi ta có trái tim biết yêu thương, hiểu biết, trái tim tha thứ, biết cảm thông. Ta chỉ nhớ, biết mình như thế thì bao nhiêu cảm xúc oán giận, thù hằn, ghét bỏ không có chỗ ẩn núp. Như ta đã biết, mình là chủ nhân của bao điều họa phúc, mình có trái tim hoàn hảo và đẹp nhất, tại sao phải tự trói buộc lấy nhau vì tâm niệm thù ghét đó, để làm cho gia đình, người thân, bè bạn không có cơ hội gần gũi, sống yêu thương nhau.

Thương và ghét là hai điều kiện có thể làm cho con người khổ đau hay hạnh phúc, thương quá sinh nhớ nhung bi lụy cũng khổ, ghét quá mà ngày nào cũng gặp càng khổ hơn. Đúng ra ta rất khó thương một người chưa từng thương mình, có khi họ thù ghét mình và đã làm cho mình đau khổ. Thương yêu là bản chất của con người, nhưng đa số chỉ thương yêu trong sự ích kỷ, hẹp hòi và có điều kiện, nên không bao giờ có lòng khoan dung, độ lượng, cảm thông và tha thứ. Chính vì sự thương yêu hẹp hòi đó mà dẫn đến ghen tuông, ganh ghét rồi làm khổ cho nhau.

Trong cuộc sống, khi con người không có tình yêu thương chân thật với nhau, mà chỉ sống trong căm ghét, hận thù, thì thế gian này sẽ là bãi chiến trường đẫm máu, vì ai cũng muốn tranh danh, đoạt lợi, mà tìm cách hủy diệt lẫn nhau.

Ai nắm được chiếc chìa khóa của sự yêu thương và ghét bỏ nhờ biết tin sâu nhân quả, tin chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc, sống thành thật, biết sẻ chia và quý kính, tôn trọng lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống, thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc.

MONG CẦU KHÔNG ĐƯỢC NHƯ Ý KHỔ

Thứ bảy là “mong muốn mà không được như ý khổ”. Những gì mình muốn mà không được thì khổ. Ví dụ đi thi mong muốn được đậu, mà lỡ rớt thì sao? - Khổ quá. Ngoài việc thi cử ra, còn bao nhiêu thứ cầu mong khác nữa. Như trong công việc làm ăn, trong tình cảm… nhiều người muốn tự tử vì mong cầu mà không được toại nguyện.

Con người khổ khi không được toại nguyện, như ý do tham muốn, khao khát quá đáng những nhu cầu cần có của bản thân. Chẳng hạn như lúc đói thì muốn có cái ăn cái mặc đầy đủ, lúc no lại muốn giàu sang phú quý có kẻ hầu người hạ.

Ngoài ra còn có những nỗi khổ trong cuộc sống. Ở đời nếu được những việc như ý thì người ta vui, không như ý thì buồn, buồn tức là khổ. Mỗi người chúng ta thử nhìn lại cuộc đời mình xem được nhiều điều như ý hay bất hạnh khổ đau? Người có diễm phúc thì điều bất như ý ít hơn, đã là bất như ý thì khổ hay vui? Đương nhiên là khổ rồi. 

Con người chịu khổ khi phải tiếp xúc với những thứ mà không thích hoặc oán ghét. Người ta ở đời, hễ hy vọng càng nhiều thì thất vọng càng lắm. Bất luận trong một vấn đề gì, số người được toại nguyện thì quá hiếm hoi, mà kẻ bất như ý, thì không sao kể xiết. Muốn được kết quả tốt đẹp, người ta phải vận dụng không biết bao nhiêu năng lực, lao tâm, tổn trí, mất ăn, bỏ ngủ, chỉ mong sao cho chóng đến ngày thành công. Thế rồi, chẳng may những điều mong ước ấy không thành, sự đau khổ không biết đâu là bờ bến. Dưới đây, xin nêu lên vài thí dụ về những thất vọng mà người đời thường gặp nhiều nhất. 

Thất vọng vì công danh: Trong đời, danh vọng thường là một miếng mồi ngon mà phần đông người đời ưa thích. Nhưng miếng mồi ấy, phải đâu dễ giành giật được? Không nói gì đến những kẻ nhảy dù, muốn làm quan tắt, nên phần nhiều hay thất bại, chỉ nói đến trường hợp những kẻ mong cầu danh vọng một cách chánh đáng, bằng năng lực, tài trí, học hỏi của mình. Ðối với những hạng người này, cũng phải nếm bao mùi thất bại, cuối cùng may ra mới được thành công.

Thất vọng vì phú quý: Số người thất vọng vì công danh đã nhiều. Nhưng số người thất vọng vì phú quý cũng không phải ít. Muốn cho mau giàu, nhiều người tìm mưu này chước nọ để lừa phỉnh người ta; nhưng rồi mưu gian chước lận đỗ bể ra, tài sản bị tịch thu, bản thân bị tù tội, gia quyến bị nhục nhã theo, thực là khổ!  

Thất vọng vì tình duyên: Tình duyên cũng là một điều làm cho bao người phải điêu đứng, khổ sở. Trong trường tình ái, thử hỏi đã mấy ai được toại nguyện? Nhan nhãn trên báo chí hằng ngày, những câu chuyện tình duyên trắc trở đưa đến sự quyên sinh, thật không sao kể xiết. Ðấy là "Cầu không được cho nên khổ".

THÂN NĂM ẤM KHÔNG HÒA HỢP KHỔ

Điều thứ tám là ngũ ấm xí thạnh khổ, tức sự khổ về năm ấm hưng thịnh. Năm ấm là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc ấm thuộc về thân, bốn ấm kia thuộc về tâm hay còn gọi là phần tinh thần.

Điều thứ tám này bao quát bảy món khổ trước: thân thì sanh, già, bịnh, chết, đói, khát, nóng, lạnh, vất vả nhọc nhằn; tâm thì buồn giận,  thương ghét, phải quấu, tốt xấu, đúng sai, trăm điều phiền lụy.

Khổ do thân năm ấm này chung hợp lại. Vì sự chung hợp này được kết nối bởi các nhân duyên có khuynh hướng trái nghịch, bên trong luôn mâu thuẫn, chống trái nhau. Vì vậy mà khổ. Nhiều người còn trẻ nghe nói thân này khổ không tin, vì họ nghĩ đến tương lai hạnh phúc, làm sao khổ được? Có người nói rằng khi nào xúc chạm phải những điều trái ý mới khổ, nếu xúc chạm những điều như ý thì đâu có khổ. 

Phật nói thân này là gốc của khổ. Tại sao? Tại vì thân này vô thường đổi thay nên rồi ai cũng sẽ già, bệnh và cuối cùng là chết. Quý Phật tử khi ba bốn mươi tuổi ít ai nhớ rằng mình sẽ già chết, mà cứ nhớ hồi còn mười tám, hai mươi.

Phật nói thân này biến hoại vô thường cho nên khổ, chớ không có cái vui lâu dài. Thật ra Phật dạy khổ không có nghĩa để chúng ta ôm ấp nỗi khổ đó suốt đời. Phật nói khổ để mình biết rõ nguyên nhân để tìm cách chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

Chân lý thứ hai là nguyên nhân dẫn đến đau khổ. Đó là phiền não nhiễm ô, là tâm dính mắc vào ái dục, là sự tham đắm và chấp thủ về cái ta, cái của ta, bởi luyến ái và chấp trước trong sự ràng buộc.

Khổ không phải tự dưng mà có, chính tập đế là những cội gốc của phiền não, là tập nhân tạo thành nên quả khổ. Cội gốc phiền não đó còn được gọi là căn bản phiền não. Có sáu thứ: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Sáu thứ này là nhân tạo thành quả khổ cho con người. Nếu ai diệt hết sáu thứ đó sẽ hết quả khổ.

Cho đến ngã mạn tức thấy ta cao, ta quan trọng. Do thấy như thế nên khi sắp mất rất khổ. Bây giờ nếu thấy ta là hư giả, tạm bợ thì có phách lối với ai không, thân này sắp hoại có khổ không? Sở dĩ chúng ta khinh người là vì thấy mình cao quí quá, quan trọng quá. Bây giờ thấy mình là tạm bợ, giả dối thì đâu có gì quan trọng. Không trọng mình nên đâu có khinh người. Rõ ràng chỉ cần chúng ta có một chút trí tuệ thấy đúng như thật, thì khổ về sinh-già-bệnh-chết từ từ sẽ giảm bớt. 

Nếu lý giải bằng trí tuệ thì thật thân này không có gì quan trọng hết. Chẳng qua chỉ là một nhóm nhân duyên tụ hội lại chớ có gì đâu. Nhiều người thường vỗ ngực xưng tôi, nhưng hỏi cái gì là tôi thì trả lời không chạy. Nếu da thịt là tôi thì khi nó bệnh bác sĩ mổ bỏ đi, cái tôi đó thành gì? Chỉ cần da thịt có vết thương hôi thối, lúc đó mình quí hay muốn bỏ? Khi còn lành lặn ta thấy quí, khi nó hư hoại xem không ra gì, bỏ đi không chút thương tiếc. Rõ ràng cái ta không phải những gì mình đang mang đây. 

Lúc nào mình cũng thấy cái ngã là quí là thật, nên khổ vì nó. Nếu chúng ta biết cái ngã không thật, không quí thì bỏ nó một cách dễ dàng, không đau khổ tí nào hết. Còn ngã mạn vì thân là còn đau khổ, hết ngã mạn mới hết đau khổ. Đó là năm ấm xí thạnh khổ.

Con người vì lòng ham muốn quá mức như giếng sâu không đáy, khi chưa được thì muốn cho bằng được, khi được rồi thì lại sanh nhàm chám muốn tìm thứ khác. Người biết tiết chế được lòng tham thì cuộc sống an nhàn và thảnh thơi không bị cuộc sống ràng buộc.

Từ nghiệp nhân ngu si mê muội, mà nhân loại đã tạo ra từ vô thủy kiếp đến nay nếu chúng ta không có duyên và may mắn gặp được thầy lành bạn tốt thì cuộc đời của ta có thể rơi vào ngõ cụt, đó là một sự thật.

Do si mê, tham đắm chấp thân-tâm làm ngã, từ đó muốn chiếm hữu về cho riêng mình nên suy nghĩ, hành động sai lầm, thấy có ta, người và muôn loài vật thiệt nên bám chấp vào đó. Ý là đầu dây mối nhợ của phiền não, nó thường hay suy tư, nghĩ ngợi nên gọi là ý nghĩ; nó hay nhớ nghĩ về quá khứ hoặc hiện tại gọi là ý niệm; nó hay tưởng tượng, mơ mộng hão huyền nên gọi là ý tưởng và nó có công năng phân biệt, hiểu biết nên gọi là ý thức.

Do phân biệt, hiểu biết sai lầm nên ý thức không rõ được thực tướng của các pháp là duyên sinh, vô ngã, không chủ thể cố định, từ đó sinh ra thấy biết sai lầm mà chấp ta, người, chúng sinh. Sự bám víu vào “cái ta” rồi đến “cái của ta” như vợ ta, con ta, nhà ta, tài sản của ta, đất nước của ta. Dưới cái nhìn của người thế gian như thế đâu có gì sai quấy, thế gian này nếu không bám víu vào “cái ta” và “của ta” thì con người sẽ sống ra sao?

Vì cuộc sống này như vậy nên chúng ta không thể làm khác được, còn sự sống là còn có tham muốn, nhưng ta phải tham muốn thế nào cho phải lẽ. Ở đây Phật vì lòng từ bi chỉ cho ta biết thân tâm này không thật ngã để mọi người bớt luyến ái, chấp trước mà làm khổ cho nhau. Thật ra, đã làm người khó có ai muốn ít biết đủ, chỉ một bề mong cầu được nhiều mà không bao giờ nhàm chán. Tham muốn càng nhiều thì tội lỗi càng phát sinh, càng gây ân oán, hận thù cho nhau không có ngày thôi dứt.

Do vô minh mà sinh ra vọng động. Do có vọng động mà sinh ra vọng thức. Do có vọng thức mà sinh ra phân biệt có đủ thứ ta, người, chúng sinh. Do có sự phân biệt ta người, mà sinh ra xúc chạm. Do có sự xúc chạm mà sinh ra cảm thọ. Do có cảm thọ mà sinh ra tham ái, luyến tiếc, và từ đó bám víu, dính mắc vào sự hiện hữu của nó, nên sống chết, khổ não, ưu sầu, buồn lo đủ thứ.

Chữ sân trong Hán cổ biểu hiện một môi trường sống, như khi con người cảm thấy không hài lòng, vừa ý, bực tức, xung đột, bất bình dẫn đến mâu thuẫn đối kháng, gây hận thù và làm khổ đau cho nhau. Sự tức giận của con người có nhiều cấp độ khác nhau, như nói lời mỉa mai, cay cú, hằn học, mắng chửi, giận dữ, quát tháo, hờn mát, oán thù, đánh đập, chửi bới, hù dọa, triệt tiêu và hủy diệt nhau.

Sân hận là âm Hán Việt, là từ ngữ chỉ chung cho loại phiền não có tính cách bốc lửa. Sân có nghĩa là nóng giận, mỗi khi có sự việc bất bình không được hài lòng, vừa ý là nó bộc phát mạnh ra bên ngoài. Hận có nghĩa là hờn mát âm ỉ sôi sục bên trong, nói cho đủ là giận hờn.

Một khi con người sân hận, cộng với giận hờn mà không đủ khả năng hóa giải, thì lâu ngày trở thành thù ghét, do đó lúc nào cũng muốn tìm cách trả thù hay rửa hận. Giận là lời nói tắt của từ nóng giận, hờn là từ nói tắt của chữ hờn mát, gọp chung lại là giận hờn.

Sân hận có nghĩa là giận hờn. Khi chúng ta giận hờn ai đó mà cứ ghìm mãi trong lòng thì lâu ngày trở nên thù hằn, ghét bỏ, âm ỉ tìm cách trả thù thích đáng, khi có cơ hội là ra tay liền. Giận hờn là một thói quen xấu có tính cách hại người, hại vật, dù nặng hay nhẹ thì chắc chắn cũng làm tổn hại đến những người xung quanh. 

Khi ta đã giác ngộ thức tỉnh trong cuộc sống, nhưng vẫn còn các tập khí, thói quen xấu thường xuyên tác động đến. Nếu ta không kiên trì bền chí thì thói quen xấu vẫn sai sử ta như thường.

Trong khi đó, Phật dạy thân này do bốn chất đất, nước, gió, lửa hòa hợp lại mà thành, nên không có gì là thực thể cố định cả. Cái được gọi là ta, là của ta, nó cũng không thật, ai chấp vào đó thì sinh ra luyến ái, bám víu mà lầm tưởng là thật ta, nên mới chấp ngã rồi từ đó sinh ra chiếm hữu, ai nghĩ và làm như vậy tức là người vô minh, nên lúc nào cũng sống trong đau khổ lầm mê.

Còn tâm suy tư nghĩ tưởng, hết nhớ chuyện này đến nhớ chuyện kia, không lúc nào dừng nghĩ. Khi thì nghĩ tốt, lúc thì nghĩ xấu, có khi thì hiền như nai tơ, có lúc thì lại dữ như cọp sói. Như người có chút ít công phu do kiên trì, bền bỉ, biết cách buông xả vọng niệm, nên có khi ngưng bặt mọi suy nghĩ.

Từ cái thấy thân kiến là cái thấy sai lầm về thân, tức chấp vào sự hiện hữu của cơ thể con người là tôi, là của tôi, nên từ đó bắt đầu chiếm hữu. Ai đụng đến cái tôi này thì có sự phản kháng mãnh liệt, do đó dấy khởi phiền não tham-sân-si, mà dẫn đến tranh đấu giành phần thắng lợi về cho riêng mình để loại trừ lẫn nhau.

Quan niệm về thân kiến này sẽ trường tồn mãi mãi và chỉ có hai con đường để ta chọn lựa, một là lên thiên đàng hưởng phước báo tối cao, hai là xuống địa ngục chịu khổ đau lâu dài. Đó là cái thấy sai lầm do không có sự thể nghiệm thực tế, không có sự trải nghiệm bản thân, mà làm cho con người mất hết quyền làm chủ chính mình trong cuộc sống hiện tại.

Biên kiến là cái thấy một bên, nghĩa là có một linh hồn bất tử sống đời không thay đổi, tức là thường còn mãi mãi và quan niệm chết là hết, tức là không còn gì nữa, chỉ có một đời sống hiện tại mà thôi. Linh hồn bất tử là cái hồn sáng không bao giờ mất, nói như vậy có phù hợp với chân lý hay không?

Thường thì con người thế gian lấy bản ngã làm tâm điểm, nhân danh đấng thần linh thượng đế, để tạo ra sự bất công và muốn chiếm hữu, nên đã gây ra nhiều tội lỗi cho muôn loài vật.

Tất cả những điều này là do cái thấy biết sai lầm của một số người thế gian, họ lạm dụng sự thiếu hiểu biết của nhân sinh mà áp đặt số mệnh, để con người phải chấp nhận phục tùng một cách mù quáng như một tín đồ, mà không có quyền góp ý xây dựng trên tinh thần yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau.

Ý thức được khổ đau do sự si mê chấp ngã gây ra, nên chúng ta thường xuyên quán chiếu để ngày càng sống tốt hơn. Chúng ta thử lắng dừng tâm tư một chút, để nhìn thấy rõ cuộc đời là một dòng trôi chảy biến thiên, không dừng hẳn ở một phút giây nào, không đứng mãi một vị trí nào.

