Phật Học Online

Làm chủ bản thân
Thích Đạt Ma Phổ Giác

ĐÔI LỜI TÂM SỰ 

 Tất cả chúng ta có mặt trên thế gian này đều ước mơ sống một cuộc đời an vui, hạnh phúc, chẳng ai muốn đời mình bị bất hạnh, khổ đau. Thế cho nên, khi chúng ta gặp nhau, mình đều chúc nhau tràn đầy niềm an vui, hạnh phúc. 

 Khổ đau trong đời sống con người vốn vô cùng tận, bởi do thấy biết sai lầm, nên dấy khởi tham đắm, hưởng thụ quá mức, dẫn đến phiền não tham-sân-si, làm khổ cho mình và người. Vậy nguyên nhân của khổ đau từ đâu ra? Thực tế, nó phát xuất từ ngay nơi thân tâm mình.

 Làm chủ bản thân, tức là biết cách làm chủ sáu căn mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, là cơ sở tiếp xúc với sáu thấy-nghe-hay-biết, sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp, để sinh ra sáu thức, rồi khởi tâm phân biệt, yêu ghét, và từ đó tạo ra muôn ngàn phước đức hay tội lỗi, được sinh ra làm người, có đầy đủ sáu căn và được gặp Phật pháp để tu học là đã có duyên lành từ nhiều đời.

 Tất cả quí Phật tử đang ngồi đây đều có phước báu lớn, vừa được thân người, lại có đầy đủ sáu căn, vừa được gặp Phật pháp. Dẫu được thân người, nhưng chúng ta nếu thiếu một căn là đã bất hạnh rồi, bởi vì sao? Người bị điếc thì làm sao có cơ hội nghe thuyết pháp mà biết được điều hay lẽ phải để áp dụng tu hành trong đời sống hằng ngày.

 Con người có đầy đủ sáu căn được ví như người có gia tài, tiền bạc vậy. Nếu chúng ta biết sử dụng hợp lý thì đem lại an vui, hạnh phúc cho mình và người, nếu sử dụng sai thì chuốc lấy quả bất hạnh khổ đau cho người và vật. Chúng ta thử xem xét lại coi, nếu quí Phật tử có tiền dư chút đỉnh đem ra làm từ thiện, giúp đỡ người nghèo khổ, thiếu thốn, khó khăn, thì có đem lại niềm vui cho mình và người hay không? Còn nếu có tiền mà đem hút thuốc, uống rượu, hoặc hút chích xì ke, ma tuý, ăn chơi sa đoạ, thì có phải làm khổ đau cho mình và người hay không?

 Do vậy, biết cách làm chủ bản thân là người sống có nhân cách đạo đức, luôn giúp ích cho nhân loại và không làm tổn hại một ai, nhờ vậy lúc nào cũng sống bình yên, hạnh phúc.

 Làm chủ bản thân có nghĩa là ta luôn chánh niệm, tỉnh giác trong khi tiếp xúc với thấy-nghe-hay biết, ta luôn giữ vững tâm thanh tịnh, sáng suốt, không cho nó chạy theo sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp. Làm chủ người khác coi vậy mà còn dễ hơn làm chủ chính mình; bởi vậy, kinh Pháp Cú có nói, “đánh thắng vạn quân không bằng tự thắng chính mình”. Làm chủ bản thân coi vậy mà khó lắm đó, chớ không phải dễ đâu, phải không các bạn?

 Nhiều người có tiền của và tấm lòng nhưng không bao giờ biết quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Những kẻ giàu có tiền rừng bạc biển, nhưng không hề biết bỏ ra một xu để cứu giúp người bất hạnh, nghèo khó. Họ đang đói tình thương, họ đang cần bàn tay rộng mở, vậy mà ta vẫn ngoảnh mặt làm ngơ, giàu có như vậy thì để làm gì?

 Lòng tham của con người như giếng sâu không đáy, nó luôn bám víu chúng ta, ai sống trên đời cũng đều phải tham muốn, tham ít hay nhiều tùy theo thói quen huân tập của mỗi người. Tham muốn càng nhiều thì khổ đau càng thêm lừng lẫy, bởi tham không được thì sinh ra oán giận, thù hằn, tìm cách bức hại lẫn nhau. Ngược lại với khổ đau là hạnh phúc. Nhiều người cho rằng, thỏa mãn được cảm xúc của sáu giác quan là hạnh phúc.

 Hạnh phúc là điều mình mơ ước và mong muốn, tất cả chúng ta ai cũng muốn được như vậy, nhưng mình có được hoàn toàn hạnh phúc hay không? Tại sao ta ước mơ được bình yên, hạnh phúc và thường chúc tụng cho nhau hạnh phúc, nhưng vẫn không được hạnh phúc thật sự? Tại sao có những điều trớ trêu như vậy.

 Những kẻ ăn chơi đàng điếm, trụy lạc, làm băng hoại xã hội, buôn bán, chuyển vận xì ke, ma túy, làm tiêu ma thế hệ trẻ. Những kẻ lười biếng, ăn bám xã hội, sống trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác. Những kẻ khích bác, phỉ báng người đạo hạnh, khinh chê Tam Bảo, đố kỵ người dấn thân, đóng góp, đi vào đời để giúp đỡ, an ủi và sẻ chia. Họ cho rằng, như vậy là hạnh phúc vì thoả mãn được sự mong muốn và khát vọng của họ.

 Thông thường, mọi người thế gian có điều gì không được hài lòng, như ý, sẽ sinh ra giận dỗi mà nổi tam bành lục tặc. Vậy lục tặc là gì? Chữ lục là sáu, chữ tặc là kẻ cướp, kẻ giặc. Trong kinh, Phật luôn luôn dạy, “mỗi chúng ta đều có đủ sáu căn. Sáu căn đó nếu mê lầm sẽ bị sáu trần lôi cuốn thì sáu căn biến thành sáu tên giặc. Nhưng nếu ta khéo tu, khéo gỡ, không cho dính mắc, đắm nhiễm sáu trần, thì sáu căn liền biến thành diệu dụng không thể nghĩ bàn.

 Như vậy, mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý của chúng ta là sáu tên giặc có thể phá nhà, cướp của, hoặc cũng là sáu thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn. Nếu không biết tu sẽ để dính mắc, nhiễm ô; còn khi biết tu thì biết cách chuyển hoá, không cho nó làm tổn hại đến người và vật.

 Đạo Phật là đạo giác ngộ, là đạo của sự tỉnh thức, là đạo của tình thương, đạo của con người, vì con người mà đem lại hạnh phúc cho nhau. Toàn bộ lời Phật dạy nhằm chuyển hóa và đánh thức con người sớm được giác ngộ, giải thoát. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sinh. Cho nên, muốn được bình yên, hạnh phúc, ta phải biết cách làm chủ bản thân qua mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý.

 Hạnh phúc theo cách nhìn của nhà Phật là sống, ăn uống, ngủ nghỉ, sinh hoạt, làm việc, thấy, nghe, hay biết, đóng góp, phục vụ mọi người, mà vẫn không tham đắm, dính mắc như người đời. Thế gian gọi là hạnh phúc khi sáu giác quan được tiếp xúc với với sáu trần cảnh, cảm thấy vừa lòng, như ý. Sáu giác quan là mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, sáu trần là sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp. 

 Ai làm người cũng đều có mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, nó là sáu giác quan chủ lực của con người. Nếu ta biết sử dụng theo chiều hướng thượng, thì đóng góp lợi ích thiết thực cho mình và người khác, Ngược lại sẽ làm khổ đau cho nhân loại. 

 Trong kinh Phật dạy, thuở quá khứ có một đàn vượn sống theo bầy đàn đi ăn. Vượn chúa ra lệnh cho tất cả vượn con phải đi chung đàn, không được tách rời khỏi hàng ngũ sẽ dễ bị đám thợ săn bẫy bắt. Trong đó, có một vượn con vì ham ăn, nên bèn tách ra khỏi đàn, đi riêng lẻ một mình kiếm ăn. Đi được một hồi, thấy miếng mồi thơm ngon quá, nó liền dùng tay phải để chụp lấy, không ngờ đây là bẫy của người thợ săn đã gài chất nhựa xung quanh, nên nó bị dính một tay. Bởi dính tay này nên nó vội vàng lấy tay kia gỡ ra, nên đã bị dính cả hai tay. Kế đến, nó lấy chân sau gỡ và cũng bị dính, còn lại một chân, nó cố bươi để thoát thân, nhưng chất nhựa làm nó dính luôn cả hai tay lẫn hai chân.

 Vượn thấy hai tay, hai chân đã bị dính, nên cố gắng lấy đuôi ngoe ngoe, mong cứu gỡ, nào ngờ càng dính thêm. Không còn cách nào khác, nó đành lấy cái miệng quặp để gỡ ra, nên bị dính luôn hết tất cả. Hai tay, hai chân, đuôi, miệng, cả sáu thứ đều bị dính, hết cục cựa, quậy quọ gì hết. Cuối cùng, vì chút mòi ngon mà con vượn bị dính sáu chỗ, nằm rên la, rơi vào bế tắc, khổ đau, đành chờ chịu chết. Chú thợ săn khoái chí đến bắt vượn ta, bỏ vô giỏ, quảy về để chuẩn bị làm thịt, xơi tái.

 Đức Phật mượn hình ảnh thí dụ này để nói với người tu hành như chúng ta, phải biết nương thầy lành, bạn tốt để học đạo hiền Thánh, không nên tách rời đại chúng quá sớm khi mình chưa đủ đạo lực.

 Cuộc sống ở thế gian này ai mà không ham muốn được hưởng thụ năm món dục lạc, sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngọt và thân xúc chạm êm ái là nhu cầu cần thiết mà ai cũng muốn tìm kiếm, nhằm thỏa mãn sự ưa thích hưởng thụ trong say mê, đắm đuối.

 Cũng như chú vượn ngu si, vì quá tham ăn nên mới tìm cách tách bầy sớm, hy vọng có nhiều miếng mồi ngon, vì tham miếng ngon mà bị dính vào bẫy nhựa, khi đã bị dính rồi thì càng xoay xở, tìm cách thoát thân, thì lại càng bị dính chặt nhiều hơn. Vì thiếu kinh nghiệm, không biết đâu là mồi người ta bẫy, nên gặp gì lượm nấy mới bị dính tay, dính chân, cho đến năm căn không còn giãy giụa được nữa.

 Đức Phật dụ cho miếng mồi ngon là sáu trần sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp. Một tay bị dính rồi thì cả sáu bộ phận sẽ bị dính theo hết. Khi sáu căn dính với sáu trần rồi thì người thợ săn xách đi đâu cũng phải chịu.

 Chúng ta tu nếu khôn ngoan thì như con vượn đi theo đàn, có người bảo hộ. Vượn con không dính bẫy nên được tự do, tự tại, dù ăn uống có thiếu một chút cũng không sao; còn muốn ăn ngon, thưởng thức cao lương mỹ vị, nên tìm cách đi riêng đàn, thì dễ bị mắc bẫy.

 Như vậy, sáu căn dính với sáu trần, tức là chúng ta bị tâm ma lôi kéo, dẫn đi. Nó biểu chúng ta làm gì thì chúng ta đều phải nghe theo, làm theo, không chạy đi đâu được hết.

 Hằng ngày, chúng ta mắt đối với hình ảnh-sắc tướng, tai đối với âm thanh, mũi đối với mùi thơm-hôi, miệng đối vị ưa thích-ghét bỏ, thân xúc chạm với nóng-lạnh, ý đối với pháp trần không bị dính kẹt, đó là chúng ta an nhiên, tự tại, giải thoát. Nếu còn dính kẹt thì chúng ta bị bất hạnh khổ đau, trầm luân trong vòng luân hồi sinh tử. Như vậy, ta muốn tự tại, giải thoát là tâm không dính nhiễm với sáu trần.

 Chúng ta vừa nghe câu chuyện con vượn tách đàn kiếm ăn, hình ảnh con vượn bị dính nhựa nên mất tự do và chờ chết, nếu không dính thì được tự do, đó là ta biết cách làm chủ bản thân. Ngược lại, ta còn dính mắc là sáu đứa giặc sẽ đưa ta vào chỗ mờ mịt, tối tăm. Chư Tăng, Ni tu đừng để cho sáu căn dính với sáu trần, thì chúng ta được an lạc, tự tại, giải thoát, còn bị dính nhiễm sáu trần thì mình mất hết tự do, tự tại. Đó là gốc của sự tu hành cho hàng xuất gia; chỉ khác một bên, không biết tu để cho đắm trước, dính nhiễm, còn một bên biết tu gỡ bỏ, không cho dính mắc, đắm nhiễm; như mắt chúng ta thấy vật gì đẹp, liền trầm trồ khen ngợi, rồi sinh tâm ưa thích, muốn chiếm hữu về cho riêng mình, đó gọi là dính nhiễm vào hình sắc.

 Như vậy, con mắt khi chạy theo hình ảnh, sắc đẹp, liền bám víu vào đó, gọi là một đứa giặc; vì dính nhiễm với sắc trần, nên nó phá hoại công đức tu hành của ta, làm ta chao đảo, bất an, không được tự do, tự tại; do đó, gọi nó là giặc, là kẻ cướp. Ai trong chúng ta tu mà thấy người đẹp, đồ vật đẹp, cảnh đẹp, liền chú ý, khen ngợi, thích thú, chính là bị anh tham lam chất chứa, dẫn đi rồi.

 Kế đến là lỗ tai. Khi ta nghe ai khen, thì lỗ mũi hỉnh lên, trông thấy phát ghét. Nghe lời khen như vậy thì trong lòng chúng ta vui tươi, mừng rỡ, hả hê. Khi bị ai đó chê thì chúng ta phiền muộn, đau khổ, đó là anh giận hờn dẫn ta đi vào cảnh giới A Tu La; bởi vui mừng là háo danh, thích thú, phiền não, là bệnh hoạn, khổ đau. Cho nên, nó cướp mất công đức tu hành của mình từ bấy lâu nay mà ta không hay biết.

 Lỗ mũi cũng vậy. Khi ta đi qua những chỗ có hương thơm, có mùi ngọt ngào, dễ chịu, thì ta bám víu, ưa thích, còn qua những chỗ có mùi hôi thối thì mình ghét bỏ. Như vậy, lỗ mũi khi chạy theo trần cảnh là đã phá hoại công đức tu hành của mình, đó là đứa giặc thứ ba.

 Giờ ta nói đến lưỡi. Khi ăn món ngon, chúng ta thấy thích thú, luyến tiếc, muốn ăn hoài. Khi ăn món dở, không khoái khẩu, thì mình sinh tâm bực bội, khó chịu. Thích món ngon hợp khẩu vị mà không được ăn, ghét món dở mà bị ăn hoài thì sinh ra bực bội, tức tối, khó chịu. Vậy cái lưỡi thích ngon ngọt, chán cái dở là đứa giặc thứ tư.

 Thứ năm là thân xúc chạm. Xúc chạm những gì êm ái, nhẹ nhàng thì ta có cảm giác thích thú, đắm đuối, say mê, muốn giữ mãi, chẳng muốn rời xa. Khi ta xúc chạm những gì quá nóng, quá lạnh, hoặc thô nhám, khó chịu, thì mình sinh tâm ghét bỏ, chẳng muốn ưa gần. Những xúc chạm đó làm chúng ta thích thú, say mê hoặc làm mình khó chịu, chán ghét, nên gọi nó là đứa giặc thứ năm phá hoại cuộc đời của ta.

 Đứa thứ sáu là ý. Khi ý tiếp xúc với pháp trần, có nghĩa là chúng ta nhớ lại hình ảnh mắt thấy, tai nghe, mình nhớ lại hình ảnh người làm mình đau khổ, thì thấy bực bội, tức tối, muốn tìm cách trả thù, tạo ra oan gia trái chủ, gây nhân quả xấu về sau. Khi ta nhớ lại hình ảnh người yêu thương trìu mến, thì liền sinh tâm dễ chịu, luyến ái, nhớ nhung, và mong muốn được gặp người đó. Đó là đứa giặc thứ sáu đang phá hoại công đức tu hành của chúng ta, hàng xuất gia phải nên biết mà tìm cách chuyển hoá chúng không cho nó làm nhiễu loạn tâm ta.

 Chúng ta tu hành, mong được giác ngộ, giải thoát sinh tử khổ đau, thi hãy nên thường xuyên xem xét, điều phục từ mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, không cho nó chạy theo trần cảnh. Người Phật tử chân chính phải khôn ngoan sáng suốt, đừng nuôi sáu đứa giặc phá phách này, thì công đức tu hành của mình ngày càng được thăng tiến. Như vậy, chúng ta tu là phải làm sao đừng để cho sáu căn dính mắc, nhiễm đắm với sáu trần. Đó là chúng ta biết cách điều phục chính mình, nên cuối cùng được an vui, giải thoát.

 Mắt thấy tất cả mọi hình ảnh, sự vật đẹp hay xấu. Tai nghe được âm thanh ngọt ngào, êm dịu, hay chát chúa. Mũi ngửi được mùi hương thơm hay hôi. Lưỡi nếm được vị ngon hay dở. Thân xúc chạm nóng lạnh hay êm ấm. Rồi từ đó, ý bám víu vào đó, sinh tâm ưa thích, được thì cảm thấy hạnh phúc, không được thì cảm thấy khổ đau. Những cái ưa thích của mắt-tai-mũi-lưỡi-thân được toại nguyện là hạnh phúc phải không các bạn?

 Giữ gìn trang nghiêm, không làm điều xằng bậy, hại người vật là thân đẹp đẽ, tướng nhu hòa. Ăn ở hiền hòa, biết kính trên nhường dưới, sống thủy chung một vợ một chồng là nết đẹp. Thấy người hoạn nạn, hoặc vấp ngã mà tìm cách nâng đỡ, đó là thái độ và cử chỉ đẹp của người đạo đức. Phụng dưỡng, cung kính, chăm sóc cha mẹ già, giúp đỡ, sẻ chia với người cô độc, nghèo khổ, biết nương tựa, học hỏi, tôn quý các bậc hiền Thánh, cúng dường chư Tăng Ni, đó là biết mở rộng tấm lòng.

 Thấy người lâm nguy, sợ hãi trong cơn khủng hoảng mà nói lời an ủi, sẻ chia, đó là ta biết nói lời bao dung, độ lượng. Trong tâm lúc nào cũng hướng đến điều hay lẽ phải, đó là ý đẹp. Thấy người u tối, mê mờ không hiểu biết chân chính mà tìm cách khai mở trí tuệ, chỉ dạy tận tình đạo lý nhân quả, tin sâu chính mình, phá vỡ si mê vô minh, hướng dẫn mọi người sống đời an vui giải thoát, và sẵn sàng chia vui sớt khổ với tinh thần vô ngã vị tha, đó là chân hạnh phúc.

 Đôi lời tâm sự chân thành, mong được kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống bằng trái tim hiểu biết qua đề tài “làm chủ bản thân”.

