Phật Học Online

Ki-Tô giáo: Công giáo và Tin Lành - Bản chất và thực chất - Một khảo luận qua các tài liệu
Trần Chung Ngọc

Đây chỉ là vài nét về bản chất và thực chất của Ki Tô Giáo, Công giáo cũng như Tin Lành. Không ai có thể viết hết về Ki Tô giáo trong một bài viết thuộc loại này. Thời buổi này mà chúng ta vẫn còn nghe thấy những luận điệu như những bài viết thuộc loại nghiên cứu lịch sử này là “chống Công giáo”, “chống Tin Lành”, hay “chia rẽ tôn giáo” hay “theo sách lược đánh phá Ki-tô giáo của Cộng sản” của một số tín đồ Ki Tô giáo Việt Nam cuồng tín.

Sự Kiện: 

    "Trải qua nhiều thế kỷ, sự sùng tín Thánh Kinh đã dẫn tín đồ Ki Tô trong một niềm tin mù quáng, trong sự khủng bố, ngược đãi  người  Do  Thái  và những  người  phi-Ki-Tô,  giết  hại  và khủng bố, áp bức phái nữ, đè nén dục tính, kiểm duyệt,  tạo tâm  lý  sùng tín,  và nhiều lầm lạc khác.  Những mô thức hành xử có tính cách hủy diệt này, người ta có thể thấy dễ dàng là chúng bắt nguồn từ sự tin  vào quyền  năng tuyệt đối của những điều viết trong Thánh Kinh."

Mục sư Ernie Bringas trong cuốn

Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và Hiện Tại Bởi (Tin Vào) Quyền Năng Của Cuốn Thánh Kinh

    [Over the past centuries, bibliolatry has led Christians in  bigotry,  the  persecution   of   Jews  and   other  non-Christians, murder and terrorism, the oppression of women, the suppression of sexuality, censorship, cult mentality, and other aberrations.  The  destructive  behavior  patterns can be easily traced to the unchallenged authority accorded biblical writing.]

Ernie Bringas in

Going By The Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority, p.17

 

     " Nhân danh Chúa Ki Tô hàng triệu nam nữ đã bị tù đầy, tra tấn và giết hại, hàng triệu người đã bị làm nô lệ.   Nhân danh hắn những tư tưởng gia, khảo cứu gia, bị coi như là những kẻ tội phạm, và những tín đồ theo hắn đã làm đổ máu của những người thông thái nhất, giỏi nhất. 

   Nhân danh hắn sự tiến bộ của nhiều quốc gia bị chặn đứng  cả  ngàn  năm… Phúc âm của hắn chất đầy thế giới với thù hận và trả thù, coi sự lương thiện trí thức như một tội ác, hạnh phúc trên cõi đời là con đường dẫn xuống địa ngục, tố cáo tình thương yêu như là thấp hèn và như súc vật, thánh hóa sự nhẹ dạ cả tin, tôn vinh sự mù quáng và tiêu diệt tự do của con người.  Nhân loại sẽ tốt hơn nhiều nếu cuốn Tân Ước chưa từng được viết ra - Chúa Ki Tô theo quan niệm thần học cũng chưa từng được sinh ra."

Robert G. Ingersoll trong cuốn

Ingersoll, Con Người Phi Thường

   (In Christ name millions and millions of men and women have been imprisoned, tortured and killed.  In his name millions and millions have been enslaved.  In his name the thinkers, the investigators, have been branded as criminals, and his followers have shed the blood of the wisest and the best.  In his name the progress of many nations was stayed for a thousand years.  His gospel filled the world with hatred and revenge, made intellectual honesty a crime, made happiness here the road to hell, denounced love as base and bestial, canonized credulity, crowned bigotry and destroyed the liberty of man.

   It would be far better had the New Testament never been written - far better had the theological Christ never lived.)