Quan niệm cố giữ và chiếm hữu, là nguyên nhân của sự thấy biết sai lầm do sự si mê chấp ngã mà ra. Thân này rồi cũng phải già nua mà chúng ta muốn trẻ mãi không già, thân này bệnh hoạn đau nhức mà chúng ta muốn sống hoài không bệnh, thân này thở ra mà không còn thở vào thì coi như bị ngủm cù đeo mà chúng ta muốn sống hoài không chết. Một sự thật quá rõ ràng mà ít ai nhìn thấy, chúng ta thử quán chiếu cuộc đời này với những cái có hình tướng, coi nó có mãi trường tồn hay không.

Thân này sinh già bệnh chết, mà chúng ta muốn nó không già bệnh chết làm sao được? Chúng ta thường xuyên quán chiếu về thân như thế và luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người khi có nhân duyên, nhờ vậy những tâm niệm tham sân si dần dần rơi rụng bớt theo thời gian cho đến khi, ý không còn suy nghĩ xấu nữa mà hay làm các điều thiện lành và không bám víu vào việc làm tốt đó, thì thành tựu viên mãn công hạnh Bồ-tát.

Chân lý thứ ba là Niết-bàn, tức là sự trừ diệt hoàn toàn gốc rễ của khổ đau và những nguyên nhân dẫn đến đau khổ. Đó là sự không còn chấp trước ta, người, chúng sinh bởi đam mê say đắm ham muốn, biết buông xả và dẫn đến giác ngộ, giải thoát.

Chúng ta làm sao thể nhập Niết-bàn khi mình chưa đến chỗ đó, Niết-bàn không phải là một cảnh giới có hình tướng cụ thể như các hình ảnh sự vật bên ngoài. Nhiều người nghĩ rằng, Niết-bàn là một cảnh giới thù thắng vi diệu ở một cõi nào đó, con người sau khi chết để hưởng phúc lạc vô biên. Hiểu nghĩa Niết-bàn như thế, vô tình chúng ta đánh mất chính mình thì đó là một điều sai lầm rất lớn. 

Niết bàn theo lời Phật dạy, là tâm thanh tịnh sáng suốt sau khi chúng ta đã chuyển hóa phiền não tham-sân-si thành vô lượng trí tuệ từ bi. Giống như bản chất của gương là sáng, nhưng ta để bụi bặm dính vào lâu ngày, bây giờ muốn gương sáng trở lại chúng ta chỉ cần lau bụi, khi bụi hết thì mặt gương tự sáng. Cũng lại như thế, khi chúng ta gan lọc hết phiền não nhiễm ô, ta người, phải quấy, tốt xấu, hơn thua, được mất lìa hai đối đãi nhị nguyên thì thể nhập Niết-bàn vô sanh.

Theo quan niệm Phật giáo, Niết-bàn được xem là mục tiêu cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thoát hoàn toàn mọi tham ái, sự dập tắt tham-sân-si, trạng thái an tịnh tuyệt đối không còn bị bốn tướng sinh-già-bệnh-chết chi phối nữa.

Có hai loại Niết-bàn thường được đề cập trong các bản kinh, đó là Hữu dư Niết-bàn và Vô dư Niết-bàn. Hữu dư Niết-bàn là chỉ cho người đã đạt đến giải thoát hoàn toàn khỏi vòng luân hồi, nhưng phần nhục thể vẫn còn tồn tại. Vô dư Niết-bàn là cảnh giới vĩnh viễn khi chúng ta xả ly phần thân thể này.

Niết-bàn còn có tên khác là Chơn tâm, Phật tính, Bản lai diện mục, Pháp thân, Chân như…..Như vậy, làm sao để chúng ta thể nhập Niết-bàn vô sanh? Niết-Bàn mà Phật chứng ngộ không có hình tướng, thoát ngoài vòng đối đãi nên không thể suy nghĩ, nói năng luận bàn đến được và nó cũng không lệ thuộc thời gian, không gian. Cho nên, kinh Pháp Hoa gọi là tri kiến Phật hay Phật thừa. Bởi vì nó là cái thấy biết đúng như thật mà không dấy niệm phân biệt ta người, đúng sai…nên mới gọi là Phật tính sáng suốt, thấy tức biết, biết cái gì? Biết mình có tâm Chân thật nương nơi thân này.

Niết-bàn không phải là nơi chốn có không gian vật lý, cũng không phải là cõi trời không hình tướng, Niết-bàn là chỉ cho tâm thể ở mỗi người chúng ta. Khi cởi bỏ được bản ngã độc tôn, sống buông xả, không phân biệt, không cố chấp ta người chúng sinh.

Chúng ta muốn nhận ra Phật tính sáng suốt hay thể nhập Niết-bàn, cần phải biết rõ tâm là gì? Tâm là một danh từ ai cũng có thể nói được, nhưng tâm là gì thì chẳng ai biết rõ ràng. Cái gốc của Phật pháp chinh là tâm. Người học Phật pháp phải biết rõ nguồn gốc đó chính là tâm của mình chứ chẳng phải tìm cầu nơi khác mà được. Trong thực tế cuộc sống, Phật giáo là nền giáo dục nhân bản, giúp cho con người nhận ra tâm pháp để giác ngộ, giải thoát và thành Phật ngay nơi thân này.

Nhưng tâm chia ra làm hai phần: Tâm chân thật còn gọi là tâm thường biết rõ ràng, tâm vọng còn gọi là tâm phân biệt hư dối. Tâm chân thì không thể dùng lời nói luận bàn, hay ý thức suy nghĩ mà được, chỉ thấy nghe hay biết mà không vọng động, hình ảnh sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó. Tâm vọng hư dối là hay suy nghĩ phân biệt phải quấy, được mất, tốt xấu, đúng sai, ta người…..

Tâm không có hình tướng dài, ngắn, vuông, tròn, hay có màu sắc xanh, đỏ, vàng, trắng, đen, nâu. Chúng ta không thể dùng con mắt mà thấy được tâm; cũng không thể dùng tay chơn sờ mó rờ đụng được tâm; chỉ thấy cái tác dụng của nó qua mắt tai mũi lưỡi thân ý, nên ta biết có tâm chân thật hay còn gọi là Phật tính sáng suốt.

Tâm chân thật được hiển lộ qua sự thấy và nghe, khi thấy chỉ là thấy mà vẫn thường biết rõ ràng mọi hình ảnh sự vật, màu sắc xanh, trắng, đỏ, vàng. Khi nghe chỉ là nghe mà không dính mắc vào âm thanh lớn nhỏ, dễ chịu hay không dễ chịu, nhờ vậy ta luôn sống với tính nghe thường hằng.

Cũng như "điện", người ta không thể thấy nghe hay rờ mó được điện; chỉ do thấy cái tác dụng của nó mà biết có điện. Như cho điện vào bóng đèn thì thấy đèn sáng, cho điện vào quạt thì thấy quạt xoay, cho điện vào bàn ủi thì thấy nóng, cho điện vào tủ lạnh thì thể lỏng đông đặc lại v.v…. Chính vì vậy mà người ta biết là có điện.

Cuộc sống của chúng ta hằng ngày phải ăn cơm, uống nước, đi tiểu, đi đại, mặc áo, nói năng, tiếp khách, làm việc, đều phải có tâm hiển bày nên đã thường biết rõ ràng trong thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, vậy mà ta chẳng chịu thừa nhận là mình có tâm chân thật.

Tâm Phật chúng ta cũng lại như thế, vì nó có tác dụng thấy, nghe hay biết nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý mà không dấy niệm phân biệt tốt xấu, đúng sai v.v… nên chúng ta biết là có tâm Phật sáng suốt ngay nơi thân này.  

 Chân lý thứ tư là con đường dẫn đến Niết-bàn, đó là tám phương pháp tâm linh mầu nhiệm là hiểu biết chân chính, tư duy chân chính, lời nói chân chính, hành vi chân chính, nghề nghiệp chân chính, nỗ lực chân chính, ý niệm chân chính và thiền định chân chính, là con đường Trung đạo.

 Bát chánh đạo là tám con đường tâm linh mầu nhiệm. Tám nguyên tắc mầu nhiệm ấy có liên hệ nhân quả rất mật thiết với nhau như sau:

1-Chánh kiến: là hiểu biết đúng đắn, hay thấy biết đúng như thật.

2-Chánh tư duy: Suy nghĩ, xem xét, quán chiếu và chiêm nghiệm đúng.

3-Chánh ngữ: Nói lời chân thật, đúng lý lẽ.

4-Chánh nghiệp: Hành động chân chính.

5-Chánh mạng: Làm việc mưu sinh chân chính, không làm các việc tà mạng.

6-Chánh tinh tấn: Siêng năng tinh cần và kiên trì bền bỉ buông xả vọng niệm.

7-Chánh niệm: Ý thức chân chính nhờ sự quán chiếu, soi rọi nên lúc nào cũng tỉnh giác trong từng phút giây.

8-Chánh định: kiên định tập trung tâm tư vào con đường chân chính, không để bất cứ điều gì lay chuyển, làm thoái chí, phân tâm.

Qua bài kinh Chuyển Pháp Luân của đức Phật, giảng tại vườn Nai cho năm anh em Kiều Trần Như nghe, Bát Chánh Đạo là nội dung chính Đức Phật muốn nói ra, khi Ngài đã lìa khỏi hai cực đoan. Đức Phật đã trải qua hai lối sống hưởng thụ lợi lạc, đam mê ái dục, danh lợi, quyền lực trong cung điện, và sáu năm tu khổ hạnh nhưng không tìm được đạo giác ngộ, giải thoát.

Ý nghĩa chính của con đường trung đạo là sự thức tỉnh và thấy biết đúng như thật của đức Phật, qua hai kinh nghiệm từng trải nghiệm trong cuộc đời, để khuyên nhủ mọi người đừng để bị rơi vào hai trạng thái cực đoan ấy.

Thứ nhất là đắm mình trong dục lạc thế gian như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều, dẫn đến nguy hại, là một điều chúng ta cần phải tránh xa.

Thứ hai là tự hành hạ mình bằng các hình thức tu khổ hạnh, ép xác, dẫn đến thân đau khổ, tâm u mê, không sáng suốt, tác hại vô cùng là điều ta không bao giờ nên làm.

Đức Phật cho thấy, cuộc sống của chúng ta ít bao giờ được hoàn hảo với bất cứ một ai. Ai cũng có một nỗi khổ, niềm đau riêng, bởi bản chất của con người trong xã hội, ai cũng đều có khát vọng, mong muốn, tìm cầu hưởng thụ tiện nghi vật chất. Khi những chướng duyên, nghịch cảnh của xã hội làm cho con người phiền muộn, đau khổ, họ sẽ tìm về với gia đình, người thân, mong được an ủi, sẻ chia và nâng đỡ.

Đức Phật có tầm nhìn và sự hiểu biết sâu rộng hơn, nhờ trải qua hai lối sống cực đoan thái quá, nên Ngài biết cách tìm về con đường trung đạo, nhằm giúp bản thân hoàn thiện, cùng nâng đỡ, sẻ chia, để mọi người cùng đạt đến sự an lạc, hạnh phúc ngay trong cuộc sống hiện tại.

Đức Phật chỉ cho ta biết cách làm chủ bản thân, quay lại chính mình để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Chỉ vì thấy biết sai lầm mà ta phải chịu khuất phục bởi một đấng thần linh giả tạo, với niềm hy vọng mong mình được cứu rỗi, thoát khỏi bao cảnh lầm than, khổ sở mà chính mình đã tạo ra. Trí tuệ không phải là sự hiểu biết bình thường của tri thức, mà là kết quả của sự quán chiếu chiêm nghiệm, tìm tòi mà phát minh.

Từ người phàm phu tục tử, chúng ta có thể nương theo Bát Chánh Đạo để tu, thì khỏi sợ lầm lạc, rơi vào chỗ dữ, từng bước sẽ chứng được quả hiền Thánh trong tương lai.

Giáo lý duyên khởi, vô thường và vô ngã là qui luật tự nhiên hay bản chất của các pháp. Không một pháp nào lại không do nhân duyên kết hợp mà thành, cái gì do nhân duyên kết hợp lại mà thành, cái ấy không có tự tánh, không thể tồn tại độc lập và không có tự thể cố định.

Như vậy, giáo lý Duyên Khởi, Vô Thường, Vô Ngã là bản chất của cuộc sống. Bất cứ ai, dù là người của tôn giáo, hay đảng phái nào, cũng phải tuân theo qui luật này, không thể làm khác đi. Cho nên, tùy theo nhận thức của chúng sinh mà có sự hiểu biết khác nhau, nên sinh ra cái thấy không ai giống ai. Chính vì vậy, chúng ta gọi giáo lý nhà Phật là Chánh pháp, điều được nói đến là giáo lý Duyên Khởi, Vô Thường và Vô Ngã. Ý nghĩa này đúng về mặt chân lý, nên gọi là Chánh pháp. 

Trong cuộc sống, nếu ta biết xem xét, chiêm nghiệm và áp dụng tám nguyên tắc trên trong mọi hoàn cảnh, ta sẽ thấy rõ ràng sự liên hệ nhân quả mật thiết, tương quan giữa những nguyên tắc ấy. 

Người có chánh kiến luôn luôn lúc nào cũng biết phân biệt và kiểm soát chặt chẽ các mặt hoạt động của thân và tâm, như suy nghĩ chân chính về lời nói, việc làm, mạng sống và sự nỗ lực tinh tấn, để đạt được chánh niệm nhờ có định lực sâu dày.

Hiểu biết chân chính là cái nhìn mọi hiện tượng, sự vật dưới nguyên lý duyên khởi, vô thường và vô ngã, tức không có chủ thể cố định, không có nguyên nhân đầu tiên của thế giới, không có thượng đế ban phước giáng họa, tất cả đều biến thiên, thay đổi, không thực thể.

Ba chi cuối cùng là chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định, là sự quyết tâm tu tập. Chúng ta tu tập là ý thức muốn sửa sai, nếu ý thức này bắt nguồn từ cái thấy sai lệch, cho rằng có một linh hồn bất tử, thì sự tu tập đó trở thành vô dụng. Người tu như vậy không bao giờ đạt được mục đích giác ngộ, giải thoát, nên chánh kiến có vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát sự nỗ lực tu tập đó có đúng hay không?

Nếu sự tu tập đó được bắt nguồn từ chánh kiến, chánh tư duy, thì ắt hẳn chúng ta sẽ có lời nói chân chính, không nói lời giả dối để lường gạt người. Ngược lại, nếu như không có chánh kiến mà là tà kiến, sẽ dẫn đến suy nghĩ bất chính và làm những việc xấu ác, cuối cùng sẽ gặt lấy quả phiền muộn, khổ đau.

Muốn thành tựu con đường trung đạo, ta phải biết áp dụng Bát Chánh Đạo, như sự liên hệ tương quan, tương duyên mật thiết với nhau, bồi đắp cho nhau, mà không thể thiếu nhau. Tám nguyên tắc hành động này lúc nào cũng làm nhân và quả để hỗ trợ cho nhau, nếu mất một chi thì không thành tựu con đường trung đạo.

KINH HẠNH NGUYỆN BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM

Tôi nghe như vầy: Có vị Bồ-tát, hiệu Vô tận Ý, ở trong pháp hội, hoa sen chánh pháp, chấp tay bạch Phật, cung kính thưa rằng: “ Bạch đức Thế tôn, ngài Quán Thế Âm, do nhân duyên gì, được danh hiệu ấy?”

Này Vô Tận Ý, này các Bồ-tát, nếu có muôn ức, các loài chúng sinh, chịu nhiều khổ nạn, khi nghe được tên, Bồ-tát Quán Âm, một lòng xưng danh, thọ trì miên mật, đều được an vui, giác ngộ giải thoát.

Nếu ai bất hạnh, bị lửa đốt thiêu, xưng niệm Quán Âm, nhờ sức oai thần, lửa chẳng đốt cháy. Lại nếu có người, bị nước cuốn trôi, niệm danh Bồ tát, nhờ sức oai thần, liền đến chỗ cạn. Nếu ai đi thuyền, để tìm châu báu, vàng bạc lưu ly, trân châu mã não, hỗ phách xà cừ, san hô ngọc quý, lênh đênh biển lớn, giông gió cuốn trôi, vào nước La sát, thì nên thành tâm, trì niệm Quán Âm, nhờ sức oai thần, bình yên vô sự.

Lại nếu có người, sắp bị hãm hại, bằng dao gậy kiếm, thì nên thành tâm, niệm danh Bồ-tát, do đó dao gậy, liền biến thành không, và được cứu thoát. Nếu bị các loài, La sát Dạ xoa, làm hại thân này, hãy niệm Quán Âm, nhờ sức oai thần, quỷ dữ bỏ đi.

Lại nếu có người, bị tù bị tội, xiềng xích gông cùm, khổ đau trói buộc, khắp cả toàn thân, nhờ niệm Quán Âm, thoát khỏi tù đày, dứt lìa oan nghiệt.

Lại nếu có người, mang nhiều châu báu, bị cướp tấn công, thì nên thành tâm, niệm danh Bồ-tát, nhờ sức oai thần, bọn cướp khiếp sợ, không dám hãm hại.

Này Vô Tận Ý, Bồ-tát Quán Âm, có sức oai thần, nhiệm mầu như thế, công đức sâu dày, không thể nghĩ bàn, rộng độ chúng sinh. Vì thế, các ông nên thường, niệm danh Bồ-tát, một lòng tinh chuyên.

Nếu có chúng sinh, tham lam ích kỷ, giận hờn ngu si, phải thường cung kính, niệm danh Bồ-tát, thì tham sân si, thảy đều tan biến.

Lại nếu có người, cầu xin con trai, thì nên thành tâm, niệm danh Bồ tát, nhờ sức oai thần, liền sinh con trai, phước đức đầy đủ, trí tuệ hơn người.