Nhà Pháp Lạc Thường Chiếu
Kính ghi
Phong Trần Cuồng Nhân

 LÀM CHỦ CĂN MẮT

 Ngày xưa, có một ông vua và hoàng hậu lớn tuổi mới sinh được một nàng công chúa, nên hết mực cưng yêu, chiều chuộng quá đáng. Vì quá cưng yêu, chiều chuộng, nên công chúa muốn gì được nấy, rất nhỏng nhẻo, khó chịu, hay có tính giận lẫy, hờn mát.

 Một hôm, trời mưa to, nước chảy xuống hồ, tạo thành những bong bóng nước trôi nổi lềnh bềnh, ánh nắng mặt trời chiếu rọi qua bong bóng nước trông óng ánh, lấp lánh, tạo nên vẻ đẹp mờ ảo, tuyệt vời. Công chúa nhìn thấy bong bóng nước óng ánh, lấp lánh, đẹp quá, nên thích thú, mới ước ao rằng “giá mà ta có được một xâu chuỗi bằng bong bóng nước đó để đeo thì tuyệt đẹp vô cùng”.

 Suy nghĩ xong, cô giả bộ vô phòng nằm, trùm chăn từ sáng đến chiều, chẳng thiết gì đến ăn uống. Nhà vua và hoàng hậu hay tin, vô cùng lo lắng và hoang mang, không biết con gái cưng của họ hiện đang bị bệnh gì. Nhà vua vội kêu quan ngự y đến khám bệnh gấp cho cô, nhưng cô không chịu mà vẫn nằm trùm mền kín mít. Hoàng hậu biết ý con gái, nên bằng đủ mọi cách ra chiều năn nỉ, cuối cùng công chúa nói “con đâu có bệnh. Nếu ngay bây giờ có được xâu chuỗi bằng bong bóng nước đeo thì con sẽ vui tươi, hạnh phúc liền, nếu không có xâu chuỗi đó, chắc con sẽ không còn sống trên cõi đời này nữa”.

 Nhà vua nghe qua rất bàng hoàng và hoảng hốt, nếu công chúa chết đi thì nhà vua sẽ đau đớn và khổ sở vô cùng, vì nàng là đứa con cưng duy nhất. Nhà vua tức tốc ra lệnh cho tất cả bá quan văn võ tìm người xâu bong bóng nước thành chuỗi ngay tức khắc cho công chúa đeo, ai xâu được bong bóng nước sẽ được ban thưởng hậu hĩnh.

 Lệnh vua đã ban hành, không ai được trái lệnh. Chiếu chỉ vừa được ban ra, một ông già tới xin nhận lãnh trách nhiệm thiêng liêng và cao cả đó, bởi việc này là việc trọng đại, có một không hai từ trước đến nay. Vua mừng quá, liền đưa ông tới chỗ của công chúa.

 Lúc bấy giờ, cô công chúa vẫn còn nằm im thin thít, chẳng nói chẳng rằng. Nhà vua giới thiệu ông già với công chúa-con gái cưng của mình, “đây là người xâu chuỗi bong bóng nước cho con, ông có biệt tài xâu chuỗi rất đẹp, nỗi tiếng từ xưa đến nay, cha sẽ nhờ ông ấy xâu cho con một xâu chuỗi như con mong muốn, vậy con hãy ngồi dậy đi”.

 Công chúa nghe nói vậy mừng quá, liền ngồi dậy chào ông già. Ông già chậm rãi nói, “tôi là người chuyên làm nghề xâu bong bóng nước trên 60 năm, bây giờ công chúa hãy ăn uống lại bình thường đi, sáng mai tôi sẽ xâu cho công chúa một xâu chuỗi bong bóng nước tuyệt đẹp như ý muốn của cô”.

 Công chúa nghe ông già nói như vậy nên vui tươi, phấn khởi, ăn uống trở lại bình thường. Sáng hôm sau, công chúa, nhà vua, hoàng hậu và ông già xâu chuỗi, cùng tất cả thần dân thiên hạ ra trước thềm. Trên mặt hồ vẫn còn những hạt bong bóng nước nổi trôi lóng lánh. Mọi người chăm chú nhìn bong bóng nước trôi, xem ông già này có bùa phép gì mà xâu được những bong bóng nước ấy.

 Ông già bèn than thở rằng, “tôi chuyên nghề xâu bong bóng nước làm chuỗi, nhưng rất tiếc, bây giờ tôi đã già rồi, nên hai mắt bị mờ, sờ sệt, nắm bắt e thấy không được rõ ràng như xưa. Vậy phiền công chúa hãy lựa cái bong bóng nào thật đẹp vừa ý cô thì đưa tôi, tôi sẽ xâu cho”.

 Công chúa nghe ông già nói vậy mừng quá, nên hai giọt lệ lăn tròn trên má, chờ giọt nước rơi xuống, bong bóng nước nổi lên, cô ta liền đưa tay vớt, nhưng tay cô vừa chạm vào bong bóng nước thì nó bể tan ngay. Cô ta vớt từ sáng tới trưa, vớt hoài mà không được cái nào cả. Chán nản và mệt mỏi, công chúa xoay qua nói với nhà vua, “dạ thưa cha, bây giờ con không còn thèm xâu chuỗi bong bóng nước nữa, vì con có muốn mà cũng không được”. Nhà vua gật đầu rồi nói, “này con gái cưng, cha sẽ xâu cho con một chuỗi ngọc quý, đáng giá trăm ngàn lượng vàng”.

 Qua câu chuyện ngụ ngôn trên, chúng ta có được một bài học quý giá về cuộc đời, về sự thật của hạnh phúc hay khổ đau, bắt nguồn từ đâu ra. Bong bóng nước là dụ cho hạnh phúc tạm bợ của con người ở thế gian này. Nhìn từ đàng xa, chúng ta thấy nó đẹp óng ánh, lóng lánh lắm, nhưng vừa nắm bắt được là nó tan mất, vì bản chất của nó là vô thường. Thế cho nên, người tìm hạnh phúc trong ngũ dục như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều, suốt cả cuộc đời không bao giờ được thoả mãn, trọn vẹn, vừa mới tìm được chút ít hạnh phút thì nó đã mất tiêu, cứ như thế từ ngày này qua tháng nọ mà không có ngày thôi dứt.

 Công chúa là dụ cho tất cả mọi người chúng ta. Cả cuộc đời ai cũng muốn mình được an vui, hạnh phúc, nhưng rốt cuộc ta chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Việc tìm cầu hạnh phúc mỏng manh và tạm bợ làm sao, vì bản chất của nó là vô thường. Ngoài trừ chư Phật và các vị đại Bồ tát, không ai dám tự hào rằng mình là người được hưởng hạnh phúc trọn vẹn và đầy đủ.

 Hạnh phúc là cái mà chúng ta mơ ước và mong muốn, nhưng vừa chạm tới là nó tiêu tan mất, giống như bong bóng nước, vừa đụng đến là nó bể tan. Hạnh phúc trần gian là như thế đó, cái mà chúng ta đang mơ ước, trông chờ là vô thường, biến thiên, thay đổi không thật lâu dài. 

 Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần được thỏa mãn thì ta cho là hạnh phúc. Ở đây, chúng tôi chỉ nói riêng về con mắt mà cô công chúa đang thấy. Với mắt, ta thấy tất cả mọi hình ảnh, sự vật, rồi khởi lòng tham ái, ưa thích, hoặc không được hài lòng, vừa ý thì ghét bỏ. Với tai, ta nghe tất cả mọi âm thanh lớn nhỏ, êm dịu, nhẹ nhàng hay chát chúa, khó nghe, rồi ta khởi lòng ưa thích hoặc chán nản. Với mũi, ta chạy theo mùi thơm hôi của nó do ngửi biết, mà khởi lòng ham muốn hoặc bực dọc. Với lưỡi, ta hay nếm vị, rồi khởi lòng ưa thích, thỏa mãn, hoặc khó chịu, bực bội. Thân xúc chạm lạnh nóng, đau nhức, êm ấm, khoái lạc, rồi chấp trước vào đó mà sinh ưa thích và ghét bỏ.

 Cho đến các ý tưởng không ngừng suy nghĩ, mong muốn, ưa hay ghét, làm chúng ta luôn bận bịu tính kế, bày mưu, tìm lời tranh cãi, đấu tranh hơn thua, phải quấy, tốt xấu, đúng sai, phần lớn cũng chỉ là khen mình, chê người mà thôi.

 Nói chung, mắt-tai-mũi-lưỡi-thân cộng với ý thức, làm chúng ta biết khởi tâm phân biệt ưa hay ghét, nếu hợp với sở thích thì cảm nhận hạnh phúc, ngược lại làm mình bất an, đau khổ. Tham muốn mà không được cũng khổ, được mà không đúng như ý muốn cũng khổ, nhẹ thì cảm thấy ray rức, khó chịu, nặng thì đưa đến cãi vã, tranh chấp, nói lời hằn học, khó nghe, rồi cuối cùng không làm chủ bản thân mà dẫn đến giết hại, gây ra oán giận, thù hằn không có ngày thôi dứt.

 Tất cả ta đều gọi chung là sáu tên giặc nguy hiểm, đã và đang đưa đẩy chúng ta lanh quanh, lẫn quẫn trong vòng luân hồi sinh tử của ưa thích và ghét bỏ, vì được thì ta ưa, không được thì ta ghét. Do ta mong cầu hạnh phúc quá đáng mà không biết gieo trồng phước đức, không biết gieo nhân tốt- gặt quả tốt, gieo nhân xấu- gặt quả xấu, nên chúng ta cứ như thế, vì tâm ưa ghét mà tạo ra ác nghiệp.

 Trở lại vấn đề, cô công chúa là đại diện cho mọi người, cô thấy bong bóng nước đẹp long lanh, mờ ảo, nên con mắt thấy thích thú, rồi sinh tâm muốn chiếm hữu, nhưng không biết làm sao lấy, do đó sinh ra phiền muộn, khổ đau mà giận lẫy, hờn dỗi.

 Như có ba cô gái cùng đi chợ để mua vải về may, cô Hai thì thấy vải trắng là đẹp, cô Ba thấy vải xanh là đẹp, cô Tư thấy vải tím là đẹp, cứ như thế cô nào cũng muốn chọn màu vải mình ưa thích, nên từ đó dẫn đến tranh cãi, bất đồng quan điểm với nhau mà sinh ra thù hằn, ghét bỏ.

 Đức Phật dạy rằng, mỗi người chúng ta có sáu căn, tức là sáu bộ phận cảm nhận, thấy nghe, hay biết là (mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý). Sáu căn này tiếp xúc với sáu trần, tức là sáu loại kích thích từ bên ngoài (sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp), sáu căn tiếp nhận sáu trần tạo ra ưa thích hay ghét bỏ, gọi là sáu thức.

 Ở đây, chúng tôi sẽ nêu ra những ví dụ do không làm chủ được sáu căn, nên đã gây ra những tai hại như thế nào, rồi quí Phật tử lấy đó làm một bài học đạo lý, để rút ra những kinh nghiệm thực tiễn, làm hành trang trên bước đường tu học.

 Sắc là tất cả mọi hình ảnh, sự vật, những gì có hình tướng đều gọi chung là sắc, tức từ con người cho đến muôn loài vật. Đầu tiên là mắt thấy hình sắc, rồi cho là đẹp mà chạy theo, rồi bám víu vào đó, tham muốn cho bằng được. 

 Khi mắt thấy hình ảnh đẹp, chúng ta liền trầm trồ khen ngợi, rồi sanh tâm ưa thích, muốn nắm giữ về cho riêng mình. Đó gọi là dính mắc, là nhiễm ô. Như vậy, con mắt không sử dụng đúng chức năng của nó, ta tạm thời gọi là một đứa giặc. Vì mắt dính nhiễm với tất cả mọi hình ảnh, sự vật, nên nó phá hoại công đức lành của mình, do đó ta gọi nó là giặc, là kẻ cướp. Quý Phật tử tu mà thấy người đẹp, đồ vật đẹp, hoa đẹp, liền chú ý, khen ngợi, rồi bám víu vào đó, chính là bị kẻ giặc dẫn đi rồi.

 Điều kiện thứ nhất là biết mà cố phạm vì thói quen, tập khí nhiều đời. Chúng ta dẫu biết là có hại nhưng vẫn thích nhìn ngắm, ví dụ như ai cũng biết cảnh đánh nhau bạo lực, máu đổ đầu rơi là không nên xem, vậy mà khi mở ti vi ra coi, mình toàn lựa phim đánh giết nhau xem, ông bà cha mẹ bị giết chết thì con cháu trả thù, cứ như thế từ đời này qua tháng nọ, hỏi sao thế giới này cứ chiến tranh liên miên, không có ngày thôi dứt được vì niệm ân oán, thù hằn, đã nạp vào kho tàng thức của chúng ta.

 Người Phật tử chân chính biết tránh nhân xấu ác đưa vào tàng thức nhiều không tốt, nên ta không xem phim ảnh bạo lực, đồi trụy, vì ai cũng biết đó là xấu; nhưng thế gian này vẫn có nhiều người bỏ thời gian ra để coi. Đó là vì ta không biết làm chủ được căn mắt, để nó nhìn ngắm đủ thứ, cuối cùng làm cái thấy bị vẫn đục.

 Mức thứ hai là vì tâm phân biệt mà ta dính mắc, đắm nhiễm, bám chấp vào đó. Khi nhìn thấy một vật, ta cho là đẹp, sanh tâm ham thích, rồi bằng mọi giá tìm cách chiếm đoạt về cho riêng mình, bởi vậy người ta mới trộm cướp, lường gạt của người. Trong khi đó, bản chất của cái đẹp xấu vốn do sự phân biệt của con người mà sinh ra.

 Tuỳ theo thời gian mà quan niệm về xấu đẹp khác nhau. Thời xa xưa, mấy bà mấy cô cho rằng, nhuộm răng đen là đẹp. Ngày nay, mình lại cho rằng, răng trắng như ngọc trai mới là đẹp. Đối với người này là đẹp, với người kia là xấu, đẹp xấu là do sự phân biệt của mình, vậy mà ta cứ mãi chạy theo, để rồi rơi vào cái khổ thứ năm là mong muốn mà không được như ý nên khổ. Con thiêu thân cũng vậy, thấy đèn sáng là lao vô để chịu chết, vì bị nhiễm hình sắc. 

 Trong kinh Phật dạy, “này các tỳ kheo và các thiện nam, tín nữ, có nhiều người thích đi xem các đồ cổ xưa, các danh lam thắng tích, miểu ông, miểu bà, thích xem ngọc ngà châu báu và các loài vật quý hiếm, thường hay đến tham kiến thầy tà, bạn ác. Đây không phải là những chỗ để ta đến tham quan và chiêm ngưỡng, vì sự thấy này mang tính cách hạ liệt, phàm phu, làm cho cái thấy của ta bị dính nhiễm vào trần cảnh, không có lợi ích gì cho việc học hỏi, tu tập, để đạt đến an lạc, giải thoát, chỉ khi nào quý vị đến tham kiến Như Lai Thế Tôn, các vị Thánh Tăng, những vị có đầy đủ giới đức xứng đáng cho ta nương tựa, học hỏi, tu tập, để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thàn an vui, hạnh phúc. Đó là nhu cầu cần thiết, là cái thấy vô thượng, giúp cho mọi người từ địa vị phàm phu tiến lên bậc hiền Thánh mà vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Chúng ta hãy cố gắng học tập và duy trì cái thấy vô thượng này”.

 Đức Phật của chúng ta vì thương tưởng mọi người với tâm từ bi rộng lớn, nên Ngài đã chỉ cho ta biết cách làm chủ bản thân qua cái thấy biết hiện hữu nơi mắt. Trong thân thể của ta, hai căn mắt và tai luôn liên hệ mật thiết với nhau, ta dính mắc vào hình ảnh, âm thanh, sắc tướng hay không, là do hai căn này.

 Người Phật tử chân chính muốn đi theo con đường từ bi và trí tuệ của Như Lai Thế Tôn, trước tiên cần phải điều phục thân, tâm bằng thân-miệng-ý, khi tiếp xúc với hình ảnh, sắc tướng, sự vật bên ngoài. Nếu ta cứ để cho mắt khi thấy sắc mà cảm nhận đẹp xấu, rồi sinh tâm ưa thích hoặc ghét bỏ, thì cái thấy đó là của phàm phu tục tử, không phải cái thấy của các bậc hiền Thánh.

 Vậy mà con người bây giờ, tuy rằng có phát tâm tu học theo lời dạy của Thế Tôn, nhưng vẫn còn ham đi du lịch đó đây để ngắm cảnh, xem hoa, và đôi khi còn tham kiến thầy tà, bạn ác, cầu xin ban phước, giáng họa, cúng sao giải hạn. Nhất là đời sống con người ngày càng văn minh tiến bộ, các tiện nghi vật chất lẫy lừng, chùa to Phật lớn, các danh lam thắng cảnh đồ sộ, nguy nga với nhiều công trình kiến trúc hiện đại, làm cho con người phải dán mắt vào đó, gây ảnh hưởng đến sự học hỏi, tu tập, an lạc, giải thoát của người Phật tử, và nhất là hàng xuất gia.

 Nếu ta cứ để cái thấy của mình luôn dính mắc vào các hoàn cảnh hiện tại, thấy đẹp thì thích thú, bám víu vào đó, thấy không vừa mắt thì sinh tâm ghét bỏ, chán chường, rồi tự mình tạo ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ vì không vừa lòng, như ý. Đi du lịch đó đây, ngắm cảnh xem hoa, càng làm cho ta thêm lãng phí thời gian và tiêu tốn tiền bạc một cách vô ích, đều quan trọng là làm cho con mắt của mình bị trói buộc vào các hình ảnh, sắc tướng mà tâm ưa thích.

 Chính vì những tai hại của nó, nên Phật luôn khuyên nhủ chúng ta phải khôn ngoan sáng suốt chọn lựa, tránh xa những cái thấy bị dính nhiễm, ràng buộc mà khó bề tu tập, nhằm chuyển hóa tự thân. Bước thứ hai là không nên tham kiến thầy tà, bạn ác để học hỏi, hay cầu xin một điều gì đó, vì sẽ làm cho ta càng ngày càng đi vào con đường mê tín, dị đoan, không làm chủ bản thân, rồi cuối cùng bị dòng đời cuốn trôi.

 Thay gì ngắm cảnh, xem hoa để thỏa mãn nhu cầu con mắt, ta hãy nhín chút thời giờ vàng ngọc, cùng chút đỉnh tiền bạc, để đem đến giúp cho trẻ mồ côi, người tàn tật, kẻ bất hạnh không người nuôi dưỡng. Họ đang đói tình thương, họ đang cần những bàn tay rộng mở, để được an ủi, sẻ chia, họ đang khao khát từng phút, từng giây để trông chờ những tấm lòng nhân ái bằng tình người trong cuộc sống.