Robert G. Ingersoll in Ingersoll, The Magnificient, p. 117

 

“Toàn thể cấu trúc của Giáo hội Công giáo La-mã được xây dựng trên những ngụy tạo, những lá thư tông đồ giả mạo, những bài giảng giả mạo, những phép lạ giả mạo, những di tích (của các Thánh) giả mạo, những công đồng giả mạo, và những sắc lệnh giả mạo của các giáo hoàng.”

Cựu Linh mục dòng Tên Peter Doeswyck

   [The entire structure of the Roman Church is built on forgeries, spurious epistles, spurious sermons, spurious miracles, spurious relics, spurious councils, and spurious papal bulls.]

Ex-Jesuit Priest, Peter Doeswyck

 

Phần I. CÔNG GIÁO:

Vài Lời Nói Đầu: 

      Ngày Chủ Nhật 12 tháng 3, 2000,  trong một cuộc “Thánh lễ” công cộng tại "Thánh đường" Phê-rô, trước nhiều chục ngàn con chiên, người Chủ Chiên, Đức “Thánh cha” Gion Pôn Hai (John Paul II), đại diện cho "hội Thánh" Công giáo gồm gần một tỷ tín đồ, trong đó có khoảng 5 triệu tín đồ Việt Nam, đã chính thức “xưng thú 7 núi tội ác” đối với nhân loại của Công giáo, một tôn giáo tự nhận là “thiên khải”, “duy nhất”, “thánh thiện”, “mầu nhiệm”, “tông truyền”, “vương quốc của Thiên Chúa”, “cao quý”, “ánh sáng của nhân loại” v…v…, và xin thế giới tha thứ cho những hành động phi Thánh phi phàm, đặc thù Công giáo, của những con cái “hội thánh” Công giáo.  Những núi tội ác này, qua gần 20 thế kỷ, đã đưa đến những thảm họa to lớn cho nhân loại như “Thánh Chiến” (sic), Tòa Hình Án xử Dị Giáo, Săn lùng và thiêu sống phù thủy,  kỳ thị phái nữ, xâm lăng văn hóa, ý muốn thống trị và thái độ thù nghịch đối với những tôn giáo khác, bách hại dân Do Thái, gây chia rẽ trong cộng đồng Ki Tô, liên kết với những thế lực thực dân, phát xít v...v... như đã được nhắc tới hết sức đại cương trong những lời xưng thú 7 núi tội ác của Công Giáo.

   Đây không phải là lần đầu tiên Giáo hoàng xưng thú tội lỗi của Công giáo.  Người ta ghi nhận, trong thời gian 21 năm ở ngôi vị giáo hoàng, Ngài đã xin lỗi  hơn 100 lần về những tội ác chuyên biệt liên hệ đến Giáo hội. (Chicago Tribune, March 13, 2000: By some counts he has already apologized for specific sins linked to the church on more than 100 occasions during his 21- year pontificate).  Nhưng lần này, sự xưng thú 7 núi tội ác của Giáo hội Công giáo có tầm mức rộng lớn hơn những lần trước rất nhiều, vì nó bao quát, tuy không đầy đủ, 7 núi tội ác chính của giáo hội Công giáo đối với nhân loại trong suốt 2000 năm qua, đặc biệt là trong thiên niên kỷ thứ hai, theo Thường Lịch.

    Các tín đồ Công giáo, nhất là tín đồ Công giáo Việt Nam, bèn ca tụng hành động của Tòa Thánh là một hành động can đảm chưa từng có trong giáo hội, theo luận điệu diễn giải của giới chăn chiên dạy các con chiên có đầu nhưng không có óc.  Giết người, tra tấn người, thiêu sống người, ăn cướp, chiếm đoạt tài sản của người v…v…. rồi thú tội mà gọi là một hành động can đảm thì chỉ có người Công giáo Việt Nam mới có cái can đảm như vậy.  Sau này, vào một cơ hội thuận tiện nào đó, Giáo hội Công Giáo Việt Nam có xưng tội với dân tộc về tội phản quốc của Công giáo vì đã giúp thực dân Pháp thiết lập được nền đô hộ ở Việt Nam, và những hành động man rợ cướp phá miếu mạo chùa chiền, giết người ngoại đạo, săn lùng kháng chiến v..v…thì có lẽ cũng có thể coi đó là một hành động can đảm, theo đúng tinh thần ăn năn tự kiểm của Công giáo, hay để “thanh tẩy ký ức” (purify the memory).