Lại nếu có người, muốn cầu con gái, thì nên thành tâm, niệm danh Bồ tát, nhờ sức oai thần, hạ sinh thục nữ, xinh đẹp kiều diễm, thì được nhiều người, yêu thích mến thương.

Thần lực Quán Âm, nhiệm mầu như thế! Ta khuyên mọi người, cung kính đảnh lễ, niệm danh Bồ tát, tán thán thọ trì, để được lợi lạc, khắp cả chúng sinh.

Sau khi nghe xong, ngài Vô Tận Ý, liền hỏi Phật rằng: “ Bồ-tát Quán Âm, phát tâm vào đời, cứu độ chúng sinh, bằng phương tiện gì, giúp cho muôn loài, thảy đều tỏ ngộ?”.

Này Vô Tận Ý: “Nếu có chúng sinh, thích dùng thân Phật, để được độ thoát, chứng nên quả giác, thì Quán Thế Âm, thị hiện thân Phật, vì họ thuyết pháp.”

Tương tự như thế, tùy theo sở thích, của các chúng sinh, Bồ-tát Quán Âm, ứng hiện nhiều thân, như thân Thanh Văn, thân Bích Chi Phật, hoặc Trời Đế thích, hoặc Trời Phạm vương, thân Tự Tại Thiên, đại Tự Tại Thiên, Trời Đại Tướng Quân, hoặc Tỳ Sa môn, tiểu vương trưởng giả, vua quan cư sĩ, hoặc Bà la môn, tín nữ thiện nam, hoặc làm Tăng Ni, hoặc thân công chúa, nữ hoàng tôn quý, đồng nam đồng nữ, hoặc ứng hiện thân: Trời, Rồng, Dạ xoa, hoặc Càn thát bà, hoặc A tu la, hoặc Câu lâu la, hoặc Khẩn na la, Ma hầu na già, thần Chấp Kim Cang, tất cả băm ba, ứng thân sai khác, giúp cho mọi người, an vui giải thoát, thì Quán Thế Âm, sẵn sàng hóa thân, không chút quản ngại.

Này Vô Tận Ý, Bồ-tát Quán Âm, ứng hiện nhiều thân, cứu độ chúng sinh, khắp cả thế gian, không thể nghĩ bàn. Vì thế các ông, hãy nên một lòng, tán thán cúng dường, Bồ-tát Quán Âm.

Này Vô Tận Ý, thí không sợ hãi, trong chốn trần gian, cứu khổ chúng sinh, tai qua nạn khỏi, chính là nguyện lớn, Bồ-tát Quán Âm, nên cõi Ta Bà, thảy đều gọi ngài, là Quán Tự Tại.

Sau khi nghe xong, ngài Vô Tận Ý, xin thưa đức Phật, cho con cúng dường, Bồ-tát Quán Âm. Nói xong ngài đem, chuỗi ngọc như ý, tặng làm pháp thí, giá trị ngàn vàng, cung kính cúng dường, Bồ-tát Quán Âm. Bồ-tát Quán Âm, không dám chịu nhận, chuỗi ngọc như ý. Phật liền dạy rõ, về pháp cúng dường, khuyên Quán Thế Âm, hãy vì bốn chúng, tám bộ trời rồng, và Vô Tận Ý, nhận chuỗi pháp thí, lợi ích trời người.

Phật vừa dứt lời, Bồ-tát Quán Âm, vui vẻ đón nhận, chia làm hai phần, một phần dâng cúng, đức Phật Thích ca, còn lại phần kia, cúng tháp Đa Bảo.

Bấy giờ trong hội, có vị Bồ tát, tên là Trì Địa, chấp tay thưa Phật : “Bạch đức Thế tôn, nếu có chúng sinh, nghe được kinh này, cũng như công đức, ứng hiện các thân, tùy duyên giáo hóa, của ngài Quán Âm, thì phước người ấy, vô lượng vô biên”.

Khi nghe Phật nói, hạnh nguyện Quán Âm, tám mươi bốn ngàn, các loại chúng sinh, thảy đều phát tâm, Vô Thượng Chánh Giác.

MƯỜI HAI NGUYỆN LỚN

Một nguyền khi hành Bồ-tát đạo,

Danh hiệu tôi Tự Tại Quán Âm.

Sáu căn thanh tịnh viên thông,

Chỗ nào khốn khổ liền tìm đến nơi.

Hai nguyền không sợ gian nan,

Vớt người chìm đắm, biển sông lâu dài.

Ba nguyền ứng hiện Ta Bà,

U minh đau khổ mau mau giải trừ.

Bốn nguyền ma quỷ yêu tinh,

Hãy mau thức tỉnh hồi quy Phật-đà.

Năm nguyền Dương liễu Tịnh bình,

Cam lồ rưới mát, nhân thiên an lành.

Sáu nguyền bình đẳng xót thương,

Không còn phân biệt, thân sơ mọi loài.

Bảy nguyền dứt khổ ba đường,

Chúng sinh thoát nạn, không còn trầm luân.

Tám nguyền cứu khổ tội tù,

Chúng sinh vui vẻ, an nhiên thanh nhàn.

Chín nguyền cứu khổ thế nhân,

Thảy đều thể nhập, Niết-bàn vô sinh.

Mười nguyền hổ trợ Tây Phương,

Muốn cho tất cả, biết đường về Tây.

Mười một nguyền Di Đà thọ ký,

Cảnh Tây Phương tuổi thọ lâu dài,

Chúng sinh muốn sống an lành,

Niệm danh Bồ-tát, Tây Phương mau về.

Mười hai nguyền tinh tấn tu hành,

Dù thân này lao khổ trăm bề,

Thành tâm nỗ lực không ngừng,

Mười hai nguyện lớn độ sinh đời đời.

Chúng tôi được phúc duyên tu theo Hòa Thượng Trúc Lâm với phương pháp biết vọng không theo, thấy biết là chơn tâm, một dòng thiền hiện đại của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam, dưới sự chỉ dạy trực tiếp của Hòa thượng trụ trì Tổ đình Thiền Viện Thường Chiếu. Sau một thời gian tu học, chúng tôi nhận thấy kinh là lời Phật dạy, thiền là hành thẳng nơi tâm. Qua lời Phật dạy phẩm Phổ Môn trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa và thiền không hai, không khác. Đây là bài kinh nói về Hạnh nguyện độ sinh của Bồ-tát Quán Thế Âm trong cõi Ta-Bà, giúp cho tất cả mọi người “quán chiếu cuộc đời” để đạt được giác ngộ, giải thoát.

Cho nên chúng tôi biên soạn lại và mạnh dạn đặt tên: Kinh Hạnh Nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm và nương theo đó để hướng dẫn áp dụng hành trì, nếu ai có nhân duyên với Bồ-tát. Trong phần biên soạn, chúng tôi giảm bớt phần trùng tụng nhưng vẫn giữ được yếu chỉ của kinh. Thời gian tu học tại Thiền Viện Thường Chiếu, chúng tôi có nhân duyên lớn hướng dẫn hoằng pháp và từ thiện, cho người bất hạnh tại Trung Tâm Bảo Trợ Xã Hội Chánh Phú Hòa Tỉnh Bình Dương. Thực hiện chương trình kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống tài trợ học bổng cho học sinh giỏi và giúp đỡ học sinh khó khăn tại 19 Trường trung tiểu học Huyện Tân Châu Tỉnh Tây Ninh. Hoằng pháp và từ thiện các chùa vùng sâu vùng xa để giúp đỡ người bất hạnh nghèo khổ, thiếu thốn khó khăn.

Chủ trương của chúng tôi là hoằng pháp và từ thiện, như đôi cánh chim tung bay giữa bầu trời trí tuệ và từ bi, nhờ phương tiện giúp đỡ vật chất để xoa dịu bớt nỗi đau bất hạnh. Chúng tôi còn chia sẻ một số kinh nghiệm để họ có đủ niềm tin trong cuộc sống, tin sâu nhân quả và vươn lên làm mới lại chính mình. Bởi vì người bất hạnh đa số không học hành tới nơi, tới chốn, cuộc sống bấp bênh nên sự học hỏi, hiểu biết, nhận thức  không được sáng suốt. Do đó dễ oán trời trách đất đổ thừa tại bị thì là…trách móc xã hội sau quá bất công, thù ghét người thân bạn bè sau không giúp đỡ, những người này họ đáng thương hơn là đáng ghét.

Để có cơ hội giúp đỡ hướng họ đi đến con đường sáng, chúng tôi phương tiện hướng dẫn phương pháp trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, giúp cho mọi người có đủ niềm tin, cố gắng vươn lên vượt qua nỗi khổ niềm đau, làm mới lại chính mình để sống an vui và hạnh phúc.

Phương pháp trì niệm danh hiệu Bồ-tát đơn giản và dễ dàng, nhờ thần lực nhiệm mầu Quán Thế Âm luôn xem xét lắng nghe tiếng kêu cứu khổ để giúp mọi người được tai qua nạn khỏi.

Nếu nói về chùa và tín ngưỡng của người Việt Nam, thì hầu như hình ảnh Bồ-tát Quán Thế Âm đã ăn sâu và thấm nhuần trong lòng mọi người. Từ khắp ba miền đất nước chùa nào cũng đều có thờ tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, thậm chí tại nhà mọi người đều có thờ riêng. Rõ ràng niềm tin đối với Bồ-tát Quán Thế Âm, đã ăn sâu vào tàng thức của người dân nước Việt.

Đạo Phật đã truyền vào Việt Nam trên 2000 năm, trải qua rất nhiều thời đại vàng son, nhất là đời Lý, đời Trần, nhờ chủ trương đưa Phật giáo vào áp dụng cho toàn dân, nên mọi người sống có ý thức và trách nhiệm, biết thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, do đó mà luôn sống trong bình yên, hạnh phúc. Song bên cạnh đó không biết bao nhiêu cuộc thăng trầm, thịnh suy, tùy theo vận mệnh của đất nước. Nhưng niềm tin của người dân nước Việt đối với Bồ-tát Quán Thế Âm không bao giờ bị mai một.

Một niềm tin dựa trên thần lực nhiệm mầu của Bồ-tát Quán Thế Âm, đi vào đời để cứu độ chúng sinh như “ có cầu tất ứng.” Bồ-tát Quán Thế Âm sở dĩ được tôn xưng với danh hiệu không thể nghĩ bàn, nhờ ngài luôn ban bố niềm vui đến cho mọi người và sẵn sàng giúp đỡ tất cả chúng sinh vượt qua sợ hãi khổ đau, đang chịu nhiều bất hạnh trong đời. Như thiên tai, hỏa hoạn, lũ lụt, sóng thần, động đất, bị yêu tinh tà ma hảm hại, bị giam cầm tù tội, cho đến bị nạn trộm cướp, bị vua quan chiếm đoạt và nghèo đói thiếu thốn khó khăn.

Bồ-tát Quán Thế Âm là điểm tựa tinh thần vững chắc để mọi người bắt chước và noi theo, từ một con người phàm phu tục tử có thể trở thành một Thánh nhân cao quý nhờ biết cách trì niệm hồng danh Ngài.

Điểm đặc biệt để mọi người lưu ý, bài kinh này mang ẩn dụ rất cao nếu chúng ta không có trí tuệ soi sáng, dễ lầm tưởng Ngài có thể ban phước giáng họa và “cầu gì được nấy”. Thái độ cầu nguyện van xin tha lực của người tín ngưỡng, không phải là nội dung chính yếu mà Phật muốn chỉ dạy.

Ở đây, cốt lõi của bài kinh đức Phật nói rõ con người do tưởng quá nhiều nên mới sinh ra đau khổ. Tưởng là nhân đau khổ của tất cả chúng sinh, vì có tưởng tượng nên con người sợ hãi mà sinh ra đau khổ. Muốn hết đau khổ thì phải dứt bặt sự tưởng tượng về ta người, phải quấy, đúng sai, thiện ác, khi tưởng hết mọi khổ đau đều hết theo. Nếu chúng ta kiên trì bền bỉ trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, thể nhập tính nghe thường hằng thì chắc chắn sẽ hết khổ.

Quán Thế Âm còn có nghĩa Quán Tự Tại, vì sao? Vì ngài soi thấy năm uẩn đều không, có nghĩa là thân tứ đại này do bốn chất đất nước gió lửa hoà hợp lại mà thành, tâm suy tư nghĩ tưởng phân biệt ta, người, chúng sinh là vọng dối không thật có. Cái gì thiệt thì trước sau như một, thường hằng bất biến không thay đổi, thân này già bệnh chết, tâm tư thay đổi không dừng nghỉ cho nên bản chất của nó là không thật thể cố định, thấy như thế thì liền qua hết thảy khổ ách.

Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy sáu căn là nhân của luân hồi sinh tử và sáu căn cũng là nhân của giải thoát. Sáu căn là mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý khi tiếp xúc với sáu trần là sắc thinh hương vị xúc pháp, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, thấy tức biết, biết mà không dấy niệm tốt xấu, đúng sai, cái biết đó đâu có đổi thay thường hằng trước sau như một.

Sau khi Phật bảo 25 vị Thánh trình bày chỗ tu chứng của mình xong rồi, Phật dạy Bồ-tát Văn thù chọn lựa căn viên thông để tu. Cuối cùng Bồ-tát chọn lựa “nhĩ căn” là viên thông hơn cả. Đây là lối tu: “Phản văn văn tự tánh” của Bồ-tát Quán Thế Âm. Chữ phản ở đây có nghĩa là ngược lại, thay vì từ xưa đến giờ chúng ta chạy theo âm thanh, có tiếng là có nghe, không tiếng là không nghe, quên mất tính nghe thường hằng của mình, bây giờ xoay lại chính mình thể nhập tính nghe.

Người Phật tử chân chính khi biết tu rồi, chỉ nhớ mình có tính biết sáng suốt, nghe tất cả tiếng mà không dính mắc vào âm thanh riêng biệt nào. Cho nên Bồ-tát Văn Thù khuyên đại chúng và ngài A nan: “xoay cơ quan nghe của ông, trở lại nghe tính nghe của mình, thành tựu tính nghe là đạo vô thượng Chánh Đẳng Giác. Đây là con đường vào cửa Niết-bàn của tất cả chư Phật nhiều như số vi trần.

Nên kinh nói, trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, công đức thù thắng hơn tất cả. Vậy, chúng ta trì niệm bằng cách nào? Nghĩa là phản quán lại tính nghe chân thật của mình, nên không bị âm thanh bên ngoài chi phối, do đó hằng sống với tính nghe. Trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm là phương pháp tu tập quán chiếu cuộc đời, để chúng ta thấy rõ được bản chất thực hư của nó, nên mỗi hành giả tự độ mình, vượt qua các khổ đau đang có mặt.

Mục đích chính của kinh là độ thoát tất cả chúng sinh, trừ bẩy tai nạn trong đời và thực hiện hai sự cầu vi diệu, mà trong kinh nói: “cầu con trai thì được con trai, cầu con gái thì được con gái. ” Vì bài kinh mang ẩn dụ cao siêu, chỉ cần người tin tưởng niệm danh hiệu Bồ-tát là đã có an lạc, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Huống hồ là chúng ta nhất tâm chí thành “niệm” tinh chuyên miên mật không gián đoạn, thì kết quả sẽ được y như nguyện.

Theo sự hiểu biết của chúng tôi cầu con trai là cầu được trí tuệ rộng lớn, vì con trai tượng trưng cho lý trí mà muốn có trí tuệ thì phải tu tập thiền định, chứ không thể nào cầu nguyện van xin suông mà được. Đạo Phật là nền tảng của nhân quả, muốn được quả tốt thì phải gieo nhân tốt, nếu chúng ta không thành tâm khẩn thiết thì làm sau có cảm ứng giao thoa.

Cầu con gái là cầu được phước đức, mà phụ nữ tượng trưng cho tình cảm dạt dào, muốn giúp chúng sinh thoát khỏi khổ đau bất hạnh nghèo đói, thiếu thốn khó khăn, Bồ-tát phải có nhiều tiền của, nhờ vậy mới đủ sức chia sẻ nỗi khổ niềm đau cho tất cả mọi người.

Khi giúp chúng sinh mà không có trí tuệ rộng lớn thì còn thấy mình là kẻ ban ơn, người là kẻ thọ ơn và vật để cho. Nếu thấy như vậy thì dễ sinh ra phiền muộn khổ đau, vì mình còn chấp trước dính mắc ta, người, chúng sinh. Do đó Bồ-tát muốn vào đời để độ sinh thì phải Quán Tự Tại bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, với tấm lòng vô ngã, vị tha.

Ngoài ra kinh này còn nói lên tình thương bao la rộng lớn của một vị Bồ-tát Quán Thế Âm trong mỗi hành giả, với cách thức độ sinh đa dạng của 33 ứng thân khác nhau.

Bồ-tát độ sinh dưới nhiều hình thức từ một ông vua hay tể tướng, kẻ thiện nam người tín nữ, cho đến kẻ bần cùng, chúng sinh cần nhu cầu nào thì Bồ-tát ứng hiện điều kiện đó, để hòa nhập vào cộng đồng xã hội mà san sẻ nỗi khổ niềm đau và đem niềm vui đến cho mọi người. Hay nói rõ hơn, Bồ-tát đi vào đời là tùy bệnh cho thuốc, do đó người hành đạo muốn độ sinh có hiệu quả phải biết căn cơ và sở thích của từng chúng sinh. Chúng tôi xin chân thành nói rộng pháp tu Bồ-tát Quán Thế Âm theo nhiều cấp độ như sau: Thứ nhất là trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm.