 Phật dạy, “thế gian này từ con người cho đến muôn loài vật đều phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống. Ai dù có tài giỏi đến đâu vẫn không thể sống một mình”.

 Với cái nhìn duyên khởi, ta sẽ cảm nhận được tình người trong cuộc sống bằng trái tim hiểu biết, qua tinh thần trách nhiệm, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Ta không làm ruộng nhưng vẫn có cơm ăn, không giết tằm dệt vải nhưng vẫn có quần áo để mặc, và mọi thứ, mọi cái đều phải như vậy. Cái nhìn tương quan theo lời Phật dạy sẽ giúp ta biết đến đạo lý “uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây”.

 Phật giáo Việt Nam và đạo thờ ông bà tổ tiên đã thể hiện tinh thần tương thân, tương trợ bằng tình người trong cuộc sống. Ta không thể ngoãnh mặt làm ngơ để mình tự an hưởng bình yên, hạnh phúc, mà phải có trách nhiệm yêu thương, dìu dắt nhau đi đến tận cội nguồn của an lạc, giải thoát. Biết ơn và đền ơn chỉ có trong những người biết mở rộng tấm lòng nhân ái, không thấy ai là kẻ thù, chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi, do đó sẵn sàng an ủi, sẻ chia.

 Làm chủ bản thân để hướng cuộc đời cùng vui hưởng an lạc, hạnh phúc. Bồ tát Quán Thế Âm là một trong những vị tiêu biểu cho công hạnh lợi tha không biết mệt mỏi, nhàm chán. Ngài chỉ mong mỏi một điều duy nhất là, làm sao cho tất cả chúng sinh đều được thoát khổ mà an vui, hạnh phúc trọn vẹn.

 Vì thương tưởng chúng sinh như con đẻ, nên Ngài lúc nào cũng lắng nghe tâm tư của mọi người một cách bình đẳng, để có cơ hội giúp đỡ, an ủi, sẻ chia và nâng đỡ. Bồ Tát sẵn sàng đem niềm vui, tình thương yêu chân thật chan rải khắp mọi nơi, mong chúng sinh được lợi ích ngay trong giờ phút hiện tại.

 Để sự học hỏi, tu tập đạt được mục đích tối hậu, người Phật tử chân chính hãy thường xuyên chiêm nghiệm lời Phật dạy qua sự giáo hóa của chư Tăng Ni, nhất là các bậc hiền Thánh, hay những vị tu hành có giới đức. Sự thân cận thưa hỏi như vậy qua cái thấy vô thượng giúp ta ngày thêm tiến gần đến các bậc hiền Thánh. Ta cần phải biết, mình phải thấy, tham kiến như thế nào cho đúng chánh pháp, cuối cùng để cho cái thấy được thấy biết đúng như thật. Tu như vậy, ta mới trả được công lao của thầy tổ, đàn na tín thí, cha mẹ, gia đình, người thân, và đất nước quốc gia.

 Kinh Lăng Nghiêm có đoạn: Phật ở trong đại chúng, đưa tay lên, nắm lại, xòe ra, rồi mới hỏi ngài A Nan, “nay ông thấy cái gì?”

 Ngài thưa, “con thấy bàn tay trăm báu của Như Lai xòe nắm”.

 Phật bảo A Nan, “ông thấy cái tay của ta xòe nắm, là tay ta có xòe nắm, hay là cái thấy của ta có xòe, có nắm?”

 Ngài thưa, “tay Thế Tôn xòe nắm. Con thấy tay Như Lai tự xòe nắm, chẳng phải tánh thấy của con có xòe nắm”.

 Phật hỏi tiếp, “vậy cái nào động, cái nào tịnh?”

 Ngài thưa, “tay Phật động, tánh thấy của con còn không có tịnh, huống hồ là động”.

 Phật khen, “lành thay A Nan, ông nói đúng đó”.

 Qua đoạn kinh trên, Phật dạy cho chúng tỳ kheo khi xưa là nhằm ý chỉ cho ta biết cách làm chủ bản thân qua tánh thấy nương nơi mắt. Hình ảnh, sắc tướng, mọi sự vật bên ngoài là ngoại cảnh, chúng không tự ý thức. Do con mắt chúng ta, cộng với ý thức, mà biết phân biệt ta người, đẹp xấu.

 Sắc tướng, hình ảnh dao động, nhưng cái thấy của ta thì nhất như, thấy chỉ là thấy, thấy rõ ràng một cách không lầm lẫn. Tu như vậy mới xứng đáng bậc thoát trần thượng sĩ, làm cho thân tâm sáng suốt, thanh tịnh, lặng lẽ, mà hằng chiếu soi mọi sự vật, không bị mọi vật làm ngăn ngại.

 Rồi một lúc khác, vua Ba Tư Nặc đến tham vấn yếu chỉ tu hành.

 Phật hỏi, “này đại vương, khi còn nhỏ mới khoảng ba bốn tuổi, vua thấy sông Hằng. Đến nay, vua gần sáu mươi tuổi, vậy cái thấy đó có khác hay không?”

 Vua thưa, “cái thấy sông Hằng lúc ba tuổi và cho đến bây giờ không khác”.

 Phật bảo, “ông còn nhỏ, da dẻ hồng hào, bây giờ lớn tuổi da nhăn, tóc bạc. Hiện thời, da mặt nhăn hơn lúc còn trẻ, vậy cái thấy của vua bây giờ có trẻ, có già hay không?”

 Vua thưa, “bạch Thế Tôn, cái thấy của con không có già trẻ”.

 Phật bảo, “mặt vua tuy nhăn, nhưng tánh thấy của ông chưa từng nhăn. Cái gì nhăn thì biến đổi, sinh diệt theo thời gian, nên chịu sự chi phối của vô thường mà trôi lăn trong luân hồi sinh tử.

 Thân này do nhân duyên hòa hợp lại mà thành, vì có tướng nên vô thường biến đổi. Khi còn trẻ, da dẻ chúng ta hồng hào, tươi nhuận, đến khi già lớn, tóc bạc điểm sương, da mặt nhăn, nên chúng ta thấy có già, có trẻ.

 Còn tánh thấy nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, mà không khởi tâm phân biệt. Cái thấy này khi đối diện với hình ảnh, sắc tướng, nó như thế nào thì thấy như thế đó. Người vật qua lại dao động trong cảnh ồn ào, náo nhiệt, nhưng tánh thấy chúng ta không có tịnh huống hồ là động. Nếu ta thấy biết như thế thì không bị sắc trần làm dao động, cho nên an nhiên, tự tại giải thoát. Ai sống được như vậy, tức làm chủ căn mắt một cách trọn vẹn. Một căn đã dung thông thì sáu căn cũng lại như vậy, không bị hình ảnh, sắc tướng, thơm hôi, hương vị, xúc chạm, làm ngăn ngại.

LÀM CHỦ CĂN TAI

 Trong truyền thống Phật giáo Á Đông, hình tượng đức Di Lặc là một vị Bồ Tát ăn mặc xuề xoà, ngồi phệt dưới đất, mập mạp, bụng phệ, gương mặt phúc hậu, sống đời đơn giản, bằng những hình ảnh biểu trưng qua ý nghĩa tự tại, an lạc và giải thoát. Đặc biệt Bồ Tát Di Lặc có tấm lòng nhân ái, nên miệng cười thật rộng, cười hả hê, cười hết mình, nhìn thẳng người đối diện như muốn trao gửi hết niềm yêu thương trọn vẹn cho người ấy bằng tất cả trái tim hiểu biết. 

 Lỗ tai chúng ta thích nghe lời khen, lời nịnh hót, lời tâng bốc và không chịu bị ai chê bai, chỉ trích, nhất là trước mặt mọi người. Khi nghe lời khen, trong lòng chúng ta cảm thấy phấn khởi, vui mừng, bị dèm pha, chê bai thì mình sinh phiền muộn, khổ đau, đó là đứa giặc thứ hai. Khi ta vui mừng, thích thú là háo danh, khi phiền não là bệnh hoạn, nó cướp mất đi công đức lành của chúng ta.

 Điểm này khác với vẻ mặt trang nghiêm, nụ cười nhẹ nhàng, thanh thoát và đôi mắt trầm tư của chư Phật hay các vị Bồ Tát khác. Lại nữa, có những hình tượng, chúng ta thấy sáu đứa trẻ đeo bám trên thân ngài, đứa móc mắt, đứa bóp mũi, đứa rờ miệng, đứa nhéo tai, đứa gãi rún, đứa leo lên đầu, mà ngài vẫn bình thản, an nhiên, tự tại, không hề có chút tâm tư buồn khổ nào.

 Nhìn bằng tâm thanh tịnh, sáng suốt, chúng ta sẽ hiểu, tôn tượng Bồ Tát Di Lặc là biểu trưng cho những con người đã thật sự bình yên, hạnh phúc, dấn thân đi vào đời để hóa độ tất cả chúng sinh, vẫn thấy nghe, hay biết mà không bị dòng đời cuốn trôi làm ô nhiễm.

 Sáu đứa trẻ nghịch ngợm trên thân Bồ Tát Di Lặc tượng trưng cho "sáu đứa giặc" chuyên hành hung, cướp phá, đánh mắng gây phiền lụy, khổ đau cho người không biết tu theo lời Phật dạy. Vì chúng ta một mặt muốn cầu giác ngộ, giải thoát, một mặt mình lại gây tạo phiền não, khổ đau. Ta thật mâu thuẫn và si mê, nên bị sáu tên giặc này làm ngăn chặn sự tiến tu đạt đến tự tại, giải thoát.

 Mỗi đứa bé soi lỗ tai, móc lỗ mũi của Ngài, mà Bồ Tát vẫn cười vui vẻ, không tỏ thái độ bực dọc, hờn dỗi, không cảm thấy buồn bã, hay dính mắc một điều gì. Hình ảnh đó luôn nhắc nhở hàng Phật tử chúng ta hãy ý thức việc tu hành của chính mình qua biểu tượng an lạc, tự tại của đức Phật Di Lặc trong cuộc đời, ngay nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, chớ có tìm cầu đâu xa.

 Và cũng không một ai có quyền ban phước, giáng họa, mà chính ta là thượng đế tối cao, chính ta quyết định cuộc đời mình bằng những ý nghĩ, lời nói, rồi hành động qua sáu giác quan mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý mà được thành tựu an lạc, giải thoát ngay tại đây và bây giờ. Bồ Tát Di Lặc sẽ ra đời khi thế gian này không còn ai biết đến điều hay lẽ phải nữa, để hóa độ tất cả chúng sinh.

 Còn chúng ta thì sao? Nếu lỡ ai đó tự nhiên móc lỗ tai của mình thì chuyện gì sẽ xảy ra? Nếu ai móc lỗ tai của mình thì ta cũng nói nặng nhẹ hay chửi bới, nếu không đánh đá, đánh đập, thì cũng la làng lên để mọi người đều biết, có phải vậy không?

 Tương tự như thế, cho đến các căn khác cũng bị dao động mạnh mẽ, tùy theo thói quen huân tập nhiều hay ít của mỗi người. Như vậy, đối với sáu căn của chúng ta, khi có ai động tới thì mình không chịu được, nên phải nổi tam bành lục tặc, làm ảnh hưởng lớn đến người khác. Chỗ không chịu nổi đó làm cho ta bị chướng ngại trên đường tu, nên không được an lạc, giải thoát.

 Sáu đứa bé đó theo danh từ chuyên môn gọi là lục tặc, tức là sáu đứa cướp của, phá nhà. Nó phá phách ngang tàng, chẳng biết nể sợ một ai. Nhưng thật tế, nó có phá mình hay không? Nếu ta bị móc lỗ tai mà mình cảm thấy đã ngứa thêm thì không bị chướng ngại gì.

 Hiện tại, chúng ta có thể nói gần như một 100% đều bị chướng ngại bởi những lời nói bên ngoài, bởi những lời khen, tiếng chê. Những lời nói chát chúa, hằn học, chửi mắng, dèm pha, nguyền rủa, tất cả những thứ đó tới lỗ tai mình mà ta coi như gió thổi mây bay thì có gì làm cho ta hư hại không?

 Nếu ta thấy đó là lời nói oán giận, thù hằn, lời nói chất chứa thêm hận thù, mỉa mai, sâu độc, hiểm ác, thì lúc đó mình có bình tĩnh được không? Tùy theo sự tu tập của mình mà ta phát sinh bực bội, tức tối nhiều hay ít, vì những lời nói khó nghe như vậy.

 Khi nghe những lời nói như thế, ta phải thương người đó nhiều hơn, vì tâm họ đã bị vô minh che lấp, họ đang bị những tâm niệm đen tối dằn xé trong lòng; còn khi nghe nó mà mình chỉ biết, tất cả mọi âm thanh đều thường sinh diệt theo thời gian, thì mình có thể an nhiên tự tại.

 Vì vậy, người tu chúng ta cần phải biết rõ gốc rễ của bất hạnh, khổ đau là do dính mắc, chạy theo sáu trần là sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp. Tai ta nghe những tiếng khen chê, được mất, hơn thua, phải quấy, hoặc những lời ngọt ngào, êm ái, nhẹ nhàng, mình chỉ nghe như gió thoảng mây bay vì biết rằng lời nói không thật.

 Chính bản thân mình do bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp nên chúng không thật có, huống chi là tiếng nói bên ngoài. Tâm ta không động, đó là mình đã thắng đứa bé móc lỗ tai của mình rồi. 

 Chúng ta thấy mọi người thờ Bồ Tát Di Lặc với vẻ mập mạp, cười toe toét, cười rạng rỡ, cười khoan thai, cười hả hê. Có chỗ khác cũng thờ hình tượng như vậy mà có sáu đứa nhỏ, đứa thì chọc ngón tay vô rún, đứa thì móc lỗ mũi, đứa thì móc miệng, đứa thì dùi lỗ tai, đứa thì móc con mắt, mà Ngài vẫn cứ cười hề hề, cười hả hê, cười khoan khoái, không phiền muộn một ai hoặc bị chướng ngại gì hết.

 Ta bây giờ nhìn thấy hình ảnh đức Phật Di Lặc lúc nào cũng mập mạp, cũng vui tươi, nên mọi người gọi Ngài là biểu tượng cho con người hạnh phúc hiện tại và mai sau. Cái dáng vẻ mập mạp, vui tươi, lành mạnh đó là biểu trưng do điều gì? Chính nhờ trong lòng Bồ Tát không có những đám mây đen tham lam, sân giận, si mê che lấp nên mặt trời trí tuệ sáng soi, vì vậy mà sáu đứa bé dù có móc tai, móc mũi, móc mắt, nhưng Ngài vẫn thấy bình an, hạnh phúc.

 Còn chúng ta khi thấy hình ảnh đẹp thì dính mắc vào đó, nếu không vừa ý thì trán mình nhăn lại, mặt mày cau có, mắt đỏ lên, trông chẳng khác nào bọn đầu trâu, mặt ngựa. Nếu lúc đó ta nhìn vào trong gương, sẽ thấy mày mặt thật của mình chẳng khác nào ma quỷ.

 Thế cho nên, ta biết tu nơi sáu căn rồi thì tự nhiên mình cảm nhận được bình yên, hạnh phúc. Dù ta chưa thành Phật, nhưng hiện đời mình cũng cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng, càng tu mình càng lạc quan, yêu đời hơn.

 Do đó, chúng ta tu phải làm sao để chính mình dứt hết luân hồi sanh tử, đạt được an lạc, giải thoát. Đó là gốc của sự tu hành đối với hàng xuất gia. Còn nếu chúng ta vẫn bị phiền não kéo lôi, vẫn đi trong luân hồi sanh tử, thì sự tu đó không có hiệu quả thiết thực. Như vậy là uổng cơm của đàn na thí chủ, uổng công gia đình, người thân mong mỏi, đợi chờ, uổng công đất nước bảo vệ, gìn giữ an ninh, để ta có thời gian an ổn tu hành.

 Trong kinh Phật dạy, “này các thiện nam, tín nữ, có người thích thú đi nghe âm thanh, nhạc điệu, hoặc nghe pháp của các thầy tà, bạn ác, rồi vui vẻ bắt chước làm theo. Như lai cho rằng, đây không phải là những cái đáng nên nghe, vì sự nghe này mang tính phàm phu, không liên hệ đến mục đích xa lìa đắm nhiễm, không đạt được an lạc, giải thoát.

 Người Phật tử chân chính biết tìm kiếm và thích nghe chánh pháp của Như Lai, qua sự chỉ dạy của chư Tăng với lòng tin sâu nhân quả. Ai học hỏi, tu tập sự nghe này mới thật sự có lợi ích và cần thiết. Vì nó có thể giúp mọi người từ phàm phu trở thành hiền Thánh mà biết cách vượt qua khổ đau của cuộc đời”.

 Qua pháp thoại ngắn trên, Phật dạy ta không nên đi nghe những âm thanh nhạc điệu của thế gian, vì cái nghe này sẽ làm cho tai ta dính vào đó mà đắm say, mê muội. Cho nên, khi ta nghe những lời nói hằn học, lớn tiếng, hoặc những âm thanh không phù hợp sở thích của mình, thì sinh tâm hờn dỗi, tức tối, bực bội.

 Người quen và đam mê các loại nhạc sẽ dễ dàng bị âm thanh không vừa lòng thích ý làm phiền muộn, khổ đau. Thậm chí, có những người say mê đến đỗi, nếu trong ngày ấy mà không nghe được tiếng hát của ca sĩ đó, thì cảm thấy trong người ray rức, khó chịu.

 Chúng ta muốn tu cho có hiệu quả, lợi ích thiết thực trong cuộc đời, không uổng cơm của tất cả mọi người, thì mình phải biết rõ sáu căn là cội gốc của sinh tử luân hồi, ngay nơi tai đừng cho nó dính, đừng cho nó nhiễm, mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.

 Vậy sáu căn từ đâu mà ra? Nó có sẵn nơi chúng ta, mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý ở ngay thân mình. Ta chỉ cần đừng để cho nó dính mắc với trần cảnh là đã khéo tu.

 Còn nếu chúng ta ăn chay đơn giản, đạm bạc, sám hối, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền nhiều, mà ai động tới liền nổi giận, hờn mát trong lòng, cái gì đẹp thì ưa thích, bám víu vào đó, chúng ta tu như vậy có kết quả không? 

 Cũng vậy, mũi ngửi mùi hôi nhiều hơn mùi thơm, lưỡi nếm vị dở nhiều hơn vị ngon, mắt thấy sắc xấu nhiều hơn sắc tốt, thân xúc chạm vật bất như ý nhiều hơn như ý. Kiểm lại ta thấy cuộc sống của mình bất hạnh nhiều hơn hạnh phúc. Người đời cho rằng, hạnh phúc là do mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý tiếp xúc với trần cảnh, sinh ra cảm thọ vui, rồi bám víu vào đó mà thích thú, ngược lại thì giận hờn mà sinh ra đau khổ. Tất cả những cái mà mọi người cho rằng là hạnh phúc chỉ có giá trị tạm thời, không lâu dài, bền chắc. 