       Nhưng dù giáo hội có giải thích hành động xưng thú tội lỗi của Giáo hội Công giáo như thế nào đi chăng nữa, là hành động can đảm hay theo đúng tinh thần tự kiểm ăn năn thống hối của Công giáo, là để thanh tẩy ký ức hay để tiến tới sự hòa hợp tôn giáo v…v…, các tín đồ Công giáo, từ Giáo hoàng trở xuống đến những “bà lão Công giáo nhà quê” (từ của Linh mục Thiện Cẩm) hãy trả lời cho tôi câu hỏi sau đây:  

    Tại sao một giáo hội do chính Chúa thành lập, thường tự xưng là "thánh thiện", là "ánh sáng của nhân loại", là quán quân về "công bằng và bác ái", được "thánh linh hướng dẫn" v...v..., mà giáo hội mẹ cũng như các giáo hội con như Tây Ban Nha dưới thời Franco, Croatia dưới thời Palevich, Việt Nam dưới thời Ngô Đình Diệm v…v… lại có thể phạm những tội ác vô tiền khoáng hậu trong suốt 2000 năm nay đối với nhân loại và đối với chính dân tộc của mình như vậy?  trong khi các đạo khác, thí dụ như đạo Phật, thường bị Ki Tô Giáo chụp cho cái mũ vô thần lên đầu, lại không hề làm đổ một giọt máu hoặc gây nên bất cứ một phương hại nào cho con người trong quá trình truyền bá trải dài hơn 2500 năm, từ trước Ki Tô Giáo hơn 500 năm

    Từ nhiều năm nay tôi và tuyệt đại đa số người dân Việt Nam vẫn chờ đợi câu trả lời, nhưng Công giáo vẫn cúi mặt giữ thái độ “im lặng là vàng”.  Đi vào chi tiết, những lời xưng thú 7 núi tội ác của giáo hội, được  5 Hồng Y và 2 Tổng Giám mục long trọng tuyên đọc tại Thánh đường Phê-rô,  Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận được hân hạnh đọc lên những lời xưng thú tội ác trong mục chống lại công lý và hòa bình v...v... của “hội Thánh” Công giáo.  Giáo hoàng và ban tham mưu thần học của ông đưa ra những lời xưng thú tội ác tổng quát trong 7 mục sau đây:

 1.  Xưng thú “tội ác chung”.

2.  Xưng thú tội ác trong khi phục vụ “chân lý””.

3.  Xưng thú “tội ác đưa đến sự chia rẽ giữa các tín đồ Ki Tô”.

4.  Xưng thú “tội ác trong sách lược bách hại dân Do Thái”.

5.  Xưng thú tội ác trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển”.

6.  Xưng thú “tội ác trong sự kỳ thị phái nữ, coi thường phẩm giá phụ nữ”.

7.  Xưng thú tội ác trong việc vi phạm những quyền căn bản của con người”.

    Tòa Thánh xin thế giới tha thứ cho những tội ác của Công giáo bằng những lời lẽ rất đại cương như trên, cho nên không mấy người biết rõ những tội ác của Giáo hội là những tội ác nào. Lewis Weinstein viết trong tờ Chicago Tribune ngày 16 tháng 3, 2000,  như sau:

    "Hầu hết các tín đồ Công giáo không biết đến cái lịch sử (chứa đầy tội ác của Công giáo. TCN) mà Giáo hoàng nói đến, và nếu, theo lời của Hồng Y John O'Connor, tổng giám mục địa phận New York, tín đồ Công giáo phải "được sự thật giải phóng", thì họ phải biết sự thật đó như thế nào." [1]

    Sự thật đó như thế nào?  Đọc kỹ lịch sử truyền đạo của Công Giáo, chúng ta có thể tóm tắt sự thật đó trong một câu ngắn gọn:

    Tội ác của Công giáo đối với nhân loại có thể mô tả như sau, mượn lời của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô Đại Cáo:

Quyết Đông hải chi thủy, bất túc dĩ trạc kỳ ô;

Khánh Nam sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác.