_Nam mô đại từ đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát. Phương pháp niệm danh hiệu Bồ-tát, giống như niệm Phật A Di Đà cũng lấy tín, hạnh, nguyện, làm tông chỉ. Nhưng niệm Bồ-tát Quán Thế Âm khác ở chỗ là không cầu về cõi Tây Phương Cực lạc, mà phát nguyện đi vào đời để cứu khổ chúng sinh, luôn xem xét lắng nghe, sẵn sàng chia sẻ tình yêu thương chân thật, nhằm xoa dịu bớt nỗi đau bất hạnh giúp mọi người chuyển hoá nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc.

Giải thích từ ngữ: Nam mô có nghĩa là cung kính, tôn trọng. Chúng ta cung kính tôn trọng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, để bắt chước tấm lòng vị tha từ bi cứu khổ chúng sinh lâu dài, không biết mệt mỏi, nhàm chán.

Đại từ có nghĩa là mở rộng tấm lòng, đem niềm vui tình thương vô lượng vô biên, đến với tất cả chúng sinh mà không phân biệt thân sơ. Bồ-tát bình đẳng đối với tất cả mọi người không thấy ai là kẻ thù, chỉ thấy người chưa thông cảm với nhau mà thôi.

Đại bi có nghĩa là mở rộng tấm lòng sẵn sàng chia sẻ nỗi khổ niềm đau đối với người người bất hạnh khổ đau. Chỉ biết một bề giúp đỡ sẻ chia khi có nhân duyên và điều kiện, bình đẳng thương xót mà không một niệm oán trách.

Quán Thế Âm có nghĩa là quán sát xem xét lắng nghe tiếng khổ của tha nhân để tùy duyên cứu độ. Ngài luôn quán chiếu cuộc đời lắng nghe âm thanh theo nguyên lý, duyên khởi, vô ngã, vị tha, nhờ vậy biết cách giúp đỡ mọi người vượt qua lo lắng sợ hãi, thoát khỏi sự ràng buộc của khổ đau. Quán chiếu cuộc đời thực tế có 5 cách:

Một là quán chân thật, hai là quán thanh tịnh, ba là quán trí tuệ rộng lớn, bốn là quán tình thương, năm là quán cứu khổ. Mỗi hành giả nương vào năm pháp quán này, mà vươn lên làm mới lại chính mình để vượt qua cạm bẫy cuộc đời, sống an vui giải thoát.

Quán chân thật để thấy rõ bản chất cuộc đời là một dòng chuyển biến, theo nguyên lý duyên khởi, vô ngã, vô thường. “Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt. ”Tất cả mọi hiện tượng sự vật không có thực thể cố định, nhờ quán chiếu như vậy nên chúng ta dễ dàng buông xả, không chấp trước dính mắc về thân tâm, ta, người, hoàn cảnh.

Quán thanh tịnh để thấy rõ bản chất của các pháp không nhơ sạch, đúng sai, tốt xấu, nhờ vậy chúng ta dứt tưởng nên hành giả sống lạc quan không dính mắc hai bên.

Quán trí tuệ rộng lớn, là pháp quán cần yếu của mỗi hành giả. Không có trí tuệ chúng ta dễ rơi vào si mê lầm lạc, muốn có trí tuệ mỗi hành giả phải biết thiền định để loại trừ rác rưởi tà niệm. Cho nên đất tâm nếu không, thì mặt trời trí tuệ tự sáng. Hành giả khi có trí tuệ thì thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách nên gọi là Quán Tự Tại.

Hai pháp quán sau gộp chung lại gọi là quán từ bi, tâm từ bi có thể phát xuất từ tấm lòng vị tha của mỗi con người. Nhờ quán từ bi mỗi hành giả thấu suốt nguyên lý duyên khởi, vô ngã tính không thực thể của các pháp. Nhưng có tính biết sáng suốt hằng tri, hằng giác nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế.

Do biết rõ thật giả phân minh, nên Bồ-tát đi vào đời luôn đem niềm vui, tình thương chân thật bình đẳng với tất cả chúng sinh, dù đó là người thù. Bồ-tát sẵn sàng chia sẻ nỗi khổ niềm đau, để làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh cho tất cả chúng sinh. Nhờ Bồ tát thấu rõ chân lý cuộc đời nên không thấy mình là kẻ ban ơn, người nhận thí và kẻ thọ ơn, nên bình đẳng kết nối yêu thương mở rộng tấm lòng không phân biệt người thân hay kẻ thù.

Người tu niệm danh hiệu Bồ-tát thì phải lấy tín, hạnh, nguyện làm nền tảng, nhưng tín hạnh nguyện của người niệm Quán Thế Âm khác với niệm Phật cầu vãng sinh.

Tín có nghĩa là tin thần lực nhiệm mầu của Bồ-tát Quán Thế Âm, có đủ khả năng giúp chính mình chuyển hoá nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc, đạt được kết quả như ý muốn. Nhưng tại sao có người nhờ niệm Quán Thế Âm mà vượt qua hoạn nạn tai ương, cũng có người khi niệm chẳng thấy linh ứng và hiệu nghiệm tại sao?

Người phát tâm trì niệm danh hiệu Bồ tát điều đầu tiên, cần phải có lòng tin sâu sắc với Bồ-tát luôn cung kính chí thành, niệm tinh chuyên ròng rặc. Ai đặt hết niềm tin tưởng và thành khẩn cầu sự cứu độ của Bồ-tát Quán Thế Âm thì được cảm ứng không thể nghĩ bàn “có cầu tất ứng”.

Hạnh có nghĩa là thực hành niệm danh hiệu Bồ-tát một cách tinh chuyên, ròng rặc, miên mật, thường xuyên mỗi ngày không lơ là giải đãi. Chúng ta cung kính, chí thành niệm danh hiệu Bồ-tát trong mọi hoàn cảnh, trong bốn oai nghi, đi đứng nằm ngồi mà không bị ngoại cảnh chi phối làm thất niệm.

Cuộc sống thế gian vốn nhiều đau khổ bất an, tham lam, thù hận đố kỵ, tranh chấp xung đột, sợ hãi và sẵn sàng triệt tiêu lẫn nhau vì quyền lợi riêng tư. Nếu chúng ta không thường xuyên cung kính niệm Bồ-tát, chờ đến khi gặp hoạn nạn mới khẩn cầu thì e rằng sẽ không có kết quả như nguyện. Vì lúc này tinh thần không sáng suốt khủng hoảng, sợ hãi, mất bình tĩnh, thì làm sao đủ khả năng cầu sự gia hộ của Bồ-tát có hiệu quả được.

Nguyện ở đây có nghĩa là chí nguyện độ sinh, cứu vớt chúng sinh tai qua nạn khỏi, vượt thoát khổ đau và luôn đem niềm vui đến với tất cả muôn loài. Bồ-tát sau khi thành tựu đạo quả, nguyện dấn thân đi vào đời để làm lợi ích chúng sinh, cùng đồng hành, cùng làm việc, cùng đóng góp, cùng gánh vác, cùng sẻ chia, cùng chia vui và cùng sớt khổ với tất cả chúng sinh. Và chúng ta phải thường xuyên quán chiếu thế gian lúc nào cũng đầy dẫy khổ đau bất hạnh, như đang sống trong nhà lửa, chịu sự nóng bức của phiền não trong từng phút giây.

Tu và học theo hạnh nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm như nhịp cầu nối kết yêu thương, sẻ chia cuộc sống, luôn giúp mọi người sống gần gũi gắn bó với nhau, bằng sự thương yêu và hiểu biết, dấn thân và phục vụ, bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ, sẻ chia và giúp đỡ, nhưng không thấy ai là người thù, chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi.

Bồ-tát có nghĩa là người giác ngộ, nhưng giác ngộ từng phần chưa được viên mãn như Phật. Nhưng vì thấy chúng sinh ở cõi Ta-Bà này vui ít, khổ nhiều bị phiền não khổ đau chi phối, nên động lòng thương xót đi vào đời lấy tứ nhiếp pháp để ban vui cứu khổ theo đúng tâm tư nguyện vọng của chúng sinh. Một là bố thí, hai là ái ngữ, ba là lợi hành, bốn là đồng sự.

Bồ-tát thấy chúng sinh tham lam, bỏn sẻn, keo kiệt, ích kỷ, nhỏ mọn, chất chứa riêng tư là nhân của đau khổ, nên rộng rải phát tâm bố thí, giúp đỡ sẻ chia, để diệt trừ tâm địa hẹp hòi san tham. Bồ tát sẵn sàng đem tài sản của cải hoặc sức lực của mình bố thí giúp đỡ mỗi khi cần thiết. Bồ-tát không những giúp đỡ về vật chất mà còn phát tâm hướng dẫn phần tinh thần để chúng sinh dứt trừ tâm sát sinh hại vật, trộm cướp lường gạt của người khác, tà dâm, nói dối hại người, tin sâu nhân quả dứt ác làm lành. Nhờ sự giúp đỡ tận tình nên Bồ-tát dễ dàng gần gũi và được nhiều người mến thương, do đó dễ nhiếp phục họ bằng bố thí vật chất và tinh thần.

Thứ hai là Bồ-tát phải dùng lời ngon ngọt, hòa nhã dịu dàng, nhỏ nhẹ dễ thương, không nên nói lời cộc cằn thô bạo nếu giúp người mà như thế dễ làm họ chán ghét, phiền muộn khổ đau. Khéo dùng lời nói từ ái hiền hòa, nhưng chân thật nên dễ thành công trong công cuộc độ sinh.

Thứ ba là Bồ-tát phải tích cực làm việc gì đó để lợi ích chúng sinh, chứ không phải nói suông vô ích. Nhờ vậy họ mới tin tưởng mình, sau đó chúng ta dùng chánh pháp để giúp họ hướng thiện, dứt ác làm lành.

Thứ tư là đồng sự, Bồ-tát phải siêng năng giỏi biết nhiều ngành nghề để cùng làm cùng sống với họ. Nhờ sống gần gũi thường xuyên chúng ta mới có cơ hội dùng chánh pháp để thuyết phục họ, tin sâu nhân quả, tự tin chính mình và giúp họ đi theo con đường hướng thượng là luôn chia vui sớt khổ trong tình thương yêu bình đẳng bằng trái tim hiểu biết.

Khi chúng ta niệm danh hiệu Bồ-tát thuần thục rồi, ta hãy dùng pháp quán chiếu, xem xét, soi sáng các pháp duyên sinh vô ngã, vô thường, nhờ vậy hành giả biết được lẽ thật của các pháp không thực thể cố định, nên dễ dàng buông xả tâm dính mắc. Do đó hằng sống với tâm thanh tịnh sáng suốt của mình.

Muốn được như thế Bồ-tát phải quán trí tuệ rộng lớn để chuyển hóa tối tăm si mê và sống với tính biết sáng suốt, nương nới mắt thì thấy nghe không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Từ đó phát khởi lòng từ bi rộng lớn đi vào đời cứu độ chúng sinh, mà không thấy mình ban cho, người được cho và vật đã cho.

Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy Nhĩ căn Viên Thông là thù thắng hơn hết. Bồ-tát Quán Thế Âm do tu: “ phản văn văn tự tánh” Xoay cái hay nghe trở lại tánh nghe thường hằng của mình nên thành tựu đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Vậy chúng ta làm sao xác định được tính nghe thường hằng của mình.

Chỉ có người đã thật sự sống với tâm chân thật của mình, mới không chạy theo âm thanh lớn nhỏ bên ngoài. Tai nghe tiếng thì biết mình đang nghe mà không chạy theo tiếng, lại biết mình có tính nghe thường hằng là pháp tu của Bồ-tát Quán Thế Âm. Âm thanh lớn nhỏ xa gần lúc nào cũng có, tính nghe hiện hữu nên mới thường nghe. Nếu tính nghe bị gián đoạn thì tai ta có lúc nghe, lúc không.

Như trong kinh Lăng Nghiêm Phật bảo ngài A Nan đánh tiếng chuông, rồi hỏi ngài A Nan có nghe không? Ngài A Nan trả lời có. Đợi khi tiếng chuông im bặt một hồi lâu. Phật hỏi lại ông có nghe không? Ngài A Nan trả lời là không nghe, bị Phật quở tại sao ông quên mình theo vật. Phật nói tiếp, khi có tiếng là nghe có tiếng, khi không tiếng là nghe không tiếng.

Tính nghe luôn thường hằng nên cái gì biết có tiếng, không tiếng vậy mà chúng ta không chịu thừa nhận nên luôn sống trong đau khổ lầm mê. Qua câu chuyện Phật dạy trong Lăng Nghiêm cho Ngài A Nan và những thiền sư tu theo cách hành thẳng nơi tâm không thông qua phương tiện, không hai không khác. Mỗi hành giả tu theo hạnh nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm cần phải thể nghiệm sâu sắc lời dạy trên để được giác ngộ, giải thoát ngay tại đây và bây giờ.

Trong thiền môn có một câu chuyện nỗi tiếng về Bồ-tát Quán Thế Âm. Một thiền sinh trên đường đi tham vấn, đến một chùa nọ thấy thờ Bồ-tát nghìn tay nghìn mắt mới hỏi thiền sư: Bồ tát nghìn tay nghìn mắt, vậy mắt nào là mắt chánh? Thiền sư nói: “ Như người ngủ ban đêm, với tay ra sau tìm chiếc gối”. Ngay khi đó là mắt chánh hiện tiền. Chỗ này mọi người tự biết… tôi không thể biết! Cái gì, biết tìm chiếc gối trong đêm tối.

Bồ-tát nghìn tay là tượng trưng cho sự dấn thân làm việc không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán vì lợi ích chúng sinh. Và con mắt trong mỗi bàn tay tượng trưng cho trí tuệ thấy biết đúng như thật, nhờ vậy Bồ-tát thương yêu bằng trái tim hiểu biết, giúp đỡ chúng sinh một cách bình đẳng, không phân biệt người thân hay kẻ thù.

Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: phản văn văn tự tánh là xoay cái hay nghe, nghe lại tự tánh mình thì được đạo vô thượng. Hòa Thượng chúng tôi dạy thấy biết là chơn tâm, nghe biết là chơn tâm, mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế. Vậy thiền và kinh đâu có khác, Phật và tổ không hai, đồng một con đường sáng để thể nhập Niết bàn.

Chúng tôi lập ra một pháp tu trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, nếu ai có nhân duyên với Bồ-tát xin hãy cùng chúng tôi đồng hành, để được kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống, hạnh phúc tràn đầy, con đường tỉnh thức, từ thiện duyên lành, để được cho và nhận, với tấm lòng vô ngã vị tha.

SƠ TỔ TRÚC LÂM-PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG (1258 - 1308)

Ngài tên húy là Khâm, con trưởng vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh hoàng thái hậu, sanh ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ (1258). Ngài tuy ở địa vị sang cả mà tâm lúc nào cũng hâm mộ hướng về Phật pháp nên đã tìm hiểu thiền ngay từ thuở nhỏ. Năm mười sáu tuổi được vua cha Trần Thánh Tông lập làm Hoàng thái tử. Ngài cố tìm cách từ chối để nhường lại cho em, mà Vua cha không chịu.

Vua cưới trưởng nữ của Nguyên Từ quốc mẫu cho Ngài, tức là Khâm Từ thái hậu sau này. Sống trong cảnh cung vàng điện ngọc hưởng thú vui đầy đủ dục lạc theo sở thích của mình, ấy thế mà Ngài vẫn muốn đi tu.

Một hôm vào lúc giữa đêm, Ngài trèo thành trốn đi, định vào núi Yên Tử. Đến chùa Tháp ở núi Đông Cứu thì trời vừa sáng, trong người mệt nhọc quá, Ngài bèn vào nằm nghỉ trong tháp. Vị Sư trụ trì ở đây thấy Ngài tướng mạo khác thường, liền làm cơm thết đãi. Vua cha hay tin, sai các quan đi tìm thấy, Ngài bất đắc dĩ phải trở về.

Năm hai mươi mốt tuổi, Ngài lên ngôi Hoàng đế (1279). Tuy ở địa vị cao quý nhất mà ai cũng hằng mong muốn, mà Ngài vẫn giữ giới luật tinh nghiêm để tu tập. Thường ngày, Ngài đến chùa Tư Phước trong đại nội tu tập. Một hôm nghỉ trưa, Ngài thấy trong rốn mọc lên một hoa sen vàng lớn bằng bánh xe, trên hoa sen có đức Phật vàng. Có người đứng bên cạnh chỉ Ngài nói: “Biết ông Phật này chăng? Là đức Phật Biến Chiếu”. Tỉnh giấc, Ngài đem việc đó tâu lên Vua cha. Vua Thánh Tông khen là việc kỳ đặc.

Ngài thường ăn chay lạt và tiết chế trong ăn uống nên thân thể gầy ốm. Thánh Tông thấy thế lấy làm lạ, nên hỏi lý do. Ngài trình bày thật nguyên nhân với cha. Thánh Tông mới đau lòng xót xa mà bảo rằng: “Nay ta đã già, chỉ trông cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác được sự nghiệp của tổ tiên?” Ngài nghe Vua cha dạy mà nước mắt cứ tuôn trào.

Đặc biệt Ngài rất thông minh hiếu học, đọc hết các sách vở ngoài đời và thông suốt kinh điển Phật-đà.Phật giáo thời nhà Trần rất hưng thịnh nhờ các vị vua biết tu thiền, Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ tại gia nhờ tham thiền mà được ngộ đạo, khai mở Phật tâm ngay nơi thân này. Cho nên vua Trần Thánh Tông mới gởi Thái tử Trần Khâm (Trần Nhân Tông) khi còn nhỏ cho Tuệ Trung Thượng Sĩ hướng dẫn tu thiền. Khi học hỏi gần xong sắp trở về triều, trước lúc từ giã Thái tử hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ: "Bạch Thượng Sĩ, pháp yếu của Thiền tông là gì? ". Thượng Sĩ trả lời: "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc".