 Mắt thấy sắc đẹp, lòng luyến ái, mê thích, tai nghe tiếng chê dở, khen hay, rồi sinh bực bội, như vậy là ta chưa thật sự gỡ được tâm dính với các trần cảnh bên ngoài. Nếu tu mà chưa chuyển hóa những tâm tư tham đắm, phiền muộn, thì thử hỏi chúng ta làm sao có đủ khả năng giải thoát luân hồi sanh tử. Chính vì vậy, trên đường tu, chúng ta phải cố gắng nỗ lực, làm sao gặp cảnh vui buồn, được mất mà mình vẫn an nhiên, tự tại.

 Như vậy, con đường để trở về giác ngộ, tự tại, giải thoát, và con đường sanh tử luân hồi cũng ngay nơi sáu căn này, không có khác. Nếu sáu căn chạy theo sáu trần, gọi là thuận lưu, đi theo chiều luân hồi. Nếu sáu căn không chạy theo sáu trần, không nhiễm, không dính, không mắc, đó là biết quay trở về Bồ Đề Niết bàn, chẳng phải tìm cầu đâu xa. Bồ Tát Di lặc là một vị Phật sẽ thành tựu trong tương lai nhờ tu pháp gì? Như chúng ta đã thấy, tu là biết quay lại chính mình, điều phục từ ngay nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, không cho nó dính mắc vào trần cảnh.

 Hằng ngày, lỗ tai chúng ta thường được nghe những lời nói êm dịu, nhẹ nhàng, hay cũng có khi nghe lời nói chát chúa, hằn học, thô bỉ, cộc cằn ? Khi thì ta được khen, có lúc cũng lại bị chê. Song, ở đời chê nhiều hơn khen. Như vậy, chúng ta muốn được hưởng những âm thanh vừa với lỗ tai thì rất ít, mà trái với lỗ tai thì quá nhiều. Tối ngày ta chỉ chạy theo lời khen, tiếng chê, nên phiền não cứ dấy khởi hoài, khiến ta bất an.

 Như Phật là bậc toàn giác mà có khi nào được khen hoàn toàn đâu? Có khi Ngài vẫn bị người ta chê hoặc chửi mắng. Như có ông Bà La Môn nọ, vì tâm ganh ghét, tật đố, nên cứ theo sau chửi Phật hoài. Phật vẫn bình tĩnh, an nhiên, không nói năng gì, hay tỏ thái độ bất bình, giận dỗi.

 Ông Bà La Môn tức quá, chạy lên phía trước, chặn Phật lại hỏi, “này Cồ Đàm, ông có điếc không?” Phật bảo, “ta vẫn nghe rõ ràng tất cả mọi âm thanh xa gần, lớn nhỏ, nhưng ta nghe chỉ là nghe bằng tất cả tấm lòng từ ái và bao dung”.

 Chúng ta thấy đó, trên thế gian này chưa có ai hoàn toàn được khen hay bị chê? Hễ có khen thì liền bị chê, khi khen thì vui tươi là hạnh phúc, lúc chê thì buồn khổ là bất hạnh. Phật nhờ biết cách nhiếp phục sáu căn, nên khi nghe ai chửi mắng Ngài vẫn an nhiên, tự tại, sống với cái hằng biết của mình, nương nơi tai gọi là tánh nghe. 

 Bồ Tát Quán Thế Âm nhờ tu hạnh lắng nghe mà thông hết ba cõi, sáu đường, tùy duyên hóa độ chúng sinh không thể nghĩ bàn. Bồ Tát lắng nghe thật sâu tiếng nói của tha nhân, rồi tùy theo khả năng và sự hiểu biết của mọi người mà tìm cách chia vui sớt khổ bằng tình người trong cuộc sống.

 Nói tóm lại, người Phật tử chân chính phải biết điều phục chính mình từ hai căn mắt và tai là chính yếu. Mắt và tai là hai căn ta phải tiếp xúc hằng ngày, khi ta thấy mọi hình ảnh, sự vật, cùng với âm thanh lớn nhỏ qua sự giao tế trong cuộc sống.

 Thấy và nghe là hai chức năng quan trọng giúp cho ta an lạc, hạnh phúc hoặc phiền muộn, khổ đau. Thấy mà chạy theo, nghe mà phân biệt, so đo, tính toán, làm cho ta dính mắc vào đó, nên có thích thú và ưa ghét. Ta thấy, nghe mà không luyến ái, không chê trách, không ghét bỏ, thì ta vẫn là ta, nó vẫn là nó. Có lỗi lầm gì đâu? Lỗi lầm là chính lòng luyến ái bám víu của mình.

 Âm thanh có tác động rất quan trọng đến tinh thần con người, thanh thiếu niên bây giờ đa số thích nghe những bài nhạc kích động, nghe nhạc trẻ, nhạc tình cảm, làm cho mình chạy theo âm thanh thích hợp. Ai nghe nhiều như thế sẽ dễ làm bản thân mất tự chủ về căn tai, nghe những bài nhạc như vậy thì tự nhiên con người cũng muốn phá phách, nổi loạn, hoặc bị ru ngủ bởi tình cảm ướt át.

 Quí Phật tử thường xuyên đi chùa, nghe tiếng chuông mõ, tụng kinh thì thấy lòng mình an lạc, nhẹ nhàng, như trút hết gánh nặng mình đang quảy trên vai. Còn đối với những người không có niềm tin về nhân quả, họ chỉ thích bon chen, tranh đua, giành giựt, nên khi nghe tiếng mõ, lời kinh, chỉ thấy bồn chồn, khó chịu, vì tâm họ đang bị âm thanh, sắc tướng của pháp trần chi phối.

 Ngày xưa, biết bao triều vua sụp đổ cũng vì nghe lời nịnh hót, tâu dối của bọn gian thần. Ngày nay, do sự phát triển của xã hội quá nhanh làm con người cũng bị ảnh hưởng rất lớn về mọi phương diện, nhất là những âm thanh ru ngủ bằng lời quảng cáo dối vì lợi nhuận kinh tế. Thanh thiếu niên ở trong môi trường nào sẽ bị tác động bởi lời nói của môi trường đó, nếu ở nhà cha mẹ hay tranh cãi, gây lộn, nói những lời cộc cằn, hở ra là chửi thề, thì con cái cũng sẽ bị nhiễm những lời ấy, do chúng chưa có ý thức làm chủ được căn tai của mình.

 Làm chủ căn tai là biết chọn lọc, biết lựa chọn, biết nghe những điều hay lẽ phải, biết “bỏ ngoài tai” những lời gian dối, dua nịnh, những lời hằn học, ác độc, khích bác lẫn nhau. Cho nên, ta phải biết huân tập vào mình những âm thanh tốt đẹp và không chất chứa những âm thanh hỗn tạp thì tinh thần mới an ổn, nhẹ nhàng, mà nói và làm vì lợi ích cho mình và người.

LÀM CHỦ CĂN MŨI

 Lỗ mũi của chúng ta rất nhạy cảm với hương thơm và mùi hôi, ta đừng để dính mắc vào hai vấn đề đó, coi như luồng khói vừa qua mũi rồi mất, không có gì hết, không có gì là thật thì có gì làm cho mình dính mắc, đắm nhiễm. Ngược lại, tại chúng ta si mê, nên mùi thơm đến thì thích, mùi hôi đến thì bực. Do đó, tự mình đem giặc vào cướp của báu nhà mình, rồi lại tự làm thành chướng ngại. Nếu mình ngửi mùi hôi-thơm, vẫn coi như gió thoảng, mây bay; mình hay thường xuyên quán chiếu tất cả các mùi vị, thơm biết thơm, hôi biết hôi, và thơm-hôi bản chất của nó không thật. 

 Đến cái ngửi, thông thường, hương thơm thì mũi ai cũng ghi nhận thơm, mùi hôi thì mũi ai cũng biết hôi. Tuy nhiên, có cái người này khen thơm, người khác lại chê hôi. Chẳng hạn như người chưa từng ăn sầu riêng thì chê sầu riêng hôi, còn người quen ăn sầu riêng thì thích, khen sầu riêng thơm. 

 Lỗ mũi cũng vậy. Khi ta đi qua những chỗ có hoa thơm, có mùi ngọt ngào thì ưa thích, còn đi qua những chỗ có mùi hôi thối thì ta không ưa. Như vậy, lỗ mũi của chúng ta nó chạy theo mùi hôi, nên ta mới cảm thấy khó chịu, bực bội. Đó là đứa giặc thứ ba. Mùi hôi thì ai cũng chán ghét, nhưng có những thứ hôi mà người ta vẫn thích, ví như các loại mắm tôm, mắm ruốc… Cái này chắc mọi người ở đây đều biết hết? Đi ngang mấy chỗ ủ mắm, eo ơi, nó hôi quá chừng, vậy mà đa số mọi người vẫn ghiền và thích cái mùi đó! Đối với người này là thơm, đối với người khác là hôi. Mùi hương là vậy, thế mà ta cứ khởi tâm phân biệt, rồi ưa thích và không ưa thích, sanh ra đủ thứ phiền toái.

 Vậy mùi sầu riêng thơm hay hôi mà người khen thơm, người chê hôi ? Thơm hôi tùy theo sở thích sai biệt của mỗi nguời, nó không cố định, không định được thơm là đúng hay hôi là đúng. Nếu chấp chặt vào đó mà tranh cãi thì sân hận dấy khởi, bao nhiêu thứ phiền não, khổ đau chất chồng, làm sao gần Niết Bàn được ?

 Ngày xưa, có vị Thiền sư miên mật tu hành suốt mười kiếp, nên nhân quả xấu không bao giờ chiêu cảm được Ngài. Nhà vua quá quý trọng, nên cúng dường tòa trầm hương cao cấp và cung phụng mọi nhu cầu cần thiết. Do nhu cầu vật chất quá sung mãn, làm cho Thiền sư bị động tâm. Một hôm, ông đi ngang qua một làng nướng nọ, mùi cầy tơ xông lên tạo ra sự hấp dẫn. Chút bất giác, Thiền sư khởi niệm thèm, do đó mà bị quả báo mụt ghẻ hành hạ đau nhức.

 Mười kiếp tu hành miên mật nên nghiệp xấu không có cơ hội hoành hành, chút bất giác do mùi thơm của các thức ăn làng nướng mà quả xấu trổ liền trong đời này. Như chúng ta đã biết, mọi sự dính mắc từ sự bám víu chấp trước, cho rằng hương thơm là tuyệt đỉnh. Tình yêu nam nữ sở dĩ phát triển mạnh mẽ, trước tiên là từ sự thấy sắc đẹp và kế đến là bị kích thích mùi thơm nước hoa do phái yếu khéo léo trang điểm, tạo nên sự hấp dẫn mùi vi thơm tho mà làm lung lạc đấng mày râu. Kế đến là giọng nói, tiếng cười, rồi đến sự xúc chạm êm ấm, mát mẻ, khoái lạc, làm cho người ta sống không thể thiếu nhau được.

 Chúng tôi ở Thường Chiếu, hay bị cái mùi khó chịu của chất ô nhiễm Vedan thả ra, hầu hết ai cũng bị viêm xoang, nghẹt mũi bởi chất độc hại này. Một số thầy chịu không nỗi cái mùi vị khó chịu đó, bèn tìm đến nơi khác để tu. Con người ta khi làm việc gì đâu có nghĩ hậu quả lâu dài mà chỉ biết cái lợi trước mắt, nên đã để lại biết bao nỗi khổ, niềm đau cho nhân loại.

 Ô nhiễm môi trường, hủy diệt sự sống của các loài khác, đất đai bị cằn cỗi, con người thời nay bệnh hoạn trầm trọng, bởi tham muốn lợi nhuận của một số người. Ngửi mùi thơm thì làm cho người ta say mê đắm đuối, dính mắc vào đó, nên chịu dài dài trong luân hồi sinh tử.

 Các mùi vị hôi hám, xú uế làm cho con người bệnh hoạn, khốn khổ, bởi các chất độc hại không được xử lý rõ ràng. Lòng tham con người như giếng sâu không đáy, thức ăn, thức uống bây giờ trở thành ổ bệnh, vì sử dụng hoá chất, mùi vị độc hại.

 Trong sám hối sáu căn của vua Trần Thái Tông soạn, có câu, “thường tham mùi lạ trăm thứ ngạt ngào, chẳng thích chân hương năm phần thanh tịnh”. Thường thì mũi thích mùi thơm hơn, như mùi thơm của các loài hoa, mùi thơm của thức ăn chiên nấu, xào nướng.

 Người tu mà tối ngày chỉ dính mắc vào ăn uống, rồi khen chê đủ thứ, cuộc sống mỗi ngày nhờ vào đàn na tín thí mà không biết hổ thẹn, cứ chạy theo mùi vị mà quên mất chân hương. Chân hương tức là hương đạo đức của người tu, nhờ giữ giới và tu hành nên gọi là giới-định-tuệ.

 Nhờ biết giữ giới nên sinh định, và biết tư duy, nghiền ngẫm, quán chiếu, nên phát sinh trí tuệ, do đó gọi là chân hương. Trong luật Sa Di, có một thầy tỳ kheo đi dạo quanh hồ sen, nghe mùi thơm ngào ngạt của hoa sen liền hít ngửi cho thỏa thích, vị thần giữ hồ sen liền hiện ra quở, “tại sao ông là người tu hành mà đi ngửi trộm hương thơm của hoa sen?”

 Vị tỳ kheo nghe nói vậy trong lòng rất hổ thẹn, nên đành ngậm miệng, không dám nói năng gì. Trong lúc đó, có người thế tục lội xuống hồ bức ngó, bẻ hoa, và còn làm cho sen ngã rạp. Vị tỳ kheo thấy thế liền hỏi, “tôi chỉ ngửi mùi thơm của hoa sen mà ông nói tôi trộm hương, còn người kia bức ngó, bẻ sen, sao ông không quở trách họ?”

 Vị thần bảo, “đó là người đời, không biết tội lỗi, nên họ mới làm như vậy, giống như người mặc chiếc áo đen, có bị dính thêm năm bảy dấu mực cũng khó thấy. Ông là bậc mô phạm cho trời, người, giống như người mặc áo trắng, chỉ một vết mực nhỏ cũng dễ thấy, nên tôi nhắc ông là có lý do”.

 Nói tóm lại, người tu muốn đạt đến an lạc, giải thoát, thì phải biết làm chủ từ ý nghĩ của mình, đừng cho nó chạy theo ngoại cảnh, đừng cho nó dính nhiễm từ mắt-tai-mũi-lưỡi-thân mới được. Trong sáu căn, ta chỉ nhiếp phục một căn cho được thuần thục, thì năm căn kia cũng không bị dính mắc. 

 Thơm tho quá làm cho con người dính mắc, luyến ái vào đó, mà phải chịu sinh tử không có ngày thôi dứt. Hôi thúi quá làm ô nhiễm đến an sinh sự sống, vì thiểu hiểu biết và không tin sâu nhân quả mà con người đã tán tận lương tâm đến thế.

 Thơm thì ưa, hôi thì ghét, đó là thói quen thâm căn cố đế của tất cả chúng sinh, nên người Phật tử chân chính phải ý thức được sự tác hại lớn lao do sáu căn bị dính nhiễm với sáu trần, làm ta không được an vui, giải thoát, cũng giống như những người bị nghiện ngập, khi thiếu nó thì rất khổ đau.

 Trong sáu căn, tuy căn mũi không phải là vai trò chính yếu trong việc tu hành, nhưng nó phần nào cũng ảnh hưởng đến đời sống tốt xấu của con người. Vậy chúng ta muốn an lạc, tự tại, giải thoát, thì không để cho mùi thơm, hôi chi phối.

LÀM CHỦ CĂN LƯỠI

 Lưỡi chúng ta nếm những vị cay, đắng, mặn, lạt, chua, ngọt. Tất cả cái đó, cái nào hợp với lưỡi của mình thì ta thích, cái nào không hợp với lưỡi của mình thì ta không thích. Do ưa thích, hay không hợp khẩu vị, mà chúng ta phải chịu khổ từ ngày này sang tháng khác. Mỗi khi lên mâm cơm, thấy những món gì ta cho là thích hợp với lưỡi của mình thì bữa đó mình cảm thấy vui tươi, phấn khởi, ăn uống ngon lành.

 Ngược lại, những món nào mình cảm thấy trái với sở thích của mình thì sinh bực dọc, cau có, khó chịu, do đó mà phải chạy đi tìm kiếm chỗ khác để cho vừa với miệng của mình. Chính vì vậy, mà ta hay bực bội gia đình, người thân một cách vô lý, nhất là những người nặng về ăn uống. 

 Lưỡi của chúng ta khi ăn món ngon vừa miệng, thì mình thấy thích và muốn ăn hoài, khi ăn món không hợp với khẩu vị thì sinh bực bội, cảm thấy khó chịu. Thích món ngon mà không được ăn, ghét món dở mà bị ăn hoài, đâm ra phiền muộn, khổ đau. Vậy cái lưỡi thích ngon, chán dở đó là đứa giặc thứ tư.

 Nhớ lại quá khứ, dĩ dãng ngày xưa, khi chúng tôi chưa đi tu, mỗi khi tới giờ cơm, mở nồi thức ăn ra, không có những món khoái khẩu là tôi khua nắp vung lớn lên, rồi bỏ ra đi. Mẹ tôi nghe thấy vậy lắc đầu mà rơi nước mắt, không dám nói lời nào, sợ tôi buồn. Quả thật, “miếng ăn là miếng tồi tàn, không ăn một miếng lộn gan trên đầu”. May mà chúng tôi chỉ ăn chực của mẹ thôi mà còn vậy, tiền làm được thì tôi bỏ túi xài riêng. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy nhớ thương mẹ vô cùng, nhưng mẹ đã sớm ra đi trong cơn bạo bệnh còn đâu.

 Tôi ngày xưa tán tận lương tâm với mẹ rất nhiều, nhưng mẹ tôi vẫn một lòng thương con mà chịu đắng cay, khổ sở trăm bề. Một chút dĩ dãng đau buồn, con xin nhắc lại, mong mẹ thứ tha cho con trẻ quá dại khờ.

 Người biết tu bao giờ cũng tập cho lưỡi của mình đối với các vị mặn lạt, chua ngọt, đắng cay, vị nào cũng phải bình thường đối với lưỡi. Ta tu làm sao cốt cho thân tâm được an ổn, nhẹ nhàng là quí rồi; còn tất cả cái ngon dở của thức ăn, chẳng qua là phương tiện để nuôi sống bản thân, để mình có đủ sức khỏe, tâm thanh tịnh, sáng suốt mà tu hành, đạt được tự tại, giải thoát.