(Độc ác thay, trúc rừng không ghi hết tội;

Dơ bẩn thay, nước bể không rửa sạch mùi.)

bởi vì, trong gần 20 thế kỷ, cả trăm triệu sinh mạng gồm già, trẻ, lớn, bé, nam, nữ, vô tội đã bị giáo hội, nhân danh phúc âm, chân lý của Chúa, bắt bớ, giam cầm, tù đầy, bạo hành, tra tấn cực hình, cắt cổ, chôn sống, thiêu sống v…v… chưa kể đến những hành động phá hủy đền thờ miếu mạo của các tôn giáo khác, hoặc những hành động nhằm tiêu diệt các nền văn hóa phi Công giáo mà Tòa Thánh đã thú nhận trong lễ xưng thú tội ác ở trên.

      Một phần chi tiết những núi tội ác của Giáo hội Công giáo hoàn vũ đã được trình bày qua loạt bài về “Công Giáo Hắc Sử”  đã đăng trên sachhiem.net và giaodiemonline.com.  Độc giả có thể đọc loạt bài này: http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/CGchinhsu/CGCS3.php  và nhiều bài khác về thực chất Công giáo trong hai trang nhà trên.  Bài viết này chỉ có mục đích hé mở cánh cửa để cho chút ánh sáng sự thật có thể lọt vào trong những ngục tù tâm linh tăm tối, chỉ một chút ánh sáng thôi, vì quá nhiều ánh sáng e rằng các tín đồ sẽ không chịu nổi, từ tối ra sáng, đôi mắt cần phải điều tiết dần dần, với hi vọng là “sự thật về bản chất và thực chất của Giáo hội Công giáo sẽ giải thoát họ” ra khỏi cảnh u mê, tăm tối như chính Chúa Giê-su của họ đã dạy trong Tân ước, hay như Hồng Y John O'Connor đã nói ở trên.  Nội dung bài viết này khai triển những sự kiện trích dẫn của Mục sư Ernie Bringas, con người tự do tư tưởng phi thường Robert G. Ingersoll, và Linh mục Peter Doeswyck ở trên.

Một Khi Đã Là Tín Đồ Công Giáo Thì Suốt Đời Là Tín Đồ Công Giáo??” [Once a Catholic, always a Catholic??]

   Có thể nói, tuyệt đại đa số tín đồ Công giáo trên thế giới, nhất là tín đồ Công giáo Việt Nam, kể cả các bậc chăn chiên và trí thức, sống qua suốt cuộc đời mà không hề biết gì về bản chất và thực chất của Giáo hội Công giáo mà họ được dạy là một “hội thánh”.  Họ cũng không biết gì về lịch sử thực sự của Giáo hội, lịch sử các Giáo hoàng và giới chăn chiên v..v…   Nhiều nhất là họ được dạy và tin những gỉ mà Giáo hội đã điều kiện hóa đầu óc của họ, phần lớn là từ nhỏ, với sự góp phần của các bậc cha mẹ thiếu hiểu biết, và cứ như vậy, cha truyền con nối, đến độ họ không cò thể suy nghĩ gì khác những gì mà Giáo hội đã cấy vào đầu óc họ..  Vì vậy, họ không hề biết là những gì Giáo hội dạy hầu hết là sai sự thực, dựa trên dối trá và ngụy tạo. Điều này sẽ được chứng minh trong một đoạn sau.   Mục đích của Giáo hội không phải là mở mang trí óc, tăng sự hiểu biết của tín đồ, mà chỉ để giữ chặt họ trong một ngục tù tâm linh mà nay đã phá sản ở Âu Mỹ, một ngục tù được xây dựng trên những điều hoàn toàn trái ngược với bản chất và thực chất của Giáo hội, nằm trong sách lược nhồi sọ, bao quanh bởi những bức tường thần học tinh vi mà mục đích chính là để mê hoặc những tín đồ đầu óc yếu kém về những điều không tưởng.