Những lúc rãnh rỗi, Ngài mời các Thiền khách bàn giải về Tâm thiền, Ngài tham học thiền với Tuệ Trung Thượng sĩ, thâm đắc đến chỗ thiền tủy. Đối với Thượng Sĩ, Ngài kính lễ làm thầy.

Những khi giặc Nguyên sang quấy rối, Ngài phải xếp việc kinh kệ để lo giữ gìn xã tắc. Nhờ tình đoàn kết quân dân, Ngài đã hai lần (1285, 1288) đuổi được quân Nguyên, giữ gìn trọn vẹn đất nước. Dưới triều đại Ngài, hai cuộc hội nghị nổi tiếng được ghi vào sử sách là: hội nghị các tướng lãnh ở Bình Than, hội nghị những bô lão trong cả nước ở Diên Hồng để bàn mưu kế, tỏ quyết tâm chống giặc.

Năm Quí Tỵ (1293), Ngài nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông, lên làm Thái thượng hoàng. Ở ngôi Thái thượng hoàng để chỉ dạy cho con được sáu năm, Ngài sắp đặt việc xuất gia.

Đến tháng 10 năm Kỷ Hợi (1299) Ngài xuất gia vào tu ở núi Yên Tử. Ở đây, Ngài chuyên cần tu tập theo hạnh đầu-đà (khổ hạnh) lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu-đà. Sau đó Ngài lập chùa, cất tinh xá, khai giảng để tiếp độ chúng Tăng. Học chúng đua nhau đến rất đông. Sau, Ngài đến chùa Phổ Minh ở phủ Thiên Trường lập giảng đường, giảng dạy mấy năm. Ngài lại vân du đến trại Bố Chánh lập am Tri Kiến rồi ở đó.

Đến năm Giáp Thìn (1304), Ngài dạo đi khắp nơi khuyên dân dẹp bỏ những dâm từ (miếu thờ thần không chánh đáng), và dạy họ giữ gìn năm giới, tu mười điều thiện. Vào mùa đông năm ấy, vua Anh Tông dâng biểu thỉnh Ngài về đại nội để truyền giới Bồ-tát tại gia.

Sau đó, Ngài chống gậy đến chùa Sùng Nghiêm ở núi Linh Sơn để truyền bá cốt tủy Thiền tập.

Ngày mùng 1 tháng giêng năm Mậu Thân (1308), Ngài sai Pháp Loa đến huyện Siêu Loại tại Báo Ân thiền tự khai giảng trụ trì. Tháng tư năm ấy, Ngài đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lượng Giang kiết hạ và sai Pháp Loa khai giảng trụ trì. Chính Ngài giảng Truyền Đăng Lục, bảo Quốc sư Đạo Nhất vì chúng giảng kinh Pháp Hoa. Bãi hạ, Ngài vào núi Yên Tử, đuổi hết những người cư sĩ theo hầu hạ và những kẻ nô dịch trong chùa, không được chực hầu như trước. Chỉ để lại mười vị Thị giả thường theo Ngài. Ngài lên ở am Tử Tiêu, vì Pháp Loa giảng Truyền Đăng Lục. Thị giả xuống núi gần hết, duy có đệ tử thượng túc là Pháp Loa còn ở thôi.

Từ đây, Ngài leo khắp các núi, tìm kiếm các hang động, ở tại thạch thất. Pháp Loa thấy thế bạch: “Tôn đức tuổi đã già yếu, mà xông pha trong sương tuyết, lỡ có bề gì thì mạng mạch Phật pháp trông cậy vào ai?” Ngài bảo: “Ta thời tiết đã đến, muốn tạo cái kế lâu dài vậy.”

Ngày mùng 5 tháng 10 năm ấy, người nhà của Công chúa Thiên Thụy lên núi bạch Ngài: “Công chúa Thiên Thụy bệnh nặng mong được thấy Tôn đức rồi chết.” Ngài bùi ngùi bảo: “Thời tiết đã đến vậy.” Ngài bèn chống gậy xuống núi, chỉ cho theo một người Thị giả. Ngài mùng 10 Ngài về đến kinh, dặn dò xong, ngày rằm Ngài trở về núi. Ngài dừng nghỉ ở chùa Siêu Loại. Hôm sau vừa rạng đông, Ngài đi bộ đến chùa làng Cổ Châu, tự đề bài kệ rằng:

ÂM:         Thế số nhất tức mặ

               Thời tình lưỡng hải ngâ

               Ma cung hồn quản thậm

              Phật quốc bất thắng xuân.

 DỊCH:       Số đời một hơi thở

                Lòng người hai biển vàng

                Cung ma dồn quá lắm

               Cõi Phật vui nào hơn.

Đến ngày 17, Ngài dừng nghỉ ở chùa Sùng Nghiêm tại Linh Sơn, Tuyên Từ hoàng thái hậu thỉnh Ngài vào am Bình Dương cúng trai. Ngài vui vẻ nói: “Đây là bữa cúng dường rốt sau.” Ngày 18, Ngài lại đi bộ đến chùa Tú Lâm ở ngọn An Kỳ Sanh. Nghe nhức đầu, Ngài gọi hai vị Tỳ-kheo trong chùa bảo: “Ta muốn lên ngọn Ngọa Vân mà chân không thể leo nổi, phải làm sao?” Hai vị Tỳ-kheo bạch: “Hai đệ tử có thể giúp được.” Đến am Ngọa Vân, Ngài tạ hai vị Tỳ-kheo rằng: “Xuống núi tu hành đi, chớ xem thường việc sanh tử.”

Ngày 19, Ngài sai Thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu ở núi Yên Tử gọi Bảo Sát đến đây gấp. Ngày hai mươi, Bảo Sát quảy gói sang, đi đến Doanh Tuyền thấy một vầng mây đen từ ngọn Ngọa Vân bay qua Lỗi Sơn và hạ xuống Doanh Tuyền, nước đầy tràn lên cao mấy trượng, giây lát lại bình xuống. Lại thấy hai con rồng đầu bằng đầu ngựa ngóc cao hơn trượng, hai con mắt như sao, chốc lát lại lặn xuống. Đêm ấy Bảo Sát nghỉ trong quán trọ dưới núi, mộng thấy điềm chẳng lành.

Ngày 21, Bảo Sát đến am Ngọa Vân. Ngài trông thấy mỉm cười bảo: “Ta sắp đi đây, nhà ngươi đến sao trễ vậy? Đối với Phật pháp, ngươi có chỗ nào chưa rõ hãy nói mau.”

Bảo Sát hỏi:

- Như khi Mã Tổ bệnh, Viện chủ hỏi: “Những ngày gần đây Tôn đức thế nào?” Mã Tổ bảo: “Mặt trời Phật, mặt trăng Phật.” Nói thế ý chỉ làm sao?

Ngài lớn tiếng đáp:

- Ngũ Đế Tam Hoàng là vật gì?

Bảo Sát lại hỏi:

- Chỉ như “hoa sum sê chừ gấm sum sê, tre đất nam chừ cây đất bắc”, lại là sao?

Ngài đáp:

- Làm mù mắt ngươi.

Bảo Sát bèn thôi.

Suốt mấy hôm trời đất u ám, chim vượn kêu hót rất bi thảm.

Đến ngày mùng 1 tháng 11, đêm nay trời trong sao sáng, Ngài hỏi Bảo Sát: “Hiện giờ là giờ gì?” Bảo Sát bạch: “Giờ Tý.” Ngài lấy tay vén màn cửa sổ nhìn xem, nói: “Đến giờ ta đi.” Bảo Sát hỏi: “Tôn đức đi đến chỗ nào?” Ngài nói kệ đáp:

ÂM:          Nhất thiết pháp bất sanh

               Nhất thiết pháp bất diệt

              Nhược năng như thị giải

             Chư Phật thường hiện tiền.

            Hà khứ lai chi liễu dã.

 DỊCH:      Tất cả pháp chẳng sanh

               Tất cả pháp chẳng diệt

              Nếu hay hiểu như thế

             Chư Phật thường hiện tiền.

            Nào có đến đi ấy vậy.

Bảo Sát hỏi:

- Chỉ như khi chẳng sanh chẳng diệt là thế nào?

Ngài liền nhằm miệng Bảo Sát tát cho một cái, nói:

- Chớ nói mớ.

Nói xong, Ngài bèn nằm như sư tử lặng lẽ mà tịch, vào niên hiệu Hưng Long thứ 16 (1308), thọ năm mươi mốt tuổi.

Pháp Loa theo lời di chúc của Ngài làm lễ hỏa táng, lượm ngọc cốt có năm màu để vào bình. Vua Anh Tông cùng đình thần đem long giá rước ngọc cốt về tôn thờ nơi Đức Lăng và xây tháp ở chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, để hiệu là Huệ Quang Kim Tháp và dâng tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu-đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật.

Sơ Tổ Trúc Lâm-Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Ngài là một ông vua đi tu, trong sử ghi hiệu Ngài là Trúc Lâm Đại Đầu-đà hay Hương Vân Đại Đầu-đà. Là những Phật tử xuất gia hay tại gia, chúng ta cần phải nắm vững hành trạng của chư Tổ Việt Nam để thấy rõ những điều hay mà chư Tổ đã tu, đã lãnh hội được và truyền mãi đến con cháu sau này.

                            (Trích dẫn soạn dịch Hòa Thượng Thích Thanh Từ)

Giải thích: Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, triều đại nhà Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm, cũng như chính sách hộ quốc an dân, khuyên mọi người giữ năm giới và tu mười điều lành, nhờ vậy đất nước phát triển vô cùng tốt đẹp. 

Năm 1299, vua Nhân Tông xuất gia tại chùa Hoa Yên núi Yên Tử, lấy hiệu là Hương Vân Ðầu Ðà, sau này vua đổi hiệu là Trúc Lâm Ðầu Ðà ngày nay mọi người thường tôn xưng là Phật hoàng Trần Nhân Tông và là người sáng lập chính thức thiền phái Trúc Lâm.

Một điểm rất quan trọng mà mọi người cần phải lưu ý, đến năm 1304 Ngài dạo đi các nơi khuyên dân dẹp bỏ những miếu thờ thần không chánh đáng, có tính cách giết hại hoặc mê tín dị đoan. Muốn cho mọi người dân sống có đạo đức thì Ngài dạy họ giữ năm giới và tu mười điều lành. Đó là phương pháp tối ưu cho người cư sĩ tại gia mà toàn dân ai cũng có thể tu được. Ngài đem nếp sống đạo đức hướng dẫn cho quần chúng, và khuyên họ tu trong đời sống gia đình và xã hội, để mình và người được bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Chính nhờ vậy mà Phật giáo đời Trần đã có công rất lớn trong việc xây dựng con người sống đạo đức, ý thức trách nhiệm làm chủ bản thân nhờ tin sâu nhân quả, tin mình là chủ của bao điều họa phúc và nêu cao tinh thần đoàn kết toàn dân, cùng nhau phá bỏ những tập tục mê tín, tập tục giết hại để tế thần….Từ đó trở đi, thiền phái trúc lâm Yên Tử trở thành nổi tiếng, thế lực lan rộng khắp mọi nơi.

Ngài được tôn danh là Phật hoàng Trần Nhân Tông, Ngài là vị Tổ đã sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một dòng Thiền thuần túy của Phật giáo Việt Nam.

Một nét đặc sắc nổi bật của Phật hoàng Trần Nhân Tông, đó là thái độ khoan dung của Ngài đối với một số quan lại đã viết biểu dâng cho nhà Nguyên xin đầu hàng. Đức vua đã không truy cứu trách nhiệm xử tội họ mà ra lệnh đốt bỏ các tờ biểu đó. Tấm lòng khoan dung độ lượng và sẵn sàng tha thứ của nhà vua quả là hiếm có, đã cảm hóa được họ tâm phục, khẩu phục.

Mười bốn năm trên ngôi vua, năm năm trên ngôi Thái thượng hoàng, vua Trần Nhân Tông luôn là vị minh quân có một không hai trong lịch sử nước ta. Ngài đã biết đem giáo lý Phật-đà áp dụng cho toàn dân, nhờ vậy mọi người sống ấm no hạnh phúc và thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống, không thấy ai là kẻ thù.

Khi còn là Hoàng thái tử, Ngài đã hấp thụ được tinh ba của thiền do Tuệ Trung Thượng Sĩ chỉ dạy nên đã trường trai và muốn ít biết đủ để sống đời đạo hạnh. Và đến khi làm vua, Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh tu hành và thường đến chùa Tư Phước trong đại nội để tu tập. Mặc dù phải giải quyết rất nhiều bộn bề công việc của đất nước, nhưng Ngài vẫn giữ vững ý chí lập trường để tu hành.

Sau khi hoàn thành trách nhiệm của một vị minh quân đối với giang sơn xã tắc, năm 1299 Ngài nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông, để xuất gia tu hành trên núi Yên Tử. Điều này gợi cho chúng ta cảm nhận rằng Phật hoàng Trần Nhân Tông là Bồ-tát Quán Thế Âm hiện thân làm vua ở Việt Nam, để cứu giúp nhân dân ta thoát khỏi khổ nạn của giặc ngoại xâm thời đó.

Chính vì vậy, đối với Phật giáo Việt Nam, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ra đời là một nét son vàng sáng chói đem lại bình yên hạnh phúc cho toàn dân. Hòa Thượng Thanh Từ ngày hôm nay đã có công rất lớn là khôi phục lại Thiền phái Trúc Lâm, đây là bước ngoặc quan trọng đang giúp mọi người trong cả nước, quy hướng về Phật giáo gầy dựng con người sống làm việc theo tinh thần từ bi hỷ xả mà cùng nhau phát triển một đất nước văn minh, giàu mạnh về vật chất lẫn tinh thần, bằng trái tim thương yêu và hiểu biết.

Đọc lịch sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở Ấn Độ, chúng ta có thể hãnh diện vì Ngài là một vị Thái tử chuẩn bị lên ngôi vua, lại dám bỏ ngai vàng để đi tu, điều này rất hiếm có trong lịch sử nhân loại. Người khai sáng ra đạo Phật của chúng ta là người sắp hưởng địa vị cao tột nhất thế gian mà Ngài vẫn không màng đến, ra đi tìm đạo để giác ngộ cho mình và tất cả chúng sinh. Ngày hôm nay, Phật giáo đã được truyền bá sâu rộng khắp thế giới là một dấu ấn quan trọng để mọi người biết cách chuyển hóa khổ đau, thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Chúng ta càng hãnh diện hơn nữa, ở Việt Nam một ông vua đi tu. Đang làm vua đủ uy quyền thế lực muốn gì được nấy, hưởng thụ đầy đủ các dục lạc thế gian, vậy mà vua Trần Nhân Tông lại đem tất cả sự nghiệp giao cho con để đi tu. Tư cách xuất gia của Ngài là một điểm son sáng chói, khiến chúng ta càng tự hào hãnh diện hơn nữa.

Đức Phật là một Thái tử đi tu, ông Tổ sáng lập Thiền phái Trúc Lâm thuần chất Việt Nam của mình là một ông vua đi tu, còn chúng ta là những thành phần nào trong xã hội? So với đức Phật và Sơ tổ Trúc Lâm, các Ngài ở trong hoàn cảnh cao sang quyền quý mà vẫn dứt ra được để thành tựu viên mãn. Những việc rất khó làm mà các Ngài đã làm được, thì ngày nay chúng ta là những kẻ hậu học phải tâm quyết nhiều hơn nữa trong việc tu hành của mình bằng cách giữ giới, thiền định, bố thí và dùng trí tuệ để soi sáng phiền não nhiễm ô, tan hòa vào chân tâm hay Phật tính sáng suốt của mình.

Như vậy về mặt lịch sử, chúng ta hãnh diện thấy Phật Tổ cũng là một con người như tất cả mọi người, nhờ quyết chí kiên trì bền bỉ trong việc tu hành nhờ thấy được hạnh phúc thế gian chỉ là tạm bợ không dài lâu bởi sự vô thường đổi thay của nó. Nhờ vậy, chúng ta sẽ tin chắc rằng nếu quyết chí tu hành, cố gắng buông xả không chấp trước vào ta, người, chúng sinh hay thân tâm hoàn cảnh là thật, thì sẽ đạt được kết quả tốt đẹp….

"Phản quan tự kỷ" là soi sáng hay xem xét lại chính mình. "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc" có nghĩa xem xét lại chính mình là việc bổn phận, chẳng từ nơi khác mà được. Đó là câu châm ngôn bất hủ mà trong giới nhà Thiền thường xử dụng để điều phục tâm mình.

Trước khi thiền phái Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam được sáng lập, từng có 3 dòng Thiền lớn ra đời: Dòng Tì Ni Đa Lưu Chi, Dòng Vô Ngôn Thông và Dòng Thảo Đường.

Dòng Tì Ni Đa Lưu Chi là do Tì Ni Đa Lưu Chi, người Nam Thiên Trúc qua Trung Hoa, đến tháng 3 năm 580 sang Việt Nam, ở chùa Pháp Vân mở đầu một dòng Thiền và đã truyền pháp cho Thiền sư Pháp Hiền, người Việt Nam.

Dòng Vô Ngôn Thông (còn gọi là Thiền phái Quan Bích) do Thiền sư Vô Ngôn Thông họ Trịnh, người Trung Hoa, sang Việt Nam vào năm 820, ở chùa Kiến Sơ.