 Căn lưỡi này đóng vai trò quan trọng nhất trong con người chúng ta, vì hằng ngày nó có nhiệm vụ đưa thức ăn, thức uống vào để có đủ sức khỏe, năng lực làm việc mà duy trì mạng sống; nhưng con người do chấp ngã, thấy thân này là thật, nên cứ một bề tẩm bổ, đưa vào các thức ăn mình cho là ngon.

 Nhiệm vụ của lưỡi là nếm các vị, nhưng ngược đời thay, sở thích của mỗi người khác nhau, nên có người thích ngọt, có người thích mặn. Hai người cùng ngồi chung mâm thì sinh ra rắc rối, nên có thể dẫn đến cãi vả, bất đồng quan điểm với nhau, từ đó sinh ra oán giận, thù hằn cũng chỉ vì miếng ăn, thức uống. 

 Món ăn ngon ai cũng ưa thích và muốn ăn hoài, có những món ta biết ăn vào sanh bệnh, nhưng do không làm chủ được cái lưỡi thích nếm vị ngon mà hại cho cái thân. Nói chi xa, ngay nơi quí phật tử mình đây ai cũng biết ăn mặn là tạo tội, ăn chay là tốt, vậy mà mấy ai làm chủ được cái miệng thích ăn thịt cá của mình đâu. Rồi cho đến quý thầy cô, tuy ăn chay nhưng lại khoái ăn đồ giả mặn, vì nó kích thích cái lưỡi của mình, cho đến có người thích ăn cay, ăn ớt. Bữa ăn nào mà không có ớt là khổ sở vô cùng, không thể ăn được.

 Rồi có người ghiền rượu, bữa nào không có nó thì ngủ không được, nhưng khi có chút đỉnh thì về kiếm chuyện vợ con, lớn tiếng hành hạ, đánh đập. Thức ăn uống dù ngon cách mấy, nhưng khi nuốt vô khỏi cổ, qua khỏi cái lưỡi rồi, lỡ ói ra thì mùi vị chua lè, thấy phát ớn. Vậy mà chỉ vì ăn ngon một chút, ta nỡ nhẫn tâm giết hại bao nhiêu con vật để bồi bổ cho tấm thân này. Chúng tôi còn nhớ, trong dân gian có câu, “miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu”, nghe thật là thấm thía làm sao, người đời cũng vì miếng ăn mà sẵn sàng tranh giành, thậm chí dẫn đến giết hại.

 Con người ta khổ là do sự chấp trước, dính mắc vào đó, đôi khi vì tham muốn quá đáng mà không biết cách kìm chế, nên để cho bệnh béo phì tấn công. Phụ nữ ngày nay mắc chứng bệnh này hơi nhiều. Mục đích của sự ăn uống là để nuôi sống thân này có sức khỏe tốt, để ta làm việc, đóng góp, phục vụ gia đình và xã hội.

 Xã hội văn minh, tiến bộ quá nhanh, tiện nghi vật chất hiện đại, làm con người không biết cách làm chủ bản thân, vì không có thời gian nghiền ngẫm, suy tư đạo lý Thánh hiền. Từ đó, khổ đau bắt đầu có mặt, vì ta cứ mải mê chạy theo công danh, sự nghiệp mà quên mất chính mình.

 Lưỡi ngoài việc ăn uống, nếm vị, còn có chức năng nói chuyện trong giao tiếp xã hội. Lời nói rất quan trọng, một lời nói tốt đẹp giúp mọi người sống an vui, hạnh phúc; ngược lại, làm cho tan nhà nát cửa, con mất cha, vợ mất chồng, anh em xa lìa cũng chính vì lời gian dối, hại người.

 Ngày xưa, một người giàu có sai đầy tớ làm thịt heo và căn dặn kỹ càng, “nhà ngươi nhớ, sau khi làm heo xong phải để dành lại cho ta cái gì ngon nhất”.

 Người đầy tớ vâng lời, chừa lại cho ông chủ cái lưỡi.

 Vài ngày sau, ông chủ lại sai người đầy tớ mần tiếp con heo khác, nhưng lại dặn, “hôm nay, nhà ngươi để dành lại cho ta cái gì dở nhất trong con heo”.

 Người đầy tớ sau khi làm heo xong cũng chừa lại cái lưỡi như lần trước, rồi dâng lên cho chủ. Ông nhà giàu thấy vậy bực quá, liền chửi mắng tên đầy tớ, “bộ mầy điên hay sao, ngon cũng cái lưỡi, dở cũng cái lưỡi là ý gì?”

 Người đầy tớ thưa, “dạ, kính bẩm ông chủ, xin Ngài hãy mở lượng khoan dung mà suy xét lại kỹ càng. Khi chúng ta đối xử tốt với ai thì ta nói lời từ ái, dịu dàng, dễ nghe, làm cho người cảm mến, yêu thích. Khi ta thù ghét ai thì ta dùng lời nói ác độc, mắng nhiếc, chửi bới, nếu không thì cũng nói móc, nói méo, nói nặng, nói nhẹ, làm cho người phiền muộn, khổ đau. Cho nên, khi ăn ngon hay dở cũng từ cái lưỡi mà ra. Chính vì vậy, trước sau gì con cũng dâng lên ông chủ cái lưỡi là có nguyên nhân, kính mong ông chủ bình tâm mà suy xét lại”.

 Ông nhà giàu ngồi lại ngẫm nghĩ một hồi lâu, mới thấy lời nói người đầy tớ thật là chí lý, nên ông ta gật đầu khen ngợi, “phải, phải nhà ngươi nói đúng lắm. Ta không ngờ có một người giúp việc như chú mày, chú mày quả thật là người có hiểu biết và nhận định sâu sắc như thế”.

 Kể từ đó, ông chủ cho người giúp việc phụ tá và tư vấn vào những công việc chính đáng trong gia đình. Lưỡi có chức năng nếm các vị mặn ngọt, chua cay, chát đắng, để giúp con người biết được sự ngon hay dở, ngoài ra còn hỗ trợ cho miệng nói năng trong giao tiếp, sinh hoạt làm ăn, chính vì vậy mà anh đầy tớ nói ngon hay dở cũng chính là cái lưỡi.

 Ông nhà giàu nọ thật có phước báo vô lượng, vô biên, nên mới có được người giúp việc hiểu biết và sáng suốt như thế, do đó anh đã cảm hoá được chủ. Nhờ vậy, ông mới hiểu ra, đạo lý Thánh hiền đều bắt đầu từ ý nghĩ rồi phát sinh ra lời nói, mới dẫn đến hành động tốt hay xấu.

 Học chuyện xưa, chiêm nghiệm lời dạy cổ nhân, luôn giúp chúng ta có một nhận thức sáng suốt để thấu rõ kiếp người, được biểu đạt bằng miệng lưỡi, và thể hiện bằng lời nói có sức thuyết phục lòng người. Một cái lưỡi này mà làm nên lịch sử, giúp mọi người sống bình yên, hạnh phúc, nhờ ta biết vận dụng lời hay, ý đẹp trong cuộc sống hằng ngày.

 Chúng ta muốn làm chủ bản thân để sống đời an vui, giải thoát, thì từ mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý đều phải biết quán chiếu với cặp mắt duyên khởi, vô thường, vô ngã. Nhờ vậy, ta bớt tham chấp mà có cơ hội gần với Niết Bàn.

 Trong cuộc sống, từ cha mẹ cho đến anh chị em, họ hàng thân thuộc, vợ chồng con cái, thầy tổ, bạn bè, ai cũng cần có tình yêu thương qua lời nói. Cho nên, lời nói rất quan trọng trong đối nhân xử thế, một lời nói chân thành có thể giúp mọi người sống an vui, hạnh phúc, một lời nói giả dối làm cho con người oán giận, thù hằn.

 Chúng ta có thể học nói trong ba năm, nhưng muốn đem lời nói vận dụng vào cuộc sống cho được êm thắm, hài hoà, nhiều khi hành cả đời cũng chưa xong. Lưỡi đóng vai trò rất quan trọng trong việc ăn uống, biết phân biệt ngon dở để nuôi cơ thể và kết hợp hài hoà với miệng mà nói năng, giao tiếp. Lưỡi kết hợp với miệng phát ra lời nói trong đối nhân xử thế, giúp nhân loại nương vào nhau mà phát triển về mọi mặt, công việc được tốt đẹp, hay rơi vào chiều hướng xấu, đều dựa vào lời nói. Cho nên, tục ngữ có câu, “lưỡi không xương nhiều đường lắc léo”. Nghĩa là cái lưỡi không xương, nên con người muốn nói kiểu nào cũng được, nói đúng, nói sai gì thì cũng từ cái lưỡi.

 Có những lời nói khi thốt ra làm tan nhà nát cửa, nước mất, nhà tan, tổn hại dân chúng; nhưng cũng có những lời nói làm cho gia đình sống an vui, hạnh phúc, biết sống yêu thương với nhau bằng tình người trong cuộc sống. Chính vì vậy, khi nói ta cần phải uốn lưỡi bảy lần, để không nói ra những lời vô nghĩa, có hại cho mọi người. Nói tóm lại, những gì ta nói làm khổ đau cho nhau thì không nên, và mình chỉ nói để mọi người sống với nhau bằng trái tim yêu thương, hiểu biết. 

LÀM CHỦ CĂN THÂN

 Đến phần thân, nếu ta không biết tu theo lời Phật dạy, thân có thể sát sinh, hại vật, trộm cướp, lường gạt và tà dâm, phá hoại hạnh phúc của người khác. Thân thì lúc nào cũng thích cảm giác khoái lạc, ghét bỏ cảm giác đau nhức, hoặc nóng lạnh, bức bách. Vì ai cũng chấp thân này là ta, là của ta, nên từ đó tham lam, muốn chiếm hữu, làm cái gì cũng muốn vơ vét về cho riêng mình thật nhiều, bất chấp mọi hậu quả, nên dễ gây tạo tội ác tày trời.

 Từ lâu, chúng ta mê lầm, đắm say, đam mê người vật, được thì ta sinh tâm mừng vui, phấn khởi, mất thì ta lo lắng, phiền muộn, khổ đau. Song, người đời ít có ai trọn vẹn, đa số là mất nhiều hơn được. Nhất là quí Phật tử lớn tuổi nhìn lại sẽ thấy rõ điều này, nào mất ông bà, cha mẹ, anh em, người thân, bạn bè, mất đủ thứ; rồi đây, cái chết đang từng ngày rình rập mạng sống của mình nữa. Mọi sự lo lắng, đau khổ cứ như thế mà dồn dập mãi, người thân mất, ai mà không buồn, không rơi nước mắt nhất là cha mẹ.

 Người Phật tử chân chính đã thấm nhuần đạo đức theo lời Phật dạy, lúc nào cũng được bình an, hạnh phúc, không còn bị buồn thương, giận ghét chi phối với những duyên thuận nghịch nữa. Chúng ta thấy rõ thân này vô thường, là thấy đúng theo tinh thần giác ngộ. Nếu cứ thấy như vậy luôn từ ngày này đến tháng kia, năm này sang năm nọ, thì không là bậc xuất trần thượng sĩ Phật, Bồ Tát, cũng là bậc hiền Thánh trong hiện tại và mai sau. Chúng ta học mà không hành, tu mà không quán xét, đến khi việc buồn khổ xảy đến rồi thì mới cầu Phật cứu, thì Phật làm sao cứu kịp.

 Học Phật là học đạo giác ngộ, chúng ta đem lời Phật dạy áp dụng ngay vào đời sống hằng ngày, để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc, đó là chúng ta tu để được giác ngộ, giải thoát như Phật. Chỉ khi nào chúng ta thấu đạt được lý vô thường là một lẽ thật, chừng đó ta mới hết lo lắng hay buồn khổ. Người thâm nhập được lý vô thường của Phật dạy, gặp thuận duyên hay nghịch cảnh, biết việc gì đến là phải đến, nên luôn bình tĩnh, thản nhiên đón nhận mà không lo lắng, sợ hãi.

 Kiếp người khốn khổ với bao sóng gió cuộc đời, vì thân này vô thường nên không ngoài những cái khổ mà Phật đã nêu là sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, thương yêu xa lìa khổ, thù oán gặp gỡ khổ, mong cầu không được khổ, thân này thịnh suy khổ. Khi ta đã giác ngộ thân này là vô thường thì khi già đến, mình không thấy khổ dù đi đứng, sinh hoạt có khó khăn đôi chút; khi bệnh mình không thấy khổ vì biết thân này đau nhức, chớ tâm thanh tịnh, sáng suốt, thường biết rõ ràng, không có đau nhức bệnh hoạn.

 Như vậy, già đến là một quy luật tất nhiên, không ai cưỡng lại được, khi bệnh đến biết có thân ắt có bệnh, nó đến mặc nó, ta không còn lo buồn hay sợ sệt nữa. Nhờ có tỉnh giác trong từng phút giây mà chúng ta tự cứu mình thoát khỏi bao nhiêu cái khổ của cuộc sống hiện tại. Tu như vậy thì ngay trong hiện đời sẽ bớt khổ, hết khổ, chớ không phải chờ về Cực Lạc rồi mới hết khổ. Những người tu theo pháp môn niệm Phật thường hay nguyện về cõi Cực Lạc cho hết khổ, mà không lo buông xả tham-sân-si, đó chỉ là nguyện suông vô ích mà thôi.

 Người Phật tử đi chùa cúng Phật, Bồ Tát, rồi cứ xin gia hộ mà không chịu buông xả thói quen xấu, khi gặp việc trái ý nghịch lòng thì vẫn buồn khổ, khóc than, trách Phật, Bồ Tát sao không từ bi cứu khổ, mà để cho con khổ hoài. Người đi chùa học Phật như thế ngày càng mê tín, dị đoan, chắc chắn không bao giờ được Phật cứu khổ. Phật biết chúng sanh vì si mê, tối tăm, mờ mịt, chưa đủ lòng tin sâu nhân quả, nên không thấy đúng lẽ thật, do đó Ngài mới chỉ dạy cho ta thấy thân này là vô thường, bại hoại, để mình cố gắng tu hành.

 Khi ta đã thấy biết đúng sự thật của kiếp người, là mình giác ngộ, giải thoát mọi ràng buộc khổ đau. Đó là Phật đã cứu khổ chúng ta, cứu bằng cách dạy cho ta thấy đúng lẽ thật, đúng chân lý. Vậy mà chúng ta không chịu hiểu, không chịu tu, mà cứ đòi Phật cứu bằng cách này hay cách nọ, chúng ta đòi hỏi những chuyện thật vô lý làm sao.

 Từ xưa nay, đa số chúng ta mê lầm, thấy thân này lúc nào cũng bền chắc, lâu dài, mọi hoàn cảnh, sự vật, và sự sinh hoạt hằng ngày đều là thật có, rồi đinh ninh một kiếp người là trăm năm, nên ta cứ mải mê lo làm ăn, lo dành dụm tài sản, tiền bạc, để được giàu có và thủ hậu cho con cháu mai sau. 

 Lâu nay, chúng ta ai cũng cho thân người là thật, cái suy tư, nghĩ tưởng cũng là thật. Do thấy biết sai lầm và chấp chặt như vậy, nên ta cứ lo gom góp của cải, vật chất, để mình và con cháu mai sau thụ hưởng. Người thế gian ai cũng chấp chặt như thế vì cho cái gì cũng là thật hết, nên tham lam, vơ vét về cho riêng mình mà làm tổn hại cho nhau.

 Phật dạy thân người do bốn chất đất-nước-gió-lửa nhân duyên giả hợp mà có. Người Phật tử muốn được kết quả bình yên, hạnh phúc, thì ngay giờ phút này phải biết đem lời Phật dạy ứng dụng vào thực tế cuộc sống, bằng cách quán chiếu, nghiệm xét và hành trì. Nhờ vậy lâu ngày, ta phát sinh trí tuệ thấy biết đúng như thật, đối trước nghịch cảnh hay chướng duyên mình vẫn bình thản, an nhiên, không bị sự chi phối của khổ đau.

 Song, bốn chất này thường xung khắc nhau, đất ngăn ngại nước, nước xoi mòn đất, nước làm tắt lửa. Do chúng xung khắc nên thân phải điều hòa hoài, nếu không phù hợp thì sinh bệnh hoạn, đau nhức, cho đến khi chúng không còn dung hợp với nhau được nữa thì thân tan rã. Vì vậy, có thân là có khổ nhiều hay ít, tùy theo sự huân tập thói quen tốt xấu của mỗi người.

 Người thế gian cho rằng, khi đói bụng mà không được ăn uống no đủ là khổ, hoặc khi bị lạnh rét mà không có áo da, mền nỉ, lò sưởi làm cho ấm là khổ, nhưng khi đủ tiện nghi sưởi ấm thì hết khổ, hay nghèo hèn thiếu thốn, khó khăn là khổ. Chúng ta thường thấy khổ khi đói, cảm thấy vui vẻ khi đầy đủ, thấy lạnh lẽo khi bị rét buốt, và được vui khi được ấm áp. Những cái khổ này là những cái khổ thông thường, còn nỗi khổ lớn mà chúng ta không thấy, không biết, là cái khổ vô thường, đang hằng ngày bức hại thân tâm mỗi người chúng ta. 

 Lại nơi thân này, những chất cứng như da, thịt, gân, xương, tóc, răng… thuộc về đất. Những chất lỏng như máu, mủ, mồ hôi, nước mắt… thuộc về nước. Sự hoạt động cho máu huyết lưu thông như hơi thở vô, ra thuộc về gió, nhiệt độ như hơi ấm trong thân thuộc về lửa. Hiện tại, khoa học phân tích, thân người có vô số tế bào, song không ngoài bốn chất đất-nước-gió-lửa kết hợp lại mà thành. Vì khổ nên ta khi mới sinh ra liền khóc oa oa, lọt khỏi lòng mẹ bị khí trời bức xúc, gây cảm giác khó chịu, rát buốt, nên con khóc mà mẹ cũng đau đớn khi banh da xẻ thịt sanh ra đứa con, nên Phật nói, “sanh là khổ”. 

 Qua bao tháng năm, đứa bé được cha mẹ nuôi dưỡng lớn khôn. Khi trưởng thành rồi thì dần dần già yếu, mắt mờ, tai điếc, tóc bạc, răng long, chân mỏi, gối dùn, ăn uống không ngon, đi lại khó khăn… Đến tuổi già thường đau yếu, bệnh hoạn, nay bệnh này, mai bệnh kia, thân thể nhọc nhằn, đau nhức, khó chịu, khi đau chạy chữa thuốc thang, mà bệnh không giảm, cứ tăng hoài thì sẽ chết. Song, trước khi chết thì tâm thần rối loạn, lo sợ, hãi kinh, không biết mình sẽ đi về đâu. Môi miệng lệch méo, tay chân co giựt…, vô cùng khổ sở.