    Nếu có người nào có đủ trình độ và dũng cảm vượt qua được những bức tường chướng ngại trí thức mà Giáo hội dựng lên bao quanh họ, để biết đôi chút về bản chất và thực chất của Giáo hội, thì họ sẽ cảm thấy ngỡ ngàng là tại sao họ còn có thể tiếp tục ở trong một Giáo hội như vậy.  Đối với tín đồ Công giáo Việt Nam thì trường hợp của một số người đạo gốc nhiều đời như Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ, Charlie Nguyễn alias Bùi Văn Chấn, hay Giu-se Phạm Hữu Tạo và chắc chắn còn nhiều người nữa, những bậc trí thức đã tỉnh ngộ và đã can đảm vạch ra những mặt sai trái của Công giáo, là những thí dụ điển hình hiếm hoi.

    Đối với thế giới văn minh Âu Mỹ thì chuyện từ bỏ Giáo hội, sau khi biết rõ bản chất và thực chất của Giáo hội, của các bậc trí thức, hay của các chức sắc Công giáo, từ Hồng y xuống tới các Linh mục v..v.. không phải là chuyện ít ỏi.  Trong thế giới Tây phương, vô số người đã vượt qua được những bức tường thần học chướng ngại trí thức của Giáo hội dựng lên và đã trở thành những người đúng nghĩa là con người, vì đã cất bỏ được gánh nặng “quên mình trong vâng phục” trên vai, một hình thức nô lệ trí thức, để tự mình bước đi những bước tự do, vững vàng trên đường đời mà không cần đến cặp nạng tôn giáo để lê lết trong cuộc đời.  “Quên mình trong vâng phục” là theo sát lời dạy của “Thánh” Ignatus Loyola (1491-1556), người sáng lập dòng Tên  của Giáo hội Công Giáo: “Chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng tin rằng cái mà chúng ta nhìn thấy Trắng thực sự là Đen, nếu hàng giáo phẩm trong Giáo hội quyết định như vậy.” [We should always be disposed to believe that which appears White is really Black, if the hierarchy of the Church so decided].  Cho đến ngày nay, Giáo hội vẫn giữ tín đồ trong ngục tù tâm linh như vậy, và gần đây, Giáo hoàng Benedict XVI, với sự phụ họa của Giáo hội Công giáo Việt Nam, vẫn còn khuyên các con chiên phải giữ “đức vâng lời”, nghĩa là khuyên họ tiếp tục làm nô lệ cho hàng giáo phẩm Công giáo, Giáo hội bảo sao thì phải nghe vậy và thi hành, không thắc mắc.  Nhưng thực tế là, trong thế giới văn minh Âu Mỹ, Giáo hội đã mất đi không ít những tín đồ có đầu óc, và ngày nay Giáo hội chỉ còn có thể tuyển mộ được những tân tòng trong tầng lớp dân chúng ít học, thấp kém, đời sống kinh tế khó khăn, những mồi ngon cho Giáo hội sử dụng bả vật chất làm phương tiện dụ đạo.  Trên nước Mỹ, những người vào trường dòng để học nghề làm linh mục, phần lớn là Mễ và Mít, theo thống kê của một trường dòng ở Iowa, không phải là vì “ơn kêu gọi”, mà như chính Giáo hoàng Benedict XVI đã nhận định, chỉ để có một đời sống vật chất thoải mái trên sự quỵ lụy của đám tín đồ thấp kém, ít hiểu biết ở dưới.