Dòng Thiền Thảo Đường bắt đầu truyền pháp ở nước ta thế kỷ thứ 11. Vào năm 1069, vua Lý Thánh Tông đưa quân đi Bình Chiêm, đem về một số tù binh, trong đó có Thiền sư Thảo Đường người Trung Hoa.

Thiền sư Hiện Quang chính là người khai sơn chùa Vân Yên, sau đổi là chùa Hoa Yên, trên núi Yên Tử. Vua Trần Thái Tông, là người đầu tiên của nhà Trần, một vị vua anh hùng nỗi tiếng về hai mặt tài năng và đức độ, có một thời đã từng bỏ ngai vàng lên chùa này để tìm thầy học đạo.           Ngài là vị vua đầu tiên đời Trần đánh tan quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ nhất. Thắng giặc xong, Ngài nhường ngôi cho con, lui về chuyên chú việc nghiên cứu thiền học và tu hành.

Ở đây chúng ta sẽ đặc biệt tìm điểm khởi nguồn trực tiếp của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, như là một trong những nét đặc thù xuất phát của Thiền học Việt Nam. Đề cập đến Thiền học Việt Nam, thì phải nói đến đời nhà Trần vì triều đại nhà Trần là một triều đại mà suốt cả các vị vua điều được un đúc bởi tư tưởng Thiền học, trong đó Trần Thái Tông là người tiêu biểu nhất, và có thể coi là quan trọng nhất trong chứng cứ làm phát khởi Thiền phái Trúc Lâm. Núi Yên Tử đã được gắn liền với Thiền phái Trúc Lâm, và chính nơi đây Trần Thái Tông đã khai mở con đường mới về Thiền học.

Kế tiếp Thiền sư Hiện Quang là Thiền sư Đạo Viên, người được vua Trần Thái Tông gọi là Quốc sư Trúc Lâm. Tiếp nữa là Thiền sư Tiêu Diêu, tức Quốc sư Đại Đăng. Quốc sư Đại Đăng có hai học trò xuất sắc, một là Thiền sư Huệ Tuệ, một là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Tuệ Trung là một người có phẩm chất Thiền học, có phẩm chất Thiền sư, nhưng cũng là một cư sĩ sống đời tại gia. Tuệ Trung Thượng Sĩ chính là người ấn chứng cho vua Trần Nhân Tông.

Cuối đời Lý đầu đời Trần có thiền sư Hiện Quang tu đắc đạo trên núi Yên Tử, dưới Ngài có thiền sư Đạo Viên hay là Viên Chứng đắc đạo, kế đến có thiền sư Đại Đăng. Những vị đó đều là quốc sư hai triều, triều vua Trần Thái Tông triều vua Trần Thánh Tông. Sau đó có những vị tiếp nối nhưng không được rõ ràng. Hơn nữa, khi vua Trần Nhân Tông đi tu đắc đạo ở đó rồi mới lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Cho nên ca dao Việt Nam có câu:

“Dù ai quyết chí tu hành

Có lên Yên Tử mới đành lòng tu”.

Tác phẩm Cư trần lạc đạo đã nói rõ tương quan giữa đạo và đời, giữa Thăng Long lầu vàng điện ngọc và Yên Tử yến thốt oanh ngâm:

Mình ngồi thành thị

Nết dùng sơn lâm

Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính

Nửa ngày rồi tự tại thân tâm

Tham ái nguồn dừng

Chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý

Thị phi tiếng lặng

Được dầu nghe yến thốt oanh ngâm.

Mình ngồi thành thị, nết dùng sơn lâm. Câu này ý nói ở cương vị đang làm Thái thượng hoàng, phải giải quyêt nhiều công việc vậy mà Ngài thấy giống như ở núi, không bị đắm nhiễm theo danh lợi thường tình.

Kế đến là muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính. Nửa ngày rồi tự tại thân tâm. Do Ngài sông với tâm Phật sáng suốt của mình cho nên các nghiệp thế gian không còn chi phối nữa, do đó mà thảnh thơi an nhàn tự tại. Nửa ngày làm Thái thượng hoàng, còn lại một buổi rảnh rang ngắm cảnh xem hoa mà vẫn tự tại giải thoát.

Tham ái nguồn dừng, tức là lòng tham ái đối với ngũ dục đã dừng rồi, thì chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý, không còn nhớ đến ngọc ngà châu báu gì nữa hết.

Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm, ở trong triều oanh yến nhiều lắm. Là tiếng của cung phi mỹ nữ ghen ghét ganh tị với nhau, nói xấu nói tốt chuyện của người khác… nhưng tiếng phải quấy không còn làm cho Ngài dao động hay vướng mắc gì nữa, vì nó lặng hết rồi.

Trong cuộc đời Trần Nhân Tông sau 14 năm làm vua, theo truyền thống của nhà Trần, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, rồi làm Thái thượng hoàng và đi tu, trở thành Tổ thứ nhất phái Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một phái Thiền để lại nét son vàng sáng chói đặc sắc trong lịch sử Việt Nam.

     “Ở đời vui đạo hãy tùy duyên

      Đói đến thì ăn mệt ngủ liền

      Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,

      Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”. (Bản dịch Hòa thượng Thanh Từ)

Với trí tuệ và đạo lực của một Thiền sư đắc đạo, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã thành công trong việc bảo vệ và gìn giữ đất nước, nhờ tinh thần đoàn kết toàn dân với phương châm không có gì quý hơn tự do. Ngoài ra đối với Phật pháp và dân tộc, Ngài đã thống nhất các hệ phái thiền trước đó mang tư tưởng nước ngoài và khai sáng ra dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử thuần túy đậm chất Việt, để phù hợp với tinh thần dân tộc Việt Nam.

Thành quả thống nhất đối với đất nước và đạo pháp dân tộc của Phật hoàng Trần Nhân Tông gợi cho chúng ta liên tưởng đến điểm tương đồng với Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay.

Chúng ta có thể nói rằng Phật giáo Việt Nam ngày nay đã kế thừa sự nghiệp Phật giáo đời trần là Phật hoàng Trần Nhân Tông trên 700 năm về trước, nghĩa là thể hiện nét son vàng sáng chói cho toàn thể người Việt Nam và do người Việt Nam lãnh đạo.

Tóm lại, Phật hoàng Trần Nhân Tông là tấm gương sáng ngời của một bậc minh quân lỗi lạc, về hai mặt tài năng và đức độ, từ bi và trí tuệ của một vị Thiền sư đắc đạo, Ngài đã lưu lại những trang sử vàng cho Phật giáo Việt Nam.

DUNG HỢP

Chúng tôi dung hợp ba pháp tu Phật, Tổ và Bồ-tát trên thành một đường lối tu cụ thể như sau:

Trước khi đi vào từng phương pháp, chúng tôi xin nhắc lại lời Phật dạy trong kinh Chuyển Pháp Luân, người tu theo đạo giác ngộ giải thoát, đầu tiên phải tránh xa hai cực đoan hưởng thụ lợi dưỡng và khổ hành ép xác. Đây là điều kiện tiên quyết, mọi hành giả dù tu theo tông phái nào cũng phải tránh xa hai cực đoan trên, thì mới có thể thành tựu đạo quả đó là điều thứ nhất.

Điều thứ hai cũng không kém phần quan trọng mà ai cũng phải biết, đức Phật chỉ rõ cho chúng ta khổ là một thực tại luôn đeo đẳng con người bởi sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, yêu thương xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không được như ý khổ, thân năm uẩn thịnh suy khổ và sầu bi, ưu phiền, khổ não bởi do nhiều nguyên nhân khác.

Đức Phật nêu ra nỗi khổ niềm đau của kiếp người để cho chúng ta phải nhận thức rõ ràng về Khổ Đế, kế đến Phật chỉ nguyên nhân vì sao chúng ta khổ! Khổ là do tham-sân-si-mạn-nghi-ác kiến, bởi do ta luyến ái tham đắm dục vọng cho rằng mình là ta, là của ta, nên từ đó luân hồi sinh tử nối tiếp nhau không có ngày thôi dứt.

Vậy muốn dứt khổ phải làm sao? Diệt đế tức là thể nhập Niết-bàn vô sanh chấm dứt luân hồi sinh tử khổ đau, theo kinh pháp Hoa là thể nhập tri kiến Phật, theo kinh Hoa Nghiêm thể nhập trí huệ Phật, còn  theo tinh thần của Phật hoàng Trần Nhân Tông thì “phản quan tự kỷ” tức quay lại chính mình để nhận ra ông chủ.

Muốn thể nhập Niết-bàn vô sanh thì phải thấu triệt tám phương pháp tâm linh mầu nhiệm đó là: Chánh kiến, chánh tư duy thuộc về trí tuệ. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc về giữ giới. Chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định thuộc về định lực.

Tám nguyên tắc hành động Bát Chánh Đạo không phải là một tiến trình sắp xếp theo thứ tự nhất định, như việc yếu tố này phải đứng trước yếu tố kia. Trên phương diện thiết lập để tu học, tám yếu tố này được chia ra làm ba nhóm rõ ràng:

-Nhóm giới luật được liên kết nhau bởi chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng. Người xuất gia hay tại gia đều phải gìn giữ giới luật tinh nghiêm, bởi giới giúp cho ta ngăn ngừa việc xấu ác. Giới như mặt đất bằng, mọi điều thiện từ đó sinh ra, giới như thầy thuốc giỏi, chữa được các loại bệnh, giới như ngọc minh châu, phá tan mọi si mê tối tăm, giới như thuyền bè, đưa người vượt qua biển khổ. Giới làm trang nghiêm và có khả năng phát triển định lực và trí tuệ đồng thời. Giới luật của Phật giáo giúp cho người tu hành chân chính, ngăn ngừa việc xấu ác và hay làm các việc thiện lành tốt đẹp bằng cách giữ tâm ý thanh tịnh.

-Nhóm định lực được kết hợp hài hòa bởi chánh tin tấn, chánh niệm và chánh định. Siêng năng tinh cần, nổ lực hành trì, nhiếp tâm buông xả, chánh niệm tỉnh giác trong từng phút giây không lơi là giải đãi thì thành tựu định lực kiên cố.

-Nhóm trí tuệ được chiêm nghiệm và tu tập bởi chánh kiến và chánh tư duy. Người tu hành có giới, có định lực nếu không có trí tuệ khai mở thì khó mà buông xả hết các tạp niệm vi tế. Muốn vậy chúng ta phải tư duy chiêm nghiệm quán chiếu thấy thân tâm hoàn cảnh hay ta, người, chúng sinh đều giả có, nhờ vậy mới thể nhập Niết-bàn hay sống với tâm Phật sáng suốt ngay nơi thân này.

Nói rộng ra là Bát Chánh Đạo tám con đường tâm linh mầu nhiệm, nói gọn lại là giới-định-tuệ đầy đủ. Do đó, trí tuệ là một phương tiện tu tập thiện xảo, hầu giúp mọi người thức tỉnh để mở mang tâm trí, và thấy biết đúng như thật.

Bát-chánh-đạo là tám con đường ngay thẳng, hay là tám phương pháp tâm linh mầu nhiệm, luôn giúp người tu hành chân chính đạt đến an lạc, hạnh phúc trong đời sống hằng ngày. Trong đạo Phật, bát-chánh-đạo được xem như phương pháp số một, giúp chúng ta biết cách dứt trừ phiền muộn, khổ đau để đạt đến an vui, tự tại, giải thoát.

Bây giờ chúng ta đi sâu vào để phân tích giới-định-tuệ đầy đủ. Cụ thể là năm giới cho người cư sĩ tại gia, nếu mình giết hại, trộm cướp, nói dối, tà dâm, uống rượu say sưa hay xử dụng ma túy. Chúng ta chỉ cần phạm một trong năm điều này thì chắc sẽ không được định, bởi vậy người tại gia nói tu sau khó quá, mình không giữ được năm giới trọn vẹn thì làm sao có định lực?

Đây là một thực tế mà ít ai tìm hiểu kỹ càng, nghe ai nói tu ba tháng sáu tháng thành Phật, có người ấn chứng thọ ký cho, ham quá chúng ta bỏ cha bỏ mẹ, bỏ vợ bỏ chồng, bỏ con bỏ cái để rồi cuối cùng rơi vào si mê tà kiến mà chẳng được gì.

Quý vị nên nhớ giới-định-tuệ đầy đủ mới thành tựu phật pháp, có giới, có định mà không có trí tuệ trở thành định si, nên rất sợ tiếp xúc làm việc giúp đỡ người khác, chỉ được lợi ích cho riêng mình. Có giới, có trí tuệ thì thông suốt hết mọi sự việc nhờ chiêm nghiệm, quán chiếu, soi sáng nhưng lại lăng xăng không được định tâm.

Thiền theo lời Phật dạy có hai phương pháp hỗ tương cho nhau là Thiền Chỉ và Thiền Quán. “Chỉ” là trụ tâm vào một chỗ như niệm Phật, niệm Bồ-tát, niệm hơi thở. “Quán” là dùng nhận thức để xem xét thân tâm, vạn vật nhằm biết rõ bản chất thật-hư của nó.

Thiền Chỉ với mục đích dừng tâm vọng niệm lăng xăng nhờ chú tâm vào một chỗ nên được định. Thiền Quán giúp hành giả phát sinh trí tuệ nên buông bỏ được phiền não tham-sân-si, nhưng nếu quán hoài thì lăng xăng, không an định. Do đó, khi tu Thiền chúng ta phải biết dùng Chỉ và Quán để dung hoà thân tâm. Khi thì ta dùng Chỉ, khi thì ta dùng Quán để điều hoà tâm vọng động.

Chỉ nhiều thì được định nhưng không có trí tuệ nên không thể buông xả tâm phải-quấy, đúng-sai, tốt-xấu, do đó cũng không thể thành tựu đạo pháp. Có trí tuệ nhiều thì tâm lăng xăng, không an định, do đó phải quay về Trung đạo để sống với tâm Phật sáng suốt của mình.

Khi hai pháp Chỉ và Quán đã được dung thông thì mỗi hành giả phải xả  để không trụ vào bên nào mà thể nhập Phật tính sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, sự vật như thế nào thấy rõ như thế đó nên thấy chỉ là thấy, thấy tức biết, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Thiền theo lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni có thứ lớp từ thấp đến cao, tuỳ theo căn cơ, trình độ của mỗi người mà ứng dụng tu theo dưới nhiều cấp độ khác nhau.

Đây là sự hiểu biết thông suốt toàn diện về mọi mặt từ thân, tâm và mọi hiện tượng sự vật, giúp ta thức tỉnh để vượt thoát sự ràng buộc ra khỏi cái thấy biết sai lầm, tham lam, ích kỷ, oán giận, thù hằn, ngu si, mê muội thuộc về chủ nghĩa cá nhân.

Người tu theo tông chỉ Phật, Tổ và Bồ-tát sẽ trì niệm hồng danh Bồ-tát. Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát theo điệu nhạc, âm điệu nhẹ nhàng để hành giả niệm theo, chúng ta nên nhớ miệng niệm tai lắng nghe, bước đầu chỉ làm một việc như thế. Phương pháp trì niệm Bồ-tát Quán Thế Âm dùng để thực tập ở các đạo tràng hoặc chùa.

Khi về nhà quý Phật tử sẽ ứng dụng hai cách: Nếu chúng ta cứ niệm Bồ-tát liên tục thì lâu ngày sẽ được nhất niệm tương ưng, nhưng nếu ta chỉ an trú trong niệm Bồ-tát hoài như vậy sẽ có định lực mà không có trí tuệ thấy biết đúng như thật, do đó vẫn còn phiền não tham-sân-si. Muốn dứt hẳn phiền não khổ đau chúng ta phải quán sát, soi sáng lại câu niệm Bồ-tát coi nó thật hay không? Khi ấy chúng ta sẽ thấy còn niệm là còn sinh tử luân hồi, nên hành giả trở về pháp tu trung đạo thể nhập tính nghe thường hằng mà thành tựu đạo pháp. Đó là phương pháp hành trì của Bồ-tát Quán Thế Âm “phản văn văn tự tính”, thế nên kinh Lăng Nghiêm nói nhĩ căn là viên thông hơn tất cả.

Để thấu triệt tinh thần tu học của Phật, Tổ và Bồ-tát, chúng ta khi quán sát suy nghiệm theo lời Phật dạy: Thấy các pháp thế gian này hư ảo giả có bởi sự vô vô thường, vô ngã, duyên sinh mà thành tựu Bát chánh đạo hay nói gọn lại là giới-định-tuệ đầy đủ mà thể nhập Niết-bàn vô sanh.

Chúng ta ứng dụng trì niệm Bồ-tát Quán Thế Âm bằng cách xoay lại tính nghe thường hằng của mình mà thành tựu đạo Vô thượng Chánh Đẳng Giác.

Và cuối cùng là quay lại chính mình theo tinh thần phản quan của Phật hoàng Trần Nhân Tông mà sống với Phật tính sáng suốt ngay nơi thân này. Chính vì vậy, chúng tôi soạn ra quyển sách này là chủ trương dung hợp tinh ba của Phật, Tổ và Bồ-tát, bằng cách vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn mọi người tu trong bộn bề công việc, tu trong đời sống gia đình và xã hội, với phương châm “tốt đạo đẹp đời”.

Đức Phật đã vô số kiếp hành Bồ-tát đạo mới thành tựu Phật pháp. Bồ-tát Quán Thế Âm lăng nghe tiếng kêu cứu khổ của chúng sinh mà đi vào đời để đem niềm vui đến cho mọi người và sẻ chia nỗi khổ niềm đau để làm vơi bớt bất hạnh. Phật hoàng Trần Nhân Tông khuyên mọi người gìn giữ năm giới tu mười điều lành, phá bỏ các tập tục mê tín, tập tục giết hại….