 Từ xưa nay chúng ta thường hay lầm tưởng thân này là ta, là tôi, là thật có, nên ta cứ chấp chặt như thế, hễ ai động đến là phản ứng ngay, hoặc tìm đủ mọi cách để bảo vệ, vun bồi cho nó được thỏa mãn. Nhưng đối với Phật, nhờ tu chứng dưới cội Bồ Đề, nên thấy rõ thân do đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại mà thành, nếu thiếu một trong bốn chất ấy thì thân này tan rã, bại hoại.

 Khi bốn chất còn chung hợp, nương nhờ vào nhau thì mạng sống còn. Song, cần phải ăn cơm, uống nước, hít thở không khí, vay mượn đất-nước-gió-lửa bên ngoài, để bồi bổ liên tục cho đất-nước-gió-lửa bên trong. Cả một đời, chúng ta sống chỉ bằng sự vay mượn, đưa vô rồi xả ra. Giờ phút nào còn vay mượn thì giờ phút đó còn mạng sống, hết vay mượn thì mạng sống dừng; hơi thở trả về với gió; hơi ấm trả về với lửa; máu, nước miếng, nước mắt… trả về với nước; da, thịt, gân xương trả về với đất.

 Tất cả đều thay hình, đổi dạng, rã tan, chẳng còn thứ gì gọi là thân mạng con người, là ta, là tôi nữa, nên không còn biết gì nữa. Cũng vậy, lâu nay chúng ta huân tập việc gieo giống nòi nhân loại, tạo ra gia đình, người thân. Cho nên, từ cha mẹ, anh em, gia tộc… dạy ta cuộc đời là thường, rồi từ đó ai cũng muốn tranh danh đoạt lợi, lo cho ta, cho gia đình ta, cho bà con, quyến thuộc của ta và đất nước của ta. Chính vì vậy, ai cũng tính kế lâu dài, ham làm giàu, ham ăn sung mặc sướng, để rồi ta đấu tranh, giành giựt, giết hại lẫn nhau không thương tiếc.

 Người Phật tử chân chính biết “thế gian là vô thường”, nhờ thường xuyên nghiệm xét, suy tư, buông xả phiền não tham-sân-si. Tuy biết thân này là vô thường, nhưng nếu nghe qua rồi bỏ, thì chúng ta chỉ hiểu biết trên ngôn ngữ mà thôi, do đó dễ dàng làm cho người khác đau khổ. Nếu chúng ta thường quán xét lời Phật dạy, thấy rõ thế gian là vô thường, từ thân tâm con người cho tới hoàn cảnh đều là vô thường. Lúc bấy giờ, đối với thân tâm cũng như cảnh vật bên ngoài, ta không còn lầm chấp nữa, nên sống không làm tổn hại cho ai, mà còn hay giúp người, cứu vật.

 Còn nếu chúng ta tu học theo Phật, Phật dạy vô thường mà Phật tử vẫn thấy là thường, khi đối diện với sinh ly, tử biệt ta cứ buồn khổ, khóc than, tiếc nuối; chính vì vậy mà ta vui vẻ khi gặp cảnh thuận, và đau khổ khi gặp chướng duyên, vì thấy mọi vật đều thường. Gặp danh, gặp lợi, gặp sắc, gặp tài, gặp ăn, gặp uống, Phật vẫn dửng dưng, không bị dính mắc, nhiễm ô, nên Ngài an nhiên, tự tại, vì biết nó là vô thường.

 Chúng ta thường nghe nói, chúng sanh thì mê lầm nên đau khổ, Phật thì giác ngộ nên sống đời bình yên, hạnh phúc, mà mình không hiểu rõ thế nào là mê là giác. Nếu chúng ta tu mà không biết thế nào là mê, là giác, thì dù tu suốt kiếp cũng chẳng được gì. Nếu hiểu được thế nào là mê thì mình sẽ biết thế nào là giác, vì nó đối lập lại với nhau.

 Nói mê, nói giác là nói theo danh từ nhà Phật, nói theo thế gian thì gọi là mê lầm. Chúng ta tuy có học Phật nhưng chỉ hiểu suông mà không biết áp dụng vào đời sống hằng ngày. Ta cứ mải mê lo tính chuyện làm ăn sao cho có lợi nhiều, làm sao cho mau giàu, ham muốn đủ thứ để được hãnh diện với mọi người. Sở dĩ chúng ta vẫn còn mê lầm hoài là do mình thiếu tu tập. Nếu ta thường xuyên quán chiếu, nghiệm xét lời Phật dạy thì làm gì có mê, có dính, có nhiễm, và cuối cùng phải chịu khổ đau?

 Thế cho nên, người Phật tử chân chính khi nghe lời Phật dạy, liền ghi nhận và áp dụng vào trong đời sống hằng ngày không một phút giây lơ là. Còn người học Phật mà không biết tu, dù cho có nghe hết ba tạng kinh điển, ghi nhớ không xót một chữ, mà không chịu thực hành, cuối cùng vẫn cứ mê lầm hoài. Nếu ta nghe hiểu, nhớ và cố gắng thực hành, thì sẽ được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

 Phật dạy thế gian vô thường, thân này do nhân duyên hòa hợp nên cũng giả có, để chúng ta thấy rõ lẽ thật, không còn cố chấp thân tứ đại này là thật, không còn cố chấp cõi đời này là bền chắc, lâu dài. Quí Phật tử có ai không bị vô thường chi phối không? Nếu chúng ta lúc nào cũng thấy biết rõ ràng như vậy, thì dù cho thân này có ra sao đi nữa, ta cũng không lo lắng, sợ hãi, bất an. Vì biết nó không chết trẻ thì cũng chết già, và nó không chừa bất cứ một ai, nên ta bình tĩnh, thản nhiên đón nhận cái chết.

 Trong kinh A-hàm, Phật dạy người chấp thân tứ đại là ta còn dễ phá trừ hơn người chấp linh hồn là ta. Chấp trong thân này có cái linh hồn còn hoài, vĩnh viễn, nên người chết sinh người, thú vật chết sinh thú vật, là quan niệm thần ngã, là chủ của thân này không bao giờ thay đổi. Đó là chấp thường theo một số người xa xưa. Mê lầm chấp trước như vậy rất có hại, nên người ta không chịu tu, mặc tình ăn chơi, tạo các nghiệp ác, sát sinh hại vật, để rồi cuối cùng sẽ chịu quả báo khổ đau vô cùng tận.

 Nơi thân con người chúng ta gồm có năm phần hòa hợp, gắn kết với nhau mới bảo tồn mạng sống, đó là:

1- Sắc ấm: là phần thể xác con người do bốn chất đất-nước-gió-lửa hợp thành.

2- Thọ ấm: là phần cảm giác khổ vui, gặp cảnh vừa lòng, thích ý thì thân tâm cảm thấy thoải mái, sảng khoái, mà đam mê, dính mắc vào đó, gặp chuyện đau thương, mất mát thì thân tâm cảm thấy khó chịu, phiền muộn, khổ đau. Có khi chúng ta vui vẻ, phấn khởi, hả hê, có khi chúng ta mệt mỏi, chán chường, thất vọng trong cô đơn, buồn tủi, rồi chúng ta chấp cái vui, cái buồn đó là tâm mình.

3- Tưởng ấm: là nhớ tưởng, hối tiếc về chuyện quá khứ tốt đẹp hay xấu xa, rồi mơ ước tương lai sẽ giàu có, hạnh phúc, rồi chấp chặt cái nhớ tưởng đó là tâm ta.

4- Hành ấm: là sự nghĩ suy nghĩ, tính toán, phát sinh hành động, rồi chấp chặt vào cái nghĩ, suy tư, nghĩ tưởng, tính toán đó là tâm mình.

5- Thức ấm: là sự phân biệt cái này tốt, cái kia xấu, cái này hay, cái kia dở, cái này đúng, cái kia sai, rồi chấp vào cái phân biệt đó là tâm ta.

 Cuối cùng, đã làm người, ai cũng chấp sắc thân này là ta, là của ta, chấp vào cảm xúc khổ vui là tâm ta, chấp vào sự nhớ tưởng là tâm ta, chấp vào sự suy nghĩ là tâm ta, chấp vào cái ý thức phân biệt là tâm ta. Chấp như vậy thì vô tình mỗi người có đến năm cái ta. Sắc thân này rồi cũng sẽ hoại diệt, tan rã theo thời gian hoặc sớm hay muộn mà thôi. Thọ-tưởng-hành-thức cũng lại như vậy, chợt hiện, chợt mất, chợt có, chợt không, ta lại mê lầm, chấp trước vào đó, cho là thật, là ta, là của ta. Vì vậy mà ta cứ mãi luân hồi trong vòng sanh tử khổ đau.

 Chúng ta thấy rõ sắc-thọ-tưởng-hành-thức không phải là ta, là của ta, nó là tạm bợ, chợt có rồi mất, đó là chúng ta đã thấu suốt được lý vô ngã đức Phật đã dạy.

 Thân xúc chạm biết nóng, lạnh, hay trạng thái khó chịu do đau nhức, cảm xúc dễ chịu, cảm giác khoái lạc do sự xúc chạm hai thân thể. Chúng ta ý thức được khổ đau do sự giết hại gây ra, nên mọi người hãy cố gắng mở rộng tấm lòng từ bi, thương xót muôn loài vật. Giết hại thì quả báo bị giết hại trở lại, bị chết yểu, chết bị tai nạn bất đắc kỳ tử. Nhân giết hại gây ra ân oán, hận thù không có ngày thôi dứt, người giết vật, vật giết ngườ,i nhân quả trả vay vô cùng tận. Con người ta vì chấp ngã nên thấy mình là trung tâm của vũ trụ, do đó lợi dụng quyền cao chức trọng mà bắt mọi người phải phục vụ cho mình. 

 Thứ năm là thân xúc chạm. Xúc chạm những gì êm ái, nhẹ nhàng, thì ta có cảm giác thích thú, xúc chạm những gì thô nhám, khó chịu thì mình muốn ghét bỏ. Những xúc chạm đó làm chúng ta đắm say, mê muội, hoặc làm mình khó chịu, chán ghét, nên nó là đứa giặc thứ năm phá hoại công đức lành.

 Phật dạy, cõi đời chúng ta đang sống là vô thường, tạm bợ. Ngay thân tứ đại giả hợp tạm có này, chúng ta phải biết nó là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã. Phải biết thân và tâm tưởng có đó rồi mất đó, luôn luôn sanh diệt, dời đổi, không có thật ngã. Cái suy tư, nghĩ ngợi, mà lâu nay mình lầm chấp là tâm mình, chính là nguồn gốc của ác nghiệp.

 Khi chúng ta bị bệnh, đau đớn, khổ sở, khó chịu, thì mình nói, “tôi đau quá”. Nói như vậy là ta cho rằng, cái đau đó là tôi, nhưng khi hết đau thì tôi ở đâu? Đau là do thân vật chất này đau, nó chỉ đau ở một bộ phận trong cơ thể, hoặc chân tay, hay lưng đau, chớ cái tôi đâu có đau.

 Người biết tu, khi thân đau, ta biết mình có cái không đau, nên thấy thảnh thơi, không bị phiền muộn, khổ đau chi phối. Người không biết tu và người tu khác nhau là ở chỗ đó, thân đau mà tâm không đau.

 Ta có cái thấy chân thật ấy biết được cái đau, biết được chân đau, biết được bụng đau, biết được tay đau. Hiểu được như vậy thì trong cuộc sống, chúng ta đã phần nào làm chủ được cái thân này.

 Ngược lại, chúng ta khi buồn ai thì cứ đồng hóa sự giận dữ của mình là tôi giận, đau là tôi đau, ta cứ mãi chấp trước vào cái tôi này thì làm sao làm chủ thân này. Cho nên, người tu phải sáng suốt nhận cho thật kỹ, khi gặp bệnh hoạn mới có thể làm chủ thân này. Chân đau thì ta thấy chân đau, còn cái biết đau này mới là không đau, đó mới là thấy chân thật.

 Ngày xưa, khi các vị Thiền sư bị bệnh, có người hỏi, “hòa thượng bệnh, có cái chẳng bệnh chăng?”

 Các ngài đáp, “có”.

 Hỏi, “cái gì không bệnh?”

 Ngài nói, “Ui da! Ui da!

 Cái biết rên đó, cái ấy không bệnh, chúng ta nghe như ngược đời chưa, biết thân này có bệnh nhưng tâm ta đâu bệnh. Như vậy, để thấy rằng các ngài không đồng hóa như chúng ta lầm lẫn, thấy chân đau, còn tôi không đau mới là thấy chân thật. Cái thấy chân thật ấy biết được cái đau, biết được chân đau, biết được bụng đau. Hiểu như vậy thì chúng ta đã làm chủ được phần nào trong cuộc sống này.

 Ngược lại, chúng ta cứ đồng hóa giận thì tôi giận, đau thì tôi đau, cứ đồng hóa như thế thì mình không làm sao điều khiển được chúng, không làm sao chuyển hóa chúng được. Thế cho nên, người tu phải sáng suốt nhận cho thật kỹ, khi gặp bệnh hoạn mới có thể làm chủ được sự đau đớn của thân này.

LÀM CHỦ CĂN Ý

 Ai đối với mọi hình ảnh, sự vật, sắc tướng bên ngoài, vừa thấy liền khởi niệm say mê, thích thú, rồi tác ý ưa thích nghĩ tưởng hình sắc đó, thế là lòng tham lam chìm đắm, say mê trong cảm thọ ấy. 

 Đứa thứ sáu là ý. Ý chúng ta tiếp xúc với pháp trần, trần này hơi thầm kín một chút. Khi chúng ta nhớ lại hình ảnh người hay làm khổ mình thì sinh tâm bực bội, ghét bỏ, nhớ lại hình ảnh người ta thương yêu trìu mến thì mình cảm thấy dễ chịu, nhẹ nhàng. Đó là đứa giặc thứ sáu làm chúng ta dính mắc vào đó.

 Có một tăng sĩ tu hành ở núi nhiều năm, một hôm có việc phải đi qua đò. Sau khi sang sông, cô chủ lái đò chỉ lấy mỗi người một đồng, riêng vị Tăng sĩ này cô ta lấy tới hai đồng. Vị đó mới thắc mắc tại sao cô lấy tiền tôi cao hơn mọi người, cô ta vừa nói, vừa cười, “tại vì thầy nhìn tôi chăm chăm, nên mới phải trả thêm một đồng”.

 Lúc về, vị thầy không thèm nhìn cô lái đò nữa mà cứ chăm chăm ngó xuống; nhưng lần này lại khác hơn, cô lái đò lấy bốn đồng, gấp đôi số tiền trước. Lần này, vị Tăng sĩ bực bội hơn, nên lớn tiếng nói, “cô tính trấn lột thầy tu sao?” Cô lái đò bình tĩnh đáp, “tuy lần này thầy không nhìn trực tiếp tôi, nhưng thầy nhớ nghĩ trong tâm hình bóng của tôi, nên phải trả gấp bốn lần là vậy đó”. 

 Trong kinh Tạp A Hàm, Phật đưa ra một ví dụ để nói về ý căn này: có một tử tù do phạm tội giết người nên bị án tử hình, vì nhà vua là một Phật tử thuần thành, nên có chính sách khoan hồng, hứa sẽ tha cho anh với một điều kiện duy nhất là anh phải bưng đĩa dầu đầy, đi khoảng đoạn đường dài ba cây số, mà không để rơi một giọt dầu nào, thì sẽ được miễn tội chết, nếu bất cẩn để dĩa dầu chao, dầu đổ chỉ một giọt thôi, thì tên đao phủ đi phía sau sẽ chém đầu anh liền.

 Kẻ tội nhân được tha với điều kiện đó, trong lòng vui tươi hẳn lên, nghĩ rằng mình có cơ hội thoát chết. Trên khoảng đường dài ba cây số đó, hai bên lề chỗ nào cũng có quán rượu, gái đẹp, cờ bạc, hút xách, đủ thứ trò ăn chơi hấp dẫn. Anh tử tội chăm chăm bưng đĩa dầu đi, không dám nhìn qua liếc lại, vì biết mạng sống của mình còn hay không là quyết định trong giờ phút này. Nếu để một giọt dầu tràn ra là bị tên đao phủ phía sau chém liền. Với tâm trạng mong cầu được sống rất mạnh mẽ trong lòng anh, kẻ tử tội đi hết con đường nhờ sự chú tâm cao độ vào đĩa dầu, nên dầu không bị đổ, và anh thoát tội chết.

 Qua câu chuyện ngụ ngôn trên, Phật dụ anh tử tội là chỉ cho mỗi người chúng ta, bởi ai rồi cũng phải chết, nếu không chết trẻ thì cũng chết già, trước sau gì cũng chết. Gái đẹp, quán rượu, những trò ăn chơi hấp dẫn chỉ cho tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, mặc ấm, ngủ nhiều mà ai cũng ưa thích. Đĩa dầu đầy, Phật dụ cho pháp tu. Người tu Tịnh độ nhiếp tâm vào câu niệm Phật, ví như đĩa dầu, không bao giờ dám lơ là, quên lãng. Người tu thiền an trụ tâm vào hơi thở, quán Tứ Niệm Xứ và buông xả các vọng niệm, không bao giờ dám lơi lỏng.

 Tên đao phủ đi sau lưng người tử tội, dụ cho con quỉ vô thường đang chực sẵn, cướp lấy mạng sống con người. Người tu biết rõ mọi thú vui trên cõi đời tuy hấp dẫn nhưng tạm bợ, mong manh, và sẽ làm hư hại con người, làm con người hao mòn sức khỏe, sinh bịnh hoạn, và dẫn ta càng ngày vào chỗ tối tăm, mờ mịt. 

 Người thấy hình ảnh sự vật mà không bị sắc làm dính mắc, đắm nhiễm ,tuy mắt thấy sự vật mà tâm vẫn an trú trong chánh niệm tỉnh giác, nên không bị thích thú hay ưa ghét làm chướng ngại, do đó bình tĩnh, thản nhiên, tự tại, giải thoát. Phật và Bồ Tát cứu khổ chúng sanh là làm sao cho chúng sanh dứt được mầm sanh-già- bệnh-chết, tức vô minh, phiền não. Đó là cái khổ lớn cần phải dứt trừ.

 Còn nghèo đói, thiếu thốn vật chất, chỉ là cái khổ nhỏ, chỉ cần ta biết gieo trồng phước đức, an ủi, giúp đỡ, sẻ chia mỗi khi có điều kiện. Phật nói, “nghèo đói chưa thật là khổ, trâu bò mang ách kéo cày chưa thật là khổ, bị thiêu đốt trong địa ngục cũng chưa thật là khổ, chỉ có người si mê, không biết lối đi mới thật là khổ. Vì còn mê lầm thì tạo nghiệp khổ dài dài không có ngày thôi dứt”.

 Chủ yếu của đạo Phật là giúp mọi người thoát khỏi luân hồi sanh tử. Đức Phật trước kia cũng ở trong cảnh giàu sang, quyền quí, vật chất quá đầy đủ, tại sao Ngài lại ưu tư, khắc khoải, rồi từ bỏ tất cả để vượt thành, xuất gia? Vì Ngài thấy rõ ngôi vua, quyền thế, của cải, chỉ là tạm bợ, mỏng manh, không thực chất lâu dài. Phật giác ngộ rồi, Ngài chỉ dạy lại để chúng ta tu, và được giải thoát như Ngài.