   Thật vậy, Giáo hội đã mất đi không ít những tín đồ có đầu óc, vì không phải tất cả những linh mục được đào tạo theo sách lược của Giáo hội, hay các con chiên có đầu óc, đều cam tâm tự nguyện làm nô lệ cho Tòa Thánh suốt đời.    Nhiều vị, qua sự học hỏi cá nhân,  vượt ra ngoài khuôn phép "Giáo hội dạy rằng", đã thấy rõ bản chất và thực chất của tôn giáo và Giáo hội của mình, và đã dũng cảm thoát ra khỏi cái mà Tiến sĩ Barnado gọi là Bóng Tối Dày Đặc của Ý Thức Hệ La Mã (The Thick Darkness of Romanism), và cho ra những tác phẩm soi sáng sự thật cho nhân loại.  Chính họ là những người biết rõ bản chất của Giáo hội và thực chất của những giáo điều, tín lý trong Công Giáo La Mã hơn ai hết, và nhờ những tác phẩm nghiên cứu nghiêm túc, cộng với những suy tư trí thức của họ, mà ngày nay chúng ta có thể biết rõ sự thực về mọi mặt của đạo Công giáo nói riêng, Ki Tô Giáo nói chung.  Những tác phẩm của Tổng Giám Mục Peter de Rosa, Giám Mục Tin Lành John Shelby Spong, các Linh mục Jean Mesnier, Joseph McCabe, Emmett McLoughlin, James Kavanaugh, Andrew M. Greeley, David Rice, Leonardo Boff, Georges Las Vergnas, Charles Davis, các Mục sư Rubem Alves, Ernie Bringas, Nữ tu Công giáo Mary Ann Collins, Karen Armstrong, của các nhà Thần học Hans Kung, Edwards Schillebeeckx, Uta Ranke-Heinemann v...v..., và của hàng trăm học giả, giáo sư đại học, chuyên gia nghiên cứu về tôn giáo,  ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-tô cũng đủ để cho chúng ta biết khá tường tận về đạo Công Giáo và Tin Lành.

Tại Sao Giáo Hội Công Giáo Vẫn Tồn Tại ??

      Nghiên cứu về lịch sử Giáo hội Công giáo hoàn vũ, chúng ta thấy Giáo hội đã trải qua nhiều biến cố tưởng chừng không thể nào cứu vãn được để mà tồn tại.  Vài trường hợp điển hình sau đây cho chúng ta thấy rõ vấn đề.

 

  1.  Ngày 21 tháng 5, 1408, Vua Pháp Charles VI (1368-1422) ra sắc lệnh tuyên bố Giáo hội Công giáo Pháp và các công dân Pháp không được trung thành và tuân lệnh Giáo hoàng Benedict XIII.  Ông ta vô hiệu hóa sự ủng hộ tài chánh cho Ki Tô Giáo và tuyên bố Pháp trung lập về tôn giáo [2]
  2.  Trong cuộc cách mạng 1789, “Pháp, Trưởng Nữ của Giáo Hội Công Giáo La Mã, đã chính thức đưa Lý Trí lên bàn thờ Chúa, đã tàn sát trên 17000 Linh Mục, 30000 Nữ Tu và 47 Giám Mục, và đã dẹp mọi Trường Dòng, Trường Học Công giáo, những Dòng Tu, đốt phá nhà thờ, thư viện của Giáo hội v..v..” [3]
  3. Do sách lược dùng chiến tranh xâm lược để chiếm đất, vơ vét tài sản, và cưỡng bức người dân vào đạo, lãnh thổ của Giáo hoàng (Papal States) vào giữa thế kỷ 19 lên tới khoảng 40.000km2 , với 3 triệu dân thường xuyên phải đóng thuế cho Giáo hội.  Năm 1870, nhà cách mạng Ý Garibaldi đã tiến quân vào La Mã và tước đoạt lại mọi lãnh thổ của Giáo hội đã cưỡng chiếm của nước Ý, và thu hẹp lãnh thổ của Giáo hội còn lại khoảng 108 sào là cung đình Vatican hiện thời.  Garibaldi thống nhất nước Ý và từ đó nước Ý ở ngoài quyền hành của Vatican.

    Nhưng sự tồn tại của Giáo hội Công giáo cho đến ngày nay với một số tín đồ gần một tỷ người là một sự kiện.  Tìm hiểu lý do tại sao Giáo hội lại có thể tồn tại lâu dài, tôi thấy có vài giải thích của người Công Giáo.