Chúng tôi cô đọng lại bằng những pháp tu như sau:

1-Trì niệm Bồ-tát Quán Thế Âm bằng cách xoay lại chính mình để nhận ra tính nghe thường hằng.

2-Thấy các pháp là hư dối không thật.

3-Thấy các pháp là Phật pháp.

Đây là ba phương tiện chúng tôi tạm lập ra từ thấp đến cao. Tùy theo khả năng của mỗi người mà biết cách áp dụng để việc tu hành của mình đạt được kết quả tốt đẹp như ý muốn.

TU THIỀN TRƯỚC NHẤT PHẢI TỰ TIN CHÍNH MÌNH

Người tu Thiền trước nhất phải quyết tâm tin mình sẽ thành Phật, tâm Phật thanh tịnh, sáng suốt nương nơi 6 căn của mỗi người là mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý. Nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, hình ảnh sự vật như thế nào thì biết rõ như thế mà không dính mắc, khi nghe chỉ là nghe, có tiếng nghe có tiếng, không tiếng nghe không tiếng, tiếng lớn tiếng nhỏ là âm thanh bên ngoài, tính nghe thì luôn thường hằng không biến đổi mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.

Chúng ta tin tâm mình là Phật, giống như chiếc gương sáng vì để lâu ngày bị bụi bám vào, muốn gương sáng trở lại phải chịu khó lau chùi, hết bụi tự nhiên gương sẽ sáng. Cũng vậy, chính tâm mình là Phật nhưng vì lâu ngày ta để bụi phiền não tham-sân-si bám vào nên tâm Phật không hiển lộ, đến khi chúng ta buông bỏ hết mọi vọng niệm thì tâm Phật hiện tiền mà hay soi sáng muôn loài vật.

Không tin tâm mình là Phật thì chúng ta sẽ không cố gắng chuyển hoá phiền não tham-sân-si để được giác ngộ, giải thoát ngay trong cõi đời này. Quả quyết tin tâm mình là Phật là ta đã thành tựu đức tin mãnh liệt, nhờ vậy khi tu Thiền dễ dàng buông xả sự tham đắm, dính mắc từ trước đến giờ.

Trong sự tu hành chúng ta phải khẳng định, tâm mình là Phật mới có thể tự giải thoát sống chết, không một đức Phật hoặc chư vị Bồ-tát nào có thể giải thoát thay thế cho chính mình được. Cuộc sống ngoài xã hội cũng vậy, mọi việc nên hư, thành bại, tốt xấu đều do chúng ta gầy dựng tạo thành. Chính ta là chủ nhân ông của bao điều hoạ phúc, mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau, thành Phật hay không là do sự quyết tâm của mỗi người.

Ai có đầy đủ đức tin mãnh liệt nơi chính mình thì sẽ không trốn tránh trách nhiệm về mọi hành vi của bản thân, không ỷ lại hay cầu cạnh, nhờ vã kẻ khác, không yếu đuối, hèn nhát trước mọi khó khăn. Chúng ta can đảm đối diện với cuộc sống để tìm cách vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời nhằm chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại, bằng trái tim hiểu biết.

TU THIỀN PHẢI CÓ LÒNG QUẢ CẢM

Nhờ tự tin chính mình chúng ta mới can đảm vượt qua mọi khó khăn, gian nan, thử thách, cương quyết quả cảm tiến lên, phấn đấu chiến thắng bọn quân ma phiền não làm trở ngại. Chúng ta biết rõ chính mình có khả năng thành Phật nên quyết chí tu hành cho đến khi thành tựu viên mãn mới thôi.

Đức tự tin và lòng quả cảm giúp ta mạnh dạn, gan dạ dấn thân đóng góp, phục vụ tất cả chúng sinh không biết mệt mỏi, nhàm chán để mình và người cùng được bình yên, hạnh phúc. Nếu chúng ta không tự tin chính mình và không có lòng quả cảm thì ta sẽ không bao giờ kiên trì, bền chí khi gặp khó khăn.

Nhờ tin tâm mình là Phật nên ta xem thường mọi nguy hiểm, sống đơn giản, đạm bạc để tu hành như vua Trần Nhân Tông. Vị vua Thiền Sư đã nhường ngôi lại cho con lên núi Yên Tử tu hành nơi đồi núi hiểm trở, khó khăn, thú dữ chực chờ. Trước những hiểm nguy như thế nhưng Phật hoàng Trần Nhân Tông vẫn ung dung, tự tại, không bất an, lo lắng, sợ hãi mà quyết chí tu hành. Thật là một tâm hồn quả cảm tràn trề! Nếu chúng ta ai cũng ứng dụng được tinh thần quả cảm này vào xã hội để dấn thân, đóng góp và phục vụ tốt cho mọi người, thì việc gì cũng có thể thành công tốt đẹp như ý muốn.

TU THIỀN PHẢI BỀN CHÍ SIÊNG NĂNG LÂU DÀI

Có lòng tự tin chính mình chúng ta mới cố gắng nỗ lực tiến tu để buông xả mọi tham đắm, dính mắc ở đời. Bất cứ làm một việc gì mà không tin mình làm được thì chắc chắn việc ấy sẽ bỏ dở nửa chừng, hoặc có làm cũng không tới đâu. Chúng ta tin chắc việc này mình làm được thì ngày đêm siêng năng, cần mẫn, không dám lơi là, giải đãi.

Tin chính mình giúp ta cố gắng, siêng năng, bền chí, kiên trì, không chán nản hay bỏ dở nửa chừng. Tin tâm mình là Phật giúp người tu Thiền tinh tấn, bền chí, nhẫn nại, cố gắng thực hành cho đến khi công thành quả mãn mới thôi. Tin tâm mình là Phật là đã có nhân thành Phật, chỉ cần cố gắng tu hành sẽ thành Phật quả. Từ nhân đến quả đều do sự siêng năng tu hành của bản thân, không phải ai khác có thể làm thế cho ta được dù đó là đức Phật.

Ở thế gian ai cũng tự tin chính mình thì chắc chắn mọi việc sẽ được thành công tốt đẹp. Tin tưởng mình có khả năng nên mới siêng năng, cố gắng trong mọi nhiệm vụ. Thế cho nên muốn làm việc được thành công viên mãn thì chúng ta trước tiên phải tự tin chính mình, có lòng quả cảm và bền chí, siêng năng, cần mẫn.

TU THIỀN TUỲ THUỘC VÀO VẬN MỆNH ĐẤT NƯỚC DÂN TỘC

Xã hội và tôn giáo luôn liên quan, ảnh hưởng mật thiết với nhau, tu Thiền nói riêng cũng vậy. Trong Phật giáo có quá nhiều pháp môn nhưng chính yếu vẫn là Thiền, tuy nhiên Thiền cũng có nhiều loại. Có hai phương pháp chính yếu khi tu Thiền là Thiền Chỉ và Thiền Quán, ngoài ra còn pháp Thiền Trực Chỉ, tức là đi thẳng vào nội tâm để buông xả.

Thiền Chỉ và Thiền Quán luôn dung thông, hỗ trợ cho nhau và phải có sự liên kết chặt chẽ mới có thể thành tựu mục đích sau cùng. Khi dân tộc không bị chiến tranh loạn lạc, có chủ quyền độc lập thì pháp môn tu nhà Phật hướng về tự lực hoàn toàn. Khi dân tộc mất chủ quyền, bị lệ thuộc thì pháp môn tu hướng về tha lực nhiều hơn, nhưng chính yếu vẫn là tự lực. Chúng ta thấy sự thịnh suy của dân tộc là sự thịnh suy của Thiền, một đất nước mất chủ quyền thì người dân sao có thể tin vào khả năng tu tập của chính mình nên dễ dàng đánh mất tự chủ mà tin vào tha lực bên ngoài.

Chính vì thế tu Thiền cũng chịu ảnh hưởng theo vận mệnh của đất nước. Tuy nhiên, nếu chúng ta đã tin sâu nhân quả thì dù trong hoàn cảnh nào ta cũng có thể tu Thiền, vì Thiền luôn song hành với đời sống của chúng ta. Như việc ăn uống, mặc quần áo, đi tiểu, đi đại hằng ngày nếu ta không biết Thiền thì sẽ tự đánh mất chính mình, vì những việc này ta phải tự giải quyết chứ người khác không thể thay thế được, ngoại trừ bệnh tật nằm một chỗ.

THIỀN RẤT THỰC TẾ TRONG ĐỜI SỐNG MỌI NGƯỜI

Chủ trương của Thiền là khai sáng trí tuệ, phục hưng lại con người tâm linh của bản thân mà ta đã lãng quên từ lâu vì bị phiền não tham-sân-si che lấp do chấp thân tâm này làm ngã. Chính nơi thân chúng ta đã có sẵn con người chân thật, đó là Phật tính sáng suốt nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý. Con người thật của mình không phải do Phật cho hay do một đấng thần linh, thượng đế nào tạo nên.

Chính tâm Phật là cái có sẵn nơi chúng ta, một phút giây vắng nó thân này sẽ ngừng hoạt động và chuyển sang đời khác. Ví như gió không có hình tướng cụ thể nhưng thấy lá cây động, thân người mát, ta mới cảm nhận có gió, lúc bình thường thì không. Cũng vậy, ngay nơi thân này có tâm Phật sáng suốt nhưng vì vô minh, phiền não che chướng mà chúng ta lãng quên, bây giờ ta chỉ cần thừa nhận mình có sẵn thì một đời an vui, giải thoát.

Một việc làm thực tế hơn nữa, người tu Thiền chỉ cần khéo biết cách áp dụng vào trong đời sống hằng ngày, từ khi mở mắt thức dậy, tắm rửa, đi đại, đi tiểu, ăn uống, làm việc, cho đến khi đi ngủ cũng đều Thiền được cả, không phải cứ vào chùa hay thâm sơn cùng cốc mới tu Thiền. Để thấy rõ tánh cách thực tế của Thiền, chúng ta cùng nghe Lục Tổ nói trong bài tụng “Vô Tướng”: 

Phật pháp ở thế gian

Chẳng lìa thế gian giác

Lìa thế kiếm bồ-đề

Giống như tìm sừng thỏ.

Bấy nhiêu đó cũng đủ cho ta thấy rõ tính cách thực tế của sự tu Thiền như thế nào rồi. Đạo và đời luôn gắn liền với nhau, nếu chúng ta muốn giải thoát thì phải tu ngay nơi trần gian này. Lông rùa và sừng thỏ là những vật xem như không có thực, người tu Thiền mà xa lánh thế gian để tìm cầu giải thoát cũng giống như kiếm lông rùa, sừng thỏ.

Tu Thiền chính yếu là chuyển hoá tâm phiền não tham-sân-si thành vô lượng trí tuệ từ bi để được giác ngộ, giải thoát. Hoa sen mọc tươi tốt và nở thơm ngát từ bùn nhơ nước đục, nên tu Thiền là ứng dụng ngay nơi cuộc sống trong bốn oai nghi đi-đứng-nằm-ngồi. Điều này chắc chắn ai cũng có thể làm được, tuỳ theo khả năng và sự quyết tâm tu tập của mỗi người.

TU THIỀN RẤT HỢP VỚI THUẬT DƯỠNG SINH VÀ RÈN LUYỆN THÂN THỂ

Người tu Thiền biết điều hòa thân thể, điều hòa hơi thở và nội tâm nên ít bệnh hoạn, đau yếu. Về thân thể người tu Thiền ăn uống có tiết độ, ngủ nghỉ có chừng mực, làm việc đúng thời khóa, cấm kỵ những việc trác táng, rượu chè, đam mê sắc dục quá đáng. Về hơi thở người tu Thiền biết điều hòa hơi thở dài và nhẹ. Hơi thở là chủ yếu của sức khỏe, là quyết định của mạng sống. Khi mệt thì thở hổn hển, khi khỏe thì thở nhẹ nhàng. Mạng sống chúng ta còn hay mất là do hơi thở quyết định, thở ra mà không thở vào thì thân này bại hoại, chuyển sang đời khác.

Ấy thế mà, đa số người đời sống không biết hơi thở mình như thế nào, dường như họ đã quên mất khi mình thở ra mà không thở vào là mạng sống chấm dứt. Về tâm tư con người cũng vậy, có những lo nghĩ bất thường hoặc tức giận, hoặc sợ sệt, hoặc lo lắng, phiền muộn, khổ đau, tất cả đều là nguyên nhân phát sinh bệnh hoạn.

Người tu Thiền khéo buông xả những tâm tư vọng động khiến nội tâm trong sáng, tĩnh lặng nên thân tâm an ổn, nhẹ nhàng. Buông xả mọi tâm niệm xáo động nơi mình thì hành giả được an nhiên, bình tĩnh trước mọi sóng gió cuộc đời. Những khi thân bị gió lạnh xâm nhập chỉ cần ngồi Thiền trong một giờ thì tan hết, bởi lẽ ngồi Thiền thì hơi nóng trong người xông lên nên khí lạnh tan biến. Con người do thân bất an nên sanh bệnh, tâm lo lắng, sợ hãi, phiền muộn nên cũng sanh bệnh. Người tu Thiền khéo điều hòa thân an ổn, tâm yên định nên phù hợp với thuật dưỡng sinh.

THIỀN ĐẠO PHẬT KHÁC VỚI CÁC LOẠI THIỀN NGOẠI ĐẠO

Để khỏi lầm lẫn ý nghĩa chống đối hay khinh rẻ, chúng ta nên định nghĩa chữ "ngoại đạo" cho rõ ràng. Nhà Phật định nghĩa rất rõ, ngoài tâm cầu Phật là ngoại đạo. Như thế, dù cho người xuất gia theo Phật mà chỉ một bề hướng ngoại cầu mong cũng gọi là ngoại đạo. Bất cứ một pháp tu nào chỉ trông cậy bên ngoài, tìm kiếm bên ngoài đều gọi là ngoại đạo, vì chủ trương của nhà Phật người tu phải quay lại chính mình và phải "minh tâm kiến tánh" mới thành Phật. Tâm tính đâu phải việc bên ngoài, nếu tìm bên ngoài là trái với tông chỉ nhà Phật nên gọi là ngoại đạo.

Chúng tôi liệt kê những lối tu Thiền theo ngoại đạo đang hiện hành ở Việt Nam như Thiền xuất hồn, Thiền chuyển luân xa, Thiền chuyển tinh hóa khí, chuyển khí hóa thần, Thiền thai tức, Thiền điện thiêng liêng, Thiền Du-già… Những lối tu Thiền này không ngoài hai tiêu chuẩn mầu nhiệm và sống lâu. Mầu nhiệm thuộc huyền bí, hấp dẫn những người hiếu kỳ. Sống lâu thuộc thân thể khỏe mạnh, hấp dẫn người thích sống dai. Hai tiêu chuẩn ấy trái hẳn với đạo Phật.

Đạo Phật chủ trương tu để mở mang trí tuệ, thấy được chân lý, không cần sự mầu nhiệm. Có trí tuệ liền thấy tất cả giả tướng ở thế gian đều là vô thường, dù cố dụng công bảo vệ, duy trì cách mấy rốt cuộc cũng hoại diệt. Cái giả mà cố giữ không phải si mê là gì? Thiền đạo Phật thấy tất cả pháp duyên hợp hư giả, thể tánh là không, nhận ra Phật tính sáng suốt ngay nơi thân này nên khác hẳn với pháp Thiền ngoại đạo.

Thiền đạo Phật nhằm mục đích giác ngộ, giải thoát và giúp nhiều người cùng được sống bình yên, an vui hạnh phúc nên đi theo con đường Bồ-tát, “tốt đạo đẹp đời” nhằm giúp đỡ tha nhân cho đến khi thành Phật viên mãn mới thôi.

TU THIỀN TRONG BỘN BỀ CÔNG VIỆC

Mỗi sáng thức dậy, chúng ta có thể hân hoan vui vẻ, trong lòng nở một nụ cười tươi tắn vì ta đã ý thức rằng một ngày mới được bắt đầu với 24 giờ sống trong tỉnh giác. Trước khi ngồi dậy sau giấc ngủ an lành, chúng ta có thể vẫn nằm yên trên giường, buông thẳng hai tay và hai chân một cách thoải mái để an hưởng một ngày mới tươi đẹp với hơi thở nhẹ nhàng. Thở vào ta cảm nhận giây phút bình yên trong lòng, thở ra ta bắt đầu cùng mọi người vui sống và làm việc.

Sau đó, chúng ta đi tiểu, đi đại để đưa hết cấu uế trong người ra và chỉ giữ lại những gì có lợi ích để nuôi dưỡng thân tâm được khỏe khoắn và trong sạch. Điều tối kỵ nhất là nín đi tiểu hoặc đi đại tiện quá lâu, sau này sẽ bị bệnh suy thận, bị trĩ, bị nóng gan. Khi đi tiểu, đi đại ta biết ta đang đưa ra những thứ cặn bã độc hại được tích tụ trong cơ thể, ngay khi đó ta cảm nhận được sự thoải mái, nhẹ nhàng.

Khi chúng ta rửa mặt, súc miệng, tắm rửa, chải đầu, thay quần áo, chúng ta cảm nhận sự tươi mát qua xúc chạm những gì trong hiện tại bằng sự nhận biết rõ ràng mà không tham đắm dính mắc. Chỉ khoảng thời gian ngắn trong vòng nửa tiếng đồng hồ, ta khéo an trú trong từng hành động có ý thức, bằng sự tỉnh giác thì sẽ cảm thấy thoải mái, nhẹ nhàng và giải thoát.

Cái thấy nghe hay biết đó là biết rõ mọi cử chỉ, hành động đem lại cho ta sự bình yên, hạnh phúc nhờ ta lúc nào cũng sống trong chánh niệm tỉnh giác. Sự tỉnh giác đó giúp ta làm chủ được những ý nghĩ, lời nói, hành động đang diễn ra ngay tại đây và bây giờ.