 Người Phật tử chân chính vì còn có gia đình, người thân, nên cần phải vừa tu, vừa làm việc từ thiện xã hội, như bố thí, giúp người, cứu vật.

 Cái thân hình mà mình lúc nào cũng lo lắng để nó được sung sướng, đầy đủ, lại là rừng tội lỗi. Phật dạy, “chúng ta phải luôn luôn thấy rõ như thế, để chuyển ba nghiệp thân-khẩu-ý cho thanh tịnh, để giải thoát được luân hồi sanh tử; thấy biết đúng như vậy là người giác, thấy ngược lại là người mê”.

 Trong kinh Bách Dụ có kể một câu chuyện như sau:

 Thuở xưa, có một ngôi nhà cũ bị bỏ hoang đã lâu, thiên hạ đồn có quỉ dữ trong ấy, mọi người ai cũng kinh sợ, không ai dám vào ngủ. Bấy giờ, có một người tự cho mình là can đảm, bèn tuyên bố, “tôi không sợ gì cả, chiều nay tôi sẽ vào nhà đó.”

 Quả thật chiều đến, người ấy vào nhà đó ngủ; đồng thời có một người khác cũng tự cho mình can đảm hơn người, và cũng xung phong vào nhà đó ngủ. Người này đến nơi, xô cửa để vào; người đến trước tưởng là quỉ đến xô cửa, bèn rinh tấm phên ngăn ngang cửa, không cho vào; người phía ngoài tưởng bên trong có quỉ, ráng sức xô cánh cửa cho bật ngã để vào đánh quỉ. Sau đó, người ấy xô ngã tấm phên sấn vào, hai người đánh nhau dữ dội cho tới sáng. Sáng ra, hai người thấy nhau rõ ràng, mới vỡ lẽ con quỉ mà mình đánh suốt đêm nay là người chớ không phải quỉ. Cuộc đánh đấm liền dừng ngang đây.

 Phật dụ sự lầm mê, chấp trước của con người là trời tối. Vì tối tăm, mê mờ, không thấy đúng lẽ thật, cái giả lầm tưởng là thật, cái thật lại không khéo nhận ra, do đó mà bị nhọc nhằn, khổ sở. Khi đã tỉnh giác, trí tuệ đầy đủ, thấy đúng lẽ thật, không còn lầm lạc, mê tối nữa, thì sẽ hết nhọc nhằn, khổ sở.

 Phật dạy trong Kinh A-hàm, “mỗi người tu chúng ta phải thắp ngọn đuốc trí tuệ của mình lên, và mồi ngọn đuốc này với chánh pháp của Phật. Tức là chúng ta nương tựa vào trí tuệ của Phật qua kinh, luật, luận. Chúng ta luôn ghi nhớ, huân tập mãi, thì trí tuệ sẽ sáng rỡ như Phật và Bồ Tát.

 Từ trước, chúng ta mê lầm, không nghe, không thấy, không biết. Giờ đây, ta nghe Phật dạy, phải luôn ghi nhớ, huân tập mãi cho thấm nhuần, thì sẽ sáng suốt, không còn lầm chấp đau khổ nữa. Như vậy, quí Phật tử thấy việc tu học đâu có gì khó khăn, chỉ cần phải hiểu cho đúng, rồi thực hành từ từ, đến khi thuần thục thì hoàn toàn giác ngộ, nên nói Phật pháp quí báu là vậy.

 Một hôm Tôn giả Phú Lâu Na đến đức Phật đảnh lễ, quì thưa, “bạch Thế Tôn, con muốn đến một chỗ vắng vẻ để tu, xin Thế Tôn dạy cho con phương pháp tu đơn giản, dễ nhớ, để con đến đó tu hành, mau được thành tựu viên mãn”.

 Phật dạy, “mắt thấy sắc không nhiễm trước, không dính mắc, là gần với Niết Bàn, tai nghe tiếng không nhiễm trước, không dính mắc, là gần với Niết Bàn, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân chạm xúc, không nhiễm trước, không dính mắc, là gần với Niết Bàn. Ngược lại, nếu nhiễm trước, nếu dính mắc, là xa với Niết Bàn. Đó là yếu chỉ”. 

 Sau khi Phật dạy sáu căn không dính với sáu trần là gần Niết Bàn, còn sáu căn dính với sáu trần là xa Niết Bàn. Phật hỏi tiếp, “ông đi đến chỗ nào?”

 “Bạch Thế Tôn, con qua nước phương Tây”.

 “Dân xứ đó hung dữ lắm, ông tới đó nếu họ mắng chửi, nhục mạ, thì ông sẽ thế nào?”

 “Bạch Thế Tôn, nếu người ta chửi mắng, nhục mạ con, con nghĩ dân xứ này còn lương thiện, vì họ mới chửi mắng, nhục mạ, chớ chưa dùng tay đánh, gậy đánh, chưa dùng đá ném con”.

 “Giả sử họ dùng tay đánh, dùng đá ném ông, thì ông sẽ nghĩ thế nào?”

 “Bạch Thế Tôn, nếu họ dùng tay đánh, họ dùng đá ném, con nghĩ dân xứ này vẫn còn lương thiện, vì mới dùng tay đánh, dùng đá ném, chưa dùng gậy đánh, chưa dùng dao chém con”.

 “Giả sử họ dùng gậy đánh, dùng dao chém, thì ông sẽ nghĩ như thế nào?”

 “Bạch Thế Tôn, nếu họ dùng gậy đánh, dùng dao chém, thì con nghĩ họ còn lương thiện, vì họ chưa giết con chết”.

 “Nếu họ giết ông chết, thì ông sẽ ra sao?” 

 “Bạch Thế Tôn, nếu họ giết con, con nghĩ dân xứ này quá tốt, vì đệ tử của Phật khi thấy thân này ô uế, bất tịnh, thì chán ngán nó, phải tìm người giúp cho nó chết, còn con không mượn mà họ lại giúp dùm con xả bỏ thân xác ô uế, bất tịnh này”.

 “Lành thay! Ông có đầy đủ khả năng và biết cách nhiếp phục để tâm được an tịnh, thì ông đến xứ ấy được”.

 Tôn giả Phú Lâu Na qua xứ ấy, chỉ tu trong ba tháng an cư thì chứng quả A La Hán, và độ được 500 người xuất gia.

 Tôn giả Phú Lâu Na thực hiện đúng như lời Phật dạy, là sáu căn không dính mắc sáu trần làm pháp tu trực chỉ, cộng thêm thái độ không giận hờn, không oán thù, vì thấy ai cũng là người thân của mình. Dù bất cứ mọi tình huống nào, trước mọi đối xử tệ hại của dân xứ đó thế nào, Ngài chỉ thấy họ đáng thương, nên chứng quả giác ngộ, giải thoát.

 Chúng ta bây giờ nếu có người tới kiếm chuyện gây lộn, rồi mắng chửi, hay đánh đập, chúng ta có thể bình tĩnh, sáng suốt, nhịn họ được hay không? Thêm một điều nữa, lâu nay Phật tử chúng ta cứ nghĩ rằng, mình có cái gì buồn, cái gì giận, khi giận nói tôi giận người đó quá, khi buồn nói tôi buồn người đó quá, như vậy quí vị cho rằng cái giận, cái buồn là tôi, là mình. Nếu giận là mình thì khi hết giận mình mất luôn phải không? Nếu hết giận chúng ta vẫn còn nguyên thì làm sao nói giận là mình được. Như vậy, giận không phải thật mình, buồn không phải thật mình. Đó chỉ là một phần nhỏ trong tâm mình thôi; nó sanh rồi nó diệt, mà chúng ta lại đồng hóa nó với mình.

 Từ cái mê lầm này, nên ta phải chịu khổ, cứ nghĩ mình thế này, mình thế kia. Sự thật, giận không phải là mình, đó chỉ là phản ứng của tâm sân mà thôi, còn cái ta chân thật lúc nào cũng trùm khắp, không phải cái sân đó đâu. Nếu nói sân là mình thì phải bảo vệ cái sân, nên khi giận ai, dù có người khuyên, “huynh tu hành rồi mà giận làm chi”, thì cũng bảo vệ cái giận của mình, “tại vì người đó làm dễ giận quá, nên tôi mới giận”. Bởi nghĩ thế nên cho cái giận của mình có lý, chấp và giữ cái giận của mình là đúng; buồn, thương, hờn, ghét cũng lại như thế.

 Chúng ta suy nghĩ xem, nếu giận là mình thì buồn không phải mình, thương không phải mình, ghét không phải mình; nhưng buồn, thương, giận, ghét, cái nào chúng ta cũng cho là mình cả. Như vậy, có mấy chục cái mình, đó là điều sai lầm. Nên biết buồn, thương, giận, ghét là những tâm sở tạm thời dấy động rồi mất, biết rõ như vậy mới có thể hàng phục nó, và có thể thắng nó được. Còn ta cho rằng nó là mình thì thôi hết hàng phục rồi, vì nó chính là mình thì hàng phục cái gì nữa. Đó là nói về nội tâm.

 Tuy ta có nhịn họ nhưng trong tâm vẫn nghĩ đây là kẻ ác hại người. Nhịn mà vẫn thấy đó là người ác, không phải là người lương thiện, có nghĩa là ta chỉ đè nén cho qua cơn giận thôi, chứ không phải mình thật sự buông xả.

 Với tôn giả Phú Lâu Na thì khác, ngài thấy tất cả mọi người đều là lương thiện, vì mới chửi mắng chứ chưa đánh đập; dù bị đánh đập ngài cũng thấy là lương thiện, vì họ chưa giết chết mình; khi họ giết ngài thì ngài cũng nghĩ họ lương thiện, vì giúp ngài sớm bỏ xác thân ô uến bất tịnh này.

 Chúng ta thấy rõ ràng chưa, người tu hành chân chính lúc nào cũng nhìn đời với con mắt duyên khởi, vô thường, vô ngã, nên đâu có buồn thương, giận ghét ai; dù bị hại tới chết, ngài vẫn không oán giận, thù hằn. Còn chúng ta nếu lỡ bị người ức hiếp, tuy mình không đánh trả lại, không nói ra lời, nhưng trong tâm vẫn còn cảm thấy buồn phiền, giận dỗi, lúc nào cũng ấm ức bên trong, nên tu hoài mà không đắc đạo là vậy đó.

 Thế cho nên, người tu hành chân chính cốt yếu là phải hiểu giáo lý đúng với tinh thần Phật dạy, là sáu căn không dính với sáu trần, đó là gốc của sự tu hành dẫn đến an lạc, giải thoát.

 Tôn giả Phú Lâu Na vâng lời Phật dạy đi đến xứ đó để tu cuối cùng chứng quả A La Hán, và độ được 500 người xuất gia.

 Phật dạy tu rất đơn giản và thiết thực, ngay nơi mắt thấy sắc không nhiễm trước, dính mắc, thì an nhiên, tự tại, giải thoát. Mắt chúng ta thấy hình ảnh, sắc tướng giả tạm, nhưng mình cho là đẹp, xấu, khen chê đủ thứ, thấy như vậy là xa với Niết Bàn.

 Như có ba cô cùng đi ra chợ mua vải về may, khi chọn vải để mua, kẻ thì chọn màu trắng, ngưòi thì chọn màu xanh, kẻ thì chọn màu vàng, mỗi người tùy theo sở thích của mình mà chọn mỗi màu khác nhau. Cô chọn màu trắng cho rằng màu trắng đẹp, trong sạch, quý phái; cô chọn màu xanh cho rằng màu xanh đẹp, nhẹ nhàng; cô chọn màu vàng cho rằng màu vàng sáng đẹp. Mỗi cô có mỗi cách hiểu và sở thích khác nhau. Vậy thực tế màu nào đẹp nhất? Màu nào cũng đẹp cả. Nếu mỗi cô đều chấp màu mình thích là đẹp nhất, thì có phải sẽ tranh cãi với nhau không? Nếu ai cũng khư khư cho rằng cái thấy của mình là đúng, rồi từ đó cứ chấp chặt vào đấy mà sinh cãi vả, cự nự, phiền trách lẫn nhau.

 Như vậy, nếu ta thấy màu vải của mình là đẹp rồi chấp chặt vào đó mà sanh nhiễm trước, dính mắc, rồi bảo vệ cái thấy của mình, thì nếu có ai nói khác đi với sự nhận thấy ấy thì cãi vả, chống đối kịch liệt mà chẳng ai chịu nhường cho ai, ai cũng dành phần mình là đúng. Từ bám víu, chấp trước, sinh ra oán giận, thù hằn, rồi từ đó ôm ấp nỗi khổ, niềm đau mà sinh ra đủ thứ phiền não, đã khởi phiền não sân hận thì làm sao tự tại, giải thoát?

 Cái nghe cũng vậy, nhiều người cùng nghe một bài nhạc, nhưng người khen kẻ chê, người thì nói bài này dở quá, kẻ thì cho rằng bài kia hay. Chúng ta cùng tu theo lời Phật dạy, người thì nói “pháp tôi đang tu cao, pháp chị tu thấp”, cùng lời Phật dạy mà ta khen chê đủ thứ. Pháp Phật không có cao thấp, chỉ tùy bệnh cho thuốc tùy theo căn cơ, trình độ hiểu biết mà Phật chỉ dạy cho phù hợp để được lợi ích thiết thực.

 Nếu ta cứ một bề cố chấp, cho rằng cái nghe của mình là đúng, rồi chấp chặt vào cái nghe của mình, mới dẫn đến cãi lộn và buồn phiền, giận hờn nhau.

 Người học đạo chân chính khi nghe mà chưa thông suốt, thì phải thưa hỏi, tìm cầu nghĩa lý, sau đó nghiền ngẫm, quán chiếu, tư duy. Nhờ vậy, ta không cố chấp vào cái nghe của mình mà biết buông xả, do đó được an lạc, giải thoát.

 Thông thường hương thơm thì mũi ai cũng thích muốn ngửi, gặp mùi hôi thì mũi mình cảm thấy khó chịu, rồi sinh ra càm ràm; cũng là cái ngửi của mũi, nhưng có người này khen thơm, kẻ khác lại chê hôi.

 Chẳng hạn như người từng ăn sầu riêng thì khen sầu riêng thơm ngon, còn người không quen ăn sầu riêng thì chê sầu riêng hôi. Vậy thơm hay hôi là do sở thích của mỗi người, mùi sầu riêng bản chất của nó là như vậy, mà người thì khen thơm, kẻ lại chê hôi.

 Như tôi khi còn nhỏ khoảng chín mười tuổi, thấy ai đạp máy, chạy xe Honda, tôi liền nằm sát đất để hít khói xe, vì tôi cho đó là thơm. Người khác nghe khói xăng thì chê là hôi. Cũng vậy, thơm hay hôi tùy theo sở thích sai biệt của mỗi nguời, nó không cố định một chiều. Nếu ta cứ một bề chấp chặt vào đó mà sinh ra tranh cãi thì sân-si, oán giận, thù hằn dấy khởi, bao nhiêu thứ phiền não, khổ đau cứ thế mà chất chồng, làm sao an vui, hạnh phúc được ?

 Thứ nữa là lưỡi, lưỡi nếm vị, cùng ăn một món mà người khen ngon, kẻ chê dở. Nếu người quen ăn lạt thì khi ăn món gì hơi mặn sẽ thấy khó chịu, chê dở liền; kẻ quen ăn mặn thì lại khen ngon. Tại sao cũng là món ăn đó mà người chê dở, kẻ khen ngon là sao? Đó là thói quen nếm vị của mỗi người có khác. Có nhiều người bị bệnh gan, hễ món nào có dầu mỡ nhiều thì họ khen ngon, và cố tình ăn nhiều, nên tốn tiền mà mau chết là vậy đó.

 Chẳng hạn như mẹ chúng tôi quen ăn mặn, cha tôi thích ăn lạt, mỗi khi nấu đồ ăn mẹ tôi phải chia ra làm hai phần, nhờ vậy bữa ăn trong gia đình được êm thấm, chỉ mỗi người biết nhịn một chút là yên vui ngay.

 Chúng ta thấy khẩu vị của mỗi người không ai giống ai, nên nếu mình cứ chấp chặt vào đó, sẽ sinh ra tranh cãi, mà tranh cãi thì giận hờn, phiền não, khổ đau bắt đầu có mặt, nên xa Niết Bàn.

 Bây giờ đến thân xúc chạm. Thân xúc chạm mỗi người cũng không giống nhau. Bản thân tôi trong nhiều năm qua, do thân thể bệnh hoạn, mất đi năng lực đề kháng, nên tôi cảm thấy trong người lúc nào cũng mệt mỏi, lạnh lẽo và khổ sở vô cùng. Ở Thiền Viện gần 20 năm mà tôi chẳng dám xài quạt máy, chẳng dám đụng nước, nắng không ưa mát không chịu vậy mà vẫn bệnh hoài không hết.

 Quý thầy khác sức khỏe bình thường, nên trời nóng nực quá phải dùng quạt máy hoặc đi tắm, còn tôi có khi không tắm cả tuần lễ. Việc của tôi đang làm là chụm lò bằng trấu, dơ, bụi, nóng, mà tôi vẫn trùm khăn mền bít kín.

 Đây không phải là sở thích của tôi mà do nghiệp báo xấu chiêu cảm, muốn sống bình thường như quý thầy mà không được. Có thời gian tôi bệnh nặng quá, huyết áp lên thường xuyên từ 21/11 đến 22/11, hoặc 22/12, người thì lạnh tanh như xác chết vậy đó, mệt mỏi, oằn oại, mất trí nhớ, khổ đau tột cùng.

 Lúc này, tôi nghĩ rằng mình sẽ chết hay bị đột quỵ, nên tôi buông xuôi, tìm sự khuây khỏa tâm hồn cho qua ngày tháng. Tôi đi các quán uống cà phê, nhìn người đánh cờ tướng để giải stress cho qua ngày tháng, có lúc đi cạo gió, giác hơi cho đỡ mệt mỏi, vì mình mẩy đau nhức rã rời gần như không chịu nổi.

 Nhưng do phước tôi còn, các bác sĩ khám bệnh đều lắc đầu vì chưa từng thấy người nào bị huyết áp cao như tôi, vậy mà vẫn còn sống và làm việc bình thường.

 Tuy thân thể đau đớn, oằn oại như vậy, nhưng tôi vẫn hướng tâm cao độ vào những người bất hạnh, đang đói tình thương, đang cần các bàn tay rộng mở, và tôi đã làm công việc này trong nhiều năm qua. Cho đến bây giờ, tôi vẫn là người nấu cơm để phục vụ đại chúng trong Thiền Viện.