Tỉnh giác là như thế, khi thấy chỉ là thấy, khi nghe chỉ là nghe, ta thấy nghe hay biết trong sự định tĩnh sáng suốt, thường biết rõ ràng. Khi ta chánh niệm tỉnh giác là ta đã có mặt trong từng giây phút của sự sống, nhờ vậy mỗi giây phút của sự sống là sự bình yên, hạnh phúc. Cái hạnh phúc này là một tặng phẩm quý giá cho sự sống của chúng ta.

Đây là một việc làm rất đỗi bình thường, khi chúng ta biết tỉnh giác trong từng phút giây, chúng ta sẽ nhận diện và an trú những gì đang có trong hiện tại. Ta biết như vậy là ta đang hành thiền trong đi đứng nằm ngồi, đâu phải tìm cầu đâu xa. Tắm dưới vòi nước tươi mát, ta gội đầu, kỳ cọ, cảm nhận được dòng nước tươi mát trong sạch trong trạng thái an lạc, thoải mái, nhẹ nhàng.

Khi làm việc gì ta biết việc đó, đừng để mọi suy tư nghĩ tưởng kéo ta về quá khứ hay mơ ước, mong mỏi đến tương lai làm cho ta dính mắc vào những lo lắng, sợ hãi, buồn phiền, sầu khổ và giận hờn.

Rồi chúng ta đến trước bàn thờ Phật hay một thư phòng, đốt nén tâm hương hướng về mười phương Tam bảo, nguyện cầu Phật pháp luôn được trường tồn ở thế gian này, ai cũng đều được thấm nhuần Phật pháp để mọi người hết khổ, được vui.

Tùy theo khả năng và thời gian chúng ta có thể ngồi thiền 10 phút, 20 phút, 30 phút cho đến 1 giờ hoặc 2 giờ. Trong lúc ngồi thiền ai niệm Phật, niệm Bồ-tát, tùy theo khả năng của mình. Ai quán sát hơi thở thì cứ quán sát hơi thở, thở vào ta chuyển hóa phiền não tham-sân-si, thở ra ta cảm nhận được bình yên, hạnh phúc trong giờ phút hiện tại.

Ai có chiều sâu trong tu tập thì tỉnh giác trong từng phút giây bằng cách nhận diện từng vọng niệm mà không cần phải xua đuổi hay bám víu vào nó, ngay khi đó thì tâm Phật hiện tiền mà vẫn thường biết rõ ràng trong định tĩnh và sáng suốt.

Kế đến, chúng ta thực tập thiền lạy Phật hay Bồ-tát. Hai tay chấp ngay trước ngực rồi từ từ đưa lên trước mặt, ngang trán, hai chân đứng với tư thế hình chữ Bát. Hai tay từ từ đưa xuống cùng năm vóc toàn thân, úp hai bàn tay xuống khi cách mặt đất khoảng 40 cm, đầu cúi theo úp xuống sát đất khoảng giữa hai bàn tay, hai đầu gối chấm sát đất, hai gót chân nhón theo.

Rồi hai tay bật lên theo sự đàn hồi của nó giống như một chiếc lò xo, trở lại tư thế ban đầu là chấp tay trước ngực. Và cứ như thế ta thoải mái, nhẹ nhàng lạy theo trình tự lúc ban đầu một cách đều đặn. Trong lúc lạy như vậy ai tu pháp niệm Phật, niệm Bồ-tát thì cứ niệm Phật, niệm Bồ-tát. Ai tu pháp hơi thở thì cứ quán sát hơi thở và ai có chiều sâu trong tu tập thì tự biết tỉnh giác nhận diện từng vọng niệm đưa chúng trở về bản tâm chân thật.

Phương pháp lạy Phật, lạy Bồ-tát giúp cho ta tiết kiệm được năng lượng, sức khỏe, khỏi phải mất thời gian tập thể dục trong buổi sáng vì trong lúc lễ lạy ta đang thực tập phương pháp thể dục thẩm mỹ toàn diện về thân thể. Cách lễ lạy này không làm cho ta mệt nhọc mà càng lạy ta càng thêm sức dẻo dai, tinh thần minh mẫn sáng suốt.

Khi lễ lạy như vậy ta chỉ một lòng hướng tâm vào thể tánh sáng suốt, dùng sự định tĩnh giống như chiếc lò xo đàn hồi bật lên, bật xuống đều đặn, nhẹ nhàng giúp cho máu huyết lưu thông toàn thân. Ta sẽ cảm nhận sự khỏe khoắn, sảng khoái, an nhiên trong khi đang lễ lạy.

Nếu có dư thời gian ta sẽ thực tập thiền đi, hành giả nào niệm Phật thì cứ niệm Phật, ai niệm Bồ-tát thì cứ niệm Bồ-tát, ai niệm hơi thở thì cứ niệm hơi thở và ta chấp hai tay trước ngực vừa đi vừa niệm. Quý vị nên nhớ ta chỉ cần chú tâm vào câu niệm Phật, niệm Bồ-tát hay niệm hơi thở mà thôi, việc đi nhanh hay chậm không quan trọng. Chúng ta chỉ cần nhớ miệng niệm, tai lắng nghe rõ ràng.

Sau khi thực tập bước một đã hoàn chỉnh, đạt đến nhất niệm tương ưng trong lúc đi đứng nằm ngồi, kế đến chúng ta chuyển sang bước hai là miệng niệm tâm lắng nghe, và cuối cùng là tâm niệm tâm lắng nghe mà vẫn thường biết rõ ràng, nương nơi mắt thấy chỉ là thấy, nương nơi tai nghe chỉ là nghe, mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.

Hành giả quán sát hơi thở và tu pháp tỉnh giác thì không cần chấp hai tay trước ngực, chỉ vừa đi vừa quán sát hơi thở, thở vào ta xua tan bao phiền muộn khổ đau, thở ra ta an trú trong giờ phút hiện tại. Hành giả đã có chiều sâu thì nhìn vọng niệm giống như gió thoảng mây bay vì lúc nào cũng sống trong tỉnh giác, thường biết rõ ràng.

Chúng ta tập ngồi, tập lạy, tập đứng, tập đi, tập hoạt động trong vài ba ngày sẽ thấy an nhiên thoải mái liền tức khắc. Đây là một sự thật nhiệm mầu mà ai cũng có thể làm được. Chúng ta hãy tập sống sâu sắc và thảnh thơi như vậy trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày trong khi ăn uống, đi tiểu, đi đại và làm việc thì chỗ nào chẳng phải là thiền.

Chúng ta muốn được an nhiên, thảnh thơi như vậy thì tâm ý không được tiếc nuối quá khứ, không mơ ước viễn vông đến tương lai để chuyển hóa mọi phiền não, khổ đau mà an trú trong giây phút hiện tại. Giây phút hiện tại chính là giây phút giúp cho ta bình yên, hạnh phúc ngay nơi cuộc sống này.

Nói tóm lại, trong nhà chúng ta có bàn thờ Phật thì chúng ta có thể ngồi thiền trước bàn thờ Phật, nếu không có bàn thờ Phật để lạy thì ta chọn chỗ nào trống tùy theo không gian của gia đình.

Việc làm thức ăn và ăn sáng cũng là một loại thiền tập quan trọng không thể thiếu trong đời sống vì những việc này ta phải tự giải quyết. Khi chúng ta nấu nước sôi, pha trà, pha cà phê, nấu cháo, nấu hủ tiếu, chiên cơm nguội…, chúng ta làm việc nào biết việc đó theo thứ tự. Chánh niệm tỉnh giác trong làm việc sẽ giúp cho ta biết cách chuyển hóa, soi sáng lại chính mình với những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại.

Tỉnh giác là cốt tủy của thiền tập làm cho trái tim ta hiểu biết và thương yêu hơn. Khi nấu nước sôi pha trà, chúng ta chỉ biết mình đang pha trà, không nhớ nghĩ quá khứ, không mơ tưởng tương lai, tâm ý thức việc ta đang pha trà là ta đang sống trong tỉnh giác. Nhờ tỉnh giác trong từng phút giây giúp ta sống hiểu biết hơn, yêu thương hơn và vui sống bình an, hạnh phúc với tất cả mọi người. Ai cũng có năng lực tỉnh giác, chỉ cần chúng ta kiên trì thực tập trong đều đặn thì kết quả sẽ đạt được ngoài sức tưởng tượng.

Thời gian làm thức ăn và ăn sáng có thể sẽ làm cho mọi thành viên trong gia đình đều vui vẻ vì đó là kết quả của thiền tập. Chúng ta sẽ có thể sắp xếp buổi ăn sáng cho gia đình trong vui vẻ và thuận thảo. Khi ăn sáng chúng ta đừng đọc báo, đừng nghe tin tức, đừng xem ti vi. Chúng ta cùng mọi thành viên ngồi thẳng lên, nhìn thức ăn trên bàn, mỉm cười và cùng mời nhau thưởng thức hương vị đậm chất ngọt ngào của buổi sáng.

Trước khi ăn chúng ta cần trao đổi, dặn dò điều cần làm trong ngày trước thì chúng ta sẽ ăn trong tỉnh giác. Khi ăn ta chỉ biết mình đang ăn, mặn lạt, chua cay, ngon dở ta đều biết hết. Ăn xong ta rửa bát, dọn bàn và sẽ cảm nhận được một ngày mới tươi đẹp bên mái ấm gia đình.

Sau khi ăn sáng xong, mọi người tiếp tục với nhiệm vụ của mình. Ta chỉ cần nhận diện mặt mũi xưa nay của chính mình, khi làm việc gì ta chỉ biết việc đó, cứ như thế ta suy nghĩ, nói năng, hành động trong tỉnh giác. Như vậy, mỗi ngày chúng ta có mặt là một ngày chúng ta có thiền, có tỉnh, có giác, có biết mà vẫn an nhiên, tự tại. Cuộc sống như thế có gì làm cho ta phiền muộn, khổ đau.

Chúng ta đã biết rõ như vậy nhưng vẫn còn tập khí, tức là thói quen. Đây là những thói quen xấu được lặp đi, lặp lại nhiều lần nên nó sai sử ta chạy theo những vọng niệm nhớ nghĩ, tiếc nuối về quá khứ hay mơ tưởng viễn vông đến tương lai mà đánh mất chính mình trong hiện tại.

Chính ta mải dính mắc vào quá khứ hay lo lắng cho tương lai nên ta không đủ khả năng để nhận diện những sai lầm đã qua mà có thể sống an lạc, trong hiện tại. Chúng ta luôn nhớ về quá khứ mà tiếc nuối trong đau buồn rồi lại suy đoán, dự kiến, chuẩn bị, mơ ước về những hoài bão trong tương lai để đạt được hạnh phúc.

Khi mới bắt đầu thiền tập và đang đi vào thiền tập, chúng ta sẽ bị những thói quen lo lắng, sợ hãi về tương lai. Chính những lo lắng, bồn chồn ấy đã làm cho ta không an trú vững chải được trong hiện tại. Tuy nhiên, ta phải kiên trì và bền bỉ để đến một lúc nào đó, ta sẽ làm chủ được những thói quen ấy mà không bị nó lôi đi như trước kia nữa.

Có rất nhiều người luôn bị quá khứ ám ảnh với sự tiếc thương, hờn oán, hối hận và khổ đau. Chính khi ấy họ không thể sống bình yên trong giây phút hiện tại. Nếu trong quá khứ chúng ta từng bị bạc đãi, từng bị khổ đau vì chuyện tình ái, ta phải biết cách thực tập thiền để quá khứ kia tự động chìm lắng vào dĩ dãng.

Chúng ta biết cách thiền tập trong đi đứng nằm ngồi, trong lúc ăn uống, làm việc hoặc nghỉ ngơi là ta luôn luôn trở về với thực tại nhiệm mầu. Khi chúng ta không tiếc nuối hay nhớ nghĩ về quá khứ, không bị tương lai làm xáo động tâm tư là ta đang được tự do và an lạc trong giờ phút hiện tại.

Tóm lại, từ khi mở mắt thức dậy rồi đi tiểu, đi đại, chải răng, tắm gội, mặc quần áo, ăn uống, đi bộ, làm việc, lái xe…, chúng ta hãy để hết tâm ý vào việc chúng ta đang làm như là một thực tại trong cuộc sống. Ta chỉ tìm an lạc và hạnh phúc ngay trong những phút giây ấy chớ không phải mong mỏi, tìm cầu đâu xa. Đó là một thực tế ít ai ngờ đến.

Nhiều người cứ nghĩ rằng tu là phải vô chùa, ở hang sâu rừng thẳm, không ngờ tu chỉ là đơn giản như vậy. Sự đơn giản ấy là một phép nhiệm mầu và chính ta làm nên phép nhiệm mầu ấy, không ai có thể ban phước giáng họa cho ta.

 NHẬN RA TÂM PHẬT BẰNG TÍNH THẤY TÍNH NGHE

Cuộc sống của chúng ta không gì quý bằng mạng sống, thân này được coi trọng nhất trên nhân gian. Bởi vì tất cả tiền bạc của cải sự nghiệp, danh vọng, sắc đẹp, ăn ngon mặc ấm, đều để tô điểm cho mạng sống này. Cái khổ nhất của con người là sợ chết, không ai muốn mình phải ra đi dù không giúp gì cho người khác.

Chính vì thế, chúng ta hay cầu khẩn, van xin, miễn là được kéo dài thêm  mạng sống thì con người sẵn sàng đánh đổi tất cả. Nhưng cuối cùng rồi con người đành phải khuất phục bởi con quỷ vô thường. Thế nên con người ta hay luyện trường sinh bất tử, nhưng có ai sống đời được đâu?

Ở đây, chúng tôi xin giới thiệu quí vị phương thuốc nhiệm mầu, đó là nhận ra tâm Phật sáng suốt của mình ngay nơi thân này. Người giác ngộ tâm Phật là nhận ra được cái "bất tử". Vì thế tâm Phật được ví như là hòn ngọc như ý, muốn gì được nấy.

Tâm Phật sáng suốt hiện hữu ngay nơi thân này mà chúng ta không chịu thừa nhận. Chúng ta cứ đam mê say đắm chạy theo những vọng tưởng hư dối mà đánh mất chính mình.

Thật sự, tâm Phật có sẵn nơi con người xác thịt của chúng ta, nó hiển bày ngay nơi sáu căn là mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý mà ta không chịu thừa nhận nên đành sống trong đau khổ lầm mê. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân là phần vật chất do đất nước gió lửa hòa hợp lại mà thành, nó là vật vô tri  nên không phải là tâm Phật. Tâm suy tư nghĩ tưởng là vọng dối cũng không phải là tính giác chân thật.

Tâm Phật sáng suốt là thường biết rõ ràng mà không phân biệt ta người, đúng sai, tốt xấu mà vẫn biết. Chúng ta lấy hai căn mắt và tai là hai cái dễ nhận biết nhất. Như mắt chúng ta thấy mọi hình ảnh sự vật, cảnh có thể đổi thay trăm ngàn thứ, nhưng cái thấy không bao giờ đổi thay.

Khi nhìn thấy mọi hình ảnh sự vật, mắt thấy chỉ là thấy mà không lầm lẫn, khi không có cảnh, mắt thấy không cảnh vật. Hình ảnh sự vật khi có khi không, cái thấy lúc nào cũng hiện tiền. Ví như bóng đèn với điện, gắn bóng đèn thì điện cháy sáng, mở bóng đèn ra thì điện tắt. Như vậy, cái thấy không thuộc về cảnh, không tại con mắt, nó chính là tâm Phật sáng suốt. Vì có thấy là có biết, biết tức là tâm, tâm tức Phật.

Cái nghe cũng thế, có tiếng thì nghe tiếng, không tiếng nghe biết không tiếng. Tiếng thì lúc có lúc không, cái nghe lúc nào cũng thường hằng không biến đổi. Tiếng động vang lên một lúc nhiều thứ, nhưng chúng ta vẫn nghe rõ ràng tiếng nào ra tiếng ấy. Dù là tiếng có đến trăm ngàn thứ âm thanh khác nhau, nhưng tính nghe thường hằng vẫn là một. Khi lỗ tai điếc, cái nghe sẽ phát mạnh ở con mắt, thấy dáng miệng người khác nói, có thể đoán biết người đó nói cái gì.

Thế nên tâm Phật sáng suốt nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng mọi hình ảnh sự vật, thấy tức biết mà không xen kẻ ý thức vào, tính nghe vẫn hiện hữu ngay nơi thân này, khi nghe chỉ là nghe mà không khởi nghĩ phân biệt. Đó là ta biết tu trong thấy, nghe hằng ngày vì hai căn này là đại biểu quan trọng, luôn theo ta trong suốt cuộc hành trình để làm kim chỉ nam trên bước đường tu học.

Quyển sách này ra đời để giúp cho mọi người nắm vững phương pháp hành trì thông qua lời Phật, Tổ và Bồ-tát, có cùng một con đường sáng như trăm sông đổ về biển cả. Bản thân chúng tôi đã từng vấp ngã nặng nề trong cuộc sống, do thấy biết sai lầm không phân biệt được tà chánh, đúng sai nên đã làm hại không biết bao người. Nay nhờ gặp Phật pháp chân chính đã giúp cho tôi vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà làm mới lại chính mình, thông qua lời Phật dạy. Chúng tôi nguyện hồi hướng công đức cho tất cả mọi người khi đọc cuốn sách này, sau khi có chiêm nghiệm suy xét, đều được thành tựu Phật pháp như ý muốn.

Theo: ĐPNN


© 2008 -2024  Phật Học Online | Homepage