 Thân thể và nghiệp báo của mỗi người có khác, nên khi thân xúc chạm cũng không giống nhau, người thì thích êm ái, nhẹ nhàng, kẻ thì thích trơn, láng. Vậy xúc chạm cũng không đúng sự thật, còn tùy theo cảm xúc của mỗi người, nhưng đa số đều thích cảm giác khoái lạc, nên nam nữ lớn lên rồi yêu nhau cũng vì cảm xúc khoái lạc đó.

 Người tu hành chân chính thường xuyên quán sát thân này vô thường, bại hoại, nên già-bệnh-chết mà cố gắng tu hành, không chấp trước, do đó mà gần với Niết Bàn.

 Như vậy, mắt-tai-mũi-lưỡi-thân chúng ta xúc chạm với sắc-thinh-hương-vị-xúc, mỗi người đều cho cái thấy của mình là đúng, rồi chấp chặt vào đó, sinh ra tranh cãi, gây biết bao thứ phiền não cho nhau, nên không được an lạc, hạnh phúc.

 Nếu ta không chấp chặt, không cho cái thấy biết của mình là đúng, không cho cái thấy biết của nguời khác là sai, thì làm sao dấy khởi tham-sân-si mà sinh phiền muộn, khổ đau. Không phiền não thì gần với Niết Bàn.

 Vậy chúng ta muốn tự tại, giải thoát, thì sáu căn tiếp xúc với sáu trần không dính nhiễm là gần với Niết Bàn, tu như vậy mới thật thích vì trong lòng được an nhiên.

 Trong kinh Tương Ưng Bộ, Phật lại dùng một thí dụ khác là biển, Ngài dạy, “bậc Thánh thấy mắt là biển, sắc trần là sóng, tai là biển, thanh trần là sóng, mũi là biển, hương trần là sóng, sáu căn là biển, sáu trần là sóng. Nếu ai kham nhẫn nổi những đợt sóng vùi dập của sáu trần là sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp, thì người ấy ắt qua được biển lớn, là sang được tới bờ bên kia, tức giải thoát sanh tử."

 Chúng ta thấy, chìa khoá mở cửa cho người tu học Phật giải thoát ngay tại nơi thân này. Khi ta tiếp xúc với sáu trần mà không bị chao đảo, thì con thuyền trí tuệ của chúng ta đủ sức vững vàng để hướng thẳng tới bờ giải thoát.

 Tuy nhiên, nói nghe thì dễ nhưng ta hành trì suốt cả đời cũng chưa xong. Dù sao, ta hiểu đúng, hành đúng, thì con đường giải thoát ở ngay nơi bên mình, bằng cách thấy tất cả các pháp do duyên khởi, nên không thật có, từ đó ta không chấp chặt vào một đối tượng nào thì an nhiên, tự tại, giải thoát.

 Có nhiều vị tu rất đáng thương. Nghe nói ăn chay là người tu hành chân chính nên bắt đầu ăn chay, nhưng không đủ phương tiện, thành ra xanh xao, ốm yếu, gầy gò, trông rất tội nghiệp; lại nghe người ta quở “ăn chay ốm quá”, từ đó sanh buồn, nhưng không dám bỏ ăn chay, sợ mất công đức tu hành của mình.

 Do ức chế như vậy lâu ngày, nên ai nói động tới liền tức giận, ai chọc tới liền phiền muộn, khổ đau, cứ buồn thương, giận ghét hoài, thì ăn chay có lợi ích gì? Đó chỉ là giỏi ăn chay thôi chớ không giỏi tu hành chuyển hóa. Tu là đừng dính nhiễm, chấp trước, khi nghe ai khen chúng ta chớ vội mừng, khi nghe ai chê chúng ta chớ vội buồn, thấy đẹp đừng ưa thích, thấy xấu đừng ghét bỏ.

 Tất cả sáu căn không dính nhiễm sáu trần, đó là ta biết cách tu theo lời phật dạy. Nhiều người vì việc ăn chay của mình nên khi đến nhà ai, cầm đôi đũa ngửi hơi tanh liền buông đũa xuống, lắc đầu, không thèm ăn. Đó là ta còn dính nhiễm và chấp mắc hơn thiên hạ nữa.

 Tăng Ni Phật tử chúng ta được phước duyên lớn, nên ngày nay biết thức tỉnh để tu hành, bỏ hết mọi sự trói buộc của thế gian mà cầu giác ngộ, giải thoát. Vì vậy, chúng ta cần phải nắm cho vững, hiểu cho thấu đáo lời Phật, lời Tổ, để mình biết cách ứng dụng vào đời tu, như vậy mới không uổng công, vô ích.

 Tóm lại, chúng ta tu hành trước là muốn cầu giác ngộ, giải thoát, sau là cứu độ tất cả chúng sinh, vậy ta phải khôn ngoan, sáng suốt, đừng để sáu căn dính mắc với sáu trần thì Niết Bàn kế bên.

 Chúng tôi mong rằng, người Phật tử chân chính hãy ý thức việc tu hành của mình, đừng để cho lui sụt, đặng sau này giúp người, cứu vật. Đó là ta biết lợi mình, lợi người, hay tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Có như thế, ta mới xứng đáng dự vào hàng bậc hiền Thánh của Như Lai.

 Người tu muốn được Niết Bàn giải thoát thì đối với sắc-thanh-hương-vị-xúc phải xa lìa, chớ có đuổi theo, chớ có nhiễm trước, dính mắc. Ngược lại, đối với năm trần mà đuổi bắt, chấp trước, thì khó mà đến Niết Bàn; Niết Bàn càng ngày càng xa.

 Sau khi Phật thành đạo dưới cội Bồ Đề, Ngài có cái thấy thông suốt mọi hiện tượng, sự vật, nên nhìn xuống đầm sen, thấy có những hoa đang trổ ra, tỏa hương thơm ngát, có hoa đang còn búp, có hoa mới ngoi lên khỏi mặt nước, có cái còn là ngó sen ở dưới bùn…, nhưng Phật kết luận rằng, tất cả những hoa sen đó rồi cũng sẽ trổ hoa thơm, đẹp như nhau.

 Chúng ta thấy, đức Phật nhìn đời hết sức lạc quan, không có tâm niệm thương yêu hay ghét bỏ. Dầu là những ngó sen còn nằm dưới bùn hôi, nhưng Ngài cũng thấy nó sẽ trồi lên mặt nước, sẽ trổ hoa đẹp và cung cấp hương thơm cho cuộc đời.

 Cũng vậy, ai có cái nhìn duyên khởi sẽ thấy tất cả chúng sinh đều là một đóa hoa sen đẹp và thơm ngát. Người mới phát tâm tu ví như hoa sen vừa ra khỏi bùn, người chưa phát tâm tu ví như hoa sen còn ở dưới bùn.

 Ai đã tu hành tiến bộ kha khá ví như hoa sen vừa trồi lên khỏi mặt nước, người đang tu hành nửa chừng ví như hoa sen còn nằm trong nuớc. Những ai cố gắng tu, tất cả đều sẽ thành Phật trong tương lai; do thấy như vậy nên đức Phật đem hết khả năng ra giáo hóa cho tất cả mọi người, tùy theo căn cơ mà giúp đỡ. Ngài đã giáo hóa, mở rộng lòng từ bi thương xót đối với nhân loại rồi, còn dặn dò bốn chúng đệ tử sau này phải tích cực truyền bá rộng rãi, để ngọn đèn chánh pháp được soi sáng mãi ở thế gian.

 Một số người vì thấy thế gian này quá bất hạnh, đau khổ, người xấu nhiều quá, nên có tâm trạng bi quan, chán chường, và phát nguyện tu mau về cõi Cực Lạc, làm cư dân Phật A Di Đà, chớ không thèm ở lại cõi Ta Bà này nữa.

 Vì họ quan niệm rằng, Ta Bà khổ; nhưng họ không biết rằng, cõi Cực Lạc không khổ, không vui, có nghĩa là đồng với Niết Bàn. Nhân chưa đầy đủ thì làm sao cho ra kết quả trọn vẹn được. Người Phật tử chân chính phải nên chín chắn suy nghĩ kỹ chỗ này kẻo hiểu lầm lời Phật dạy.

 Trong kinh A Di Đà, Phật nói rõ ràng, ai tu nhất tâm bất loạn từ một ngày cho đến bảy ngày, thì Phật sẽ rước. Đạo Phật là đạo của nhân quả trên nền tảng tương xứng, bình đẳng, chúng ta không thể lấy một chút phước nhỏ mà đòi quả lớn thì e rằng không được.

 Phật dạy người có nhiều đức tính tốt thường xuyên làm lợi ích cho nhân loại đó là bậc thầy ta, ta hãy nên bắt chước học và làm theo những cái hay của họ. Người khác có cái dở hơn ta cũng là bậc thầy của ta, cho nên ta cũng phải học để không mắc phải sai lầm. Thầy hay, chúng ta bắt chước học và làm theo, thầy dở, chúng ta học để tránh không gây ra những lỗi lầm đáng tiếc.

 Cũng vậy, khi phát tâm tu hành, người trợ giúp phương tiện để ta tiến tu là bậc thiện hữu tri thức, còn người làm chướng ngại gây phiền hà cho ta cũng chỉ để thử thách coi mình tu có tiến hay không mà thôi. Người giúp phương tiện chỉ dạy là sách tấn mình tu từ từ, người làm trở ngại để thử thách sẽ giúp mình thăng tiến nhanh hơn, cả hai đều là Bồ Tát thuận hạnh và nghịch hạnh để giúp mình tiến tu, nên trong hai người ta đều phải mang ơn hết.

 Chỉ có người hèn yếu, không dám can đảm nhìn rõ mọi vấn đề cho tường tận, tu gặp nghịch cảnh, chướng duyên, lẽ ra phải tìm cách thắng nó cho bằng được, thì lại không hài lòng, vừa ý. Mình tu là phải quyết tâm mạnh mẽ để không cho sân-si nổi lên mới thực là tu.

 Hiểu như vậy, ta mới thấy mình tu có tiến được hay không là do cách nhìn của mình có thực đúng như lời Phật dạy, nếu nhìn không đúng thì việc tu hành cũng bị lệch lạc theo thời gian. Người phát tâm tu ai cũng muốn chuyển hóa tham-sân-si thành vô lượng trí tuệ từ bi. Vậy mà đa số người tu khi gặp chướng duyên cứ trách móc thiên hạ, đổ thừa hoàn cảnh, “tôi muốn tu mà ma quỷ cứ phá tôi hoài”, chứ không biết chính mình không thật tu, hoặc tu còn quá yếu, nên phiền não, tham- sân-si còn hoài. Nếu nói theo đạo lý chân thật thì thế gian này không ai có thể phá mình cả, chỉ có ta tự làm cho ta lui sụt mà thôi.

 Trong cuộc đời này không có cái gì ở bên ngoài hại ta cả, chỉ có mình không làm chủ được bản thân. Nếu biết rõ ràng mọi thứ tai họa từ tham-sân-si nơi mình chứ không phải do ai khác, thì ta sẽ biết cách chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, hạnh phúc. 

 Khi Phật còn tại thế, một ngoại đạo đã chứng được ngũ thông, giảng pháp rất hay, đến nỗi trời Đế Thích phải xuống nghe. Pháp thoại vừa xong, trời đế Thích mới khóc, vị ngoại đạo ấy hỏi nguyên do. Đế Thích nói, “thầy đã sắp hết tuổi thọ, nên tôi rất lấy làm tiếc nuối mà khóc thương cho thầy thôi”.

 Vị đó nghe vậy mới hỏi tiếp, “có ai ở trần gian này có thể giúp tôi thoát ly sinh tử không?” Đế Thích nói, “thầy hãy đến tịnh xá Kỳ Viên gặp Phật Đà, Người sẽ làm được điều đó”. Mừng quá, ông cám ơn trời Đế Thích, rồi vận thần thông bay đi. 

 Trên đường gần tới tịnh xá, ông thấy hai cây hoa đẹp quá, liền nhổ chúng đến cúng dường Phật. Khi thấy ông đến, hai tay cầm bó hoa, Phật liền bảo, “buông!”. Ông ta buông tay trái, bó hoa rớt xuống đất. Phật lại bảo, “buông!”. Ông ta buông tay phải, bó hoa kia cũng rớt xuống đất. Phật lại bảo buông tiếp. Ông ta ngơ ngác đứng nhìn và thưa rằng, “bạch Thế Tôn, con đã buông cả hai tay rồi, còn gì nữa đâu mà buông?” Nhân khi đó, Phật dạy, “Như Lai bảo ông buông lần thứ nhất là dạy ông buông bỏ sáu căn, lần thứ hai Như Lai dạy ông buông bỏ sáu trần, lần thứ ba Như Lai dạy ông buông bỏ sáu thức”. Ngay câu nói đó, vị ngoại đạo liền được thoát ly sinh tử, không còn sống chết nữa.

 Chỉ đơn giản vậy thôi, Phật chỉ bảo ba lần buông làm cho ông ngơ ngác, vì trên tay chỉ có hai bó hoa. Ông đang thao thức tìm cách giải thoát sống chết, nên bao nhiêu tâm trí đều dồn vào đó, Phật chỉ khơi nhẹ làm ông tỉnh thức, buông xả ý thức chấp ngã mà thành tựu Niết Bàn.

 Ngoại đạo đó đã tu chứng ngũ thông, tức gần kề bên bờ giải thoát, nhưng do còn ý thức chấp ngã, thấy mình có tu, có chứng, nên còn dính mắc, không thể thoát khỏi sống chết. Nhờ Phật khai thị, ông ta buông xả kiến chấp, liền thoát ly sống chết.

 Người chứng ngũ thông có những diệu dụng như sau:

 _ Tha tâm thông: là thấy biết được tâm tư của người khác đang suy nghĩ và mong muốn gì.

 _ Thiên nhãn thông: là thấy được tất cả chúng sinh luân hồi sống chết, thăng lên lộn xuống trong ba cõi sáu đường, như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, nghiệp quả do chính mình tạo lấy, mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau, không ai có quyền ban phước, giáng họa.

 _ Túc mạng thông: nghĩa là nhớ lại được vô số kiếp về trước mình đang làm gì, ở đâu?

 _ Thần túc thông: là biến hóa khôn lường, có thể chui vào lòng đất, bay lên hư không, mà không bị sự ngăn ngại nào.

 _ Thiên nhĩ thông: nghe được âm thanh lớn nhỏ, gần xa.

 Mắt ta thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý phân biệt, cái gì thích thì bám víu, chạy theo, cố tâm tìm cách chiếm đoạt, cái gì không ưa thì ghét bỏ. Đối với người Phật tử, mắt cũng cần thấy mọi hình ảnh, sự vật, tai cũng cần nghe mọi âm thanh lớn nhỏ, êm dịu, hoặc hằn học, nặng nề, tuy vẫn thấy nghe, hay biết, nhưng không bị nó làm nhiễm ô, say đắm, mê muội.

 Đạo Phật khuyên chúng ta không nên dính mắc, đắm say quá đáng vào thấy nghe, hay biết, để được bình yên, hạnh phúc. Trong thực tế, bản chất của sáu trần vốn không có lỗi. Cái lỗi lớn nhất là do tâm phân biệt, thương ghét, vọng tưởng điên đảo của con người. Con người vì đắm nhiễm, dính mắc sáu trần mà gây ra nỗi khổ, niềm đau, nên mãi trôi lăn trong luân hồi sanh tử.

 Mắt vẫn thấy sắc mà thường biết rõ ràng, sự việc như thế nào thì thấy biết như thế ấy; tai vẫn nghe tất cả mọi âm thanh, nhưng không khởi tâm phân biệt, vừa ý hay không vừa ý, mà nghe chỉ là nghe; mũi vẫn ngửi mùi thơm hôi đều không khen chê hay đắm nhiễm; đó là ta biết cách làm chủ bản thân qua sáu giác quan để sống đời bình yên, hạnh phúc. 

 Kế đến, chúng tôi dẫn kinh Lăng Nghiêm để làm niềm tin cho tất cả quý vị hiểu rõ ràng, thấu đáo, mà áp dụng hành trì, chuyển hoá. Tôn giả A-Nan hỏi Phật, “ bạch Thế Tôn, cái gì là căn bản của luân hồi sanh tử, cái gì là căn bản của Bồ Đề Niết Bàn?”

 Khi Ngài hỏi câu này, đức Phật Thích-ca chưa trả lời, thì mười phương chư Phật khác miệng đồng lời nói rằng, “Này A-nan, cội gốc của căn bản phiền não, luân hồi sanh tử chính là sáu căn của ông. Cội gốc của Bồ Đề Niết Bàn cũng chính là sáu căn của ông”.

 Rõ ràng, không riêng gì đức Phật Thích Ca nói sáu căn là gốc của luân hồi sanh tử, sáu căn là gốc của Bồ Đề Niết Bàn, mà mười phương chư Phật khác đều miệng đồng lời phát ra những lời lẽ chân thật như thế.

 Do đó, chúng ta tu phải làm sao để chính mình dứt hết gốc luân hồi sanh tử, mà đạt được tự tại, giải thoát. Muốn vậy, ta phải làm sao? – phải không cho ý nghĩ dong duỗi, chạy Đông, chạy Tây, đó là gốc của sự tu; còn nếu ta vẫn bị phiền não kéo lôi, vẫn đi trong luân hồi sanh tử, thì sự tu đó không có công hiệu. Như vậy là uổng cơm của đàn na thí chủ. Muốn cho có công hiệu, không uổng cơm của đàn na tín thí, thì ta phải biết rõ sáu căn là cội gốc của sanh tử, đừng để cho nó dính, đừng để cho nó nhiễm. Có thế, chúng ta mới đúng là người tu cầu giải thoát sanh tử.

 Sáu căn từ đâu mà ra? - Nó sẵn có nơi chúng ta, mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý ở ngay thân mình chớ có xa đâu, chỉ cần đừng để dính nhiễm là ta đã khéo tu rồi. Nếu chúng ta ăn chay khắc khổ, tụng kinh rất nhiều, mà hễ ai động tới liền nổi sân, thấy cái gì đẹp thì ưa thích, tu như vậy biết chừng nào mới thành tựu đạo pháp.

 Mắt thấy sắc đẹp liền mê thích, đắm say; tai nghe tiếng không vừa ý liền sinh bực bội; như vậy là chưa gỡ được các căn dính với các trần, chưa gỡ được thì làm sao chúng ta giải thoát sanh tử; nên trên đường tu, chúng ta phải cố gắng, nỗ lực, phải làm sao gặp cảnh buồn vui, tốt xấu, mình vẫn an nhiên, tự tại. Đó mới là giải thoát thật sự. Nếu chỉ có hình thức, không giữ được sáu căn của mình, thì khó giải thoát.

 Kính mong rằng, tất cả chúng ta ai cũng ý thức việc tu hành của mình, bằng cách làm chủ bản thân ngay nơi thân-miệng-ý.


© 2008 -2024  Phật Học Online | Homepage