 -           Thứ nhất, Giáo hội là do Chúa thành lập nên không thể biến mất trên thế gian cho đến ngày tận thế.

-          Thứ nhì, Giáo hội có Thánh Linh hay Chúa Thánh Thần soi sáng, phò trợ nên có thể vượt qua mọi biến cố.

-          Thứ ba, Giáo hội là một lực lượng đạo đức (a moral force) cho nhân loại cho nên tất nhiên phải tồn tại vì nhân loại cần đến đạo đức.

    Tuy nhiên, khi nghiên cứu về nguồn gốc và lịch sử của Công giáo, tôi thấy 3 giải thích trên không hợp với những sự thật lịch sử và lô-gíc thông thường.

   Thứ nhất, tất cả các học giả ngày nay, ở trong cũng như ở ngoài Giáo hội Công giáo, lể cả những nhà thần học nổi danh trong Công Giáo như Linh mục John Dominic Crossan, Giáo sư đại học De Paul, Chicago; Uta Ranke-Heinemann, người phụ nữ duy nhất trong Giáo hội chiếm được ngôi vị nữ giáo sư thần học Công giáo (Professor of Catholic theology);  Hans Kung, Giáo sư Thần học tại trường đại học nổi tiếng Tubingen ở Đức; Linh mục Joseph McCabe, một học giả nổi tiếng về bộ sử 8 cuốn: A Complete Outline of History.  Bộ sử này được dùng trong các đại học Mỹ trong nhiều thập niên;  Joseph L. Daleiden, một học giả Công giáo; Học Hội Nghiên Cứu Về Giê-su (The Jesus Seminar) gồm nhiều học giả thuộc mọi hệ phái Ki-tô v..v…, sau khi nghiên cứu kỹ Tân ước, đều đồng thuận ở một điểm: Giáo hội Công giáo tuyệt đối không phải là do Chúa thành lập vì trái ngược với những tư tưởng của Giê-su trong Tân Ước.     Cũng vì những bằng chứng không thể chối cãi được ở ngay trong Thánh Kinh mà khi được hỏi rằng: “Giê-su có ý định thành lập một tôn giáo mới, tôn giáo mà ngày nay chúng ta gọi là Ki Tô Giáo, hay ít nhất là tạo ra một giáo hội Ki Tô tách biệt (ra khỏi Do Thái giáo. TCN) không, Linh mục John Dominic Crossan đã trả lời: Câu trả lời cho câu hỏi đó là một chữ “KHÔNG” quyết định (The answer to that is an emphatic NO).

    Thứ nhì, Giáo hội Công giáo đã mang trên vai 7 núi tội ác đối với nhân loại mà ngày 12.3.2000, Giáo hoàng John Paul II đã xưng thú cùng thế giới như đã trình bày ở trên.  Vậy chẳng lẽ Thánh Linh hay Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho Giáo hội phạm phải những tội ác vô tiền khoáng hậu đối với nhân loại hay sao.

    Và thứ ba, nếu Giáo hội thực sự là một lực lượng đạo đức cho nhân loại thì tại sao Giáo hội lại phạm quá nhiều tội ác đối với nhân loại trong lịch sử truyền đạo của Giáo hội, trong khi các tôn giáo khác như Thích, Nho, Lão, không có Thánh Linh soi sáng, lại không hề làm đổ một giọt máu của nhân loại trong quá trình truyền đạo lâu dài hơn Ki Tô Giáo cả hơn 500 năm.  Chúng ta còn nhớ, đầu tháng 10, 2009, 2500 người mua vé vào đại sảnh Methodist ở Westminster, Luân Đôn, để nghe một cuộc tranh luận về chủ đề “Giáo hội Công giáo có phải là một lực lượng để tạo nên sự tốt đẹp trong thế giới không?” [Is the Catholic Church a force for good in the World?] thuộc chương trình Intelligence Squared Debate, một diễn đàn tranh luận thiết lập ở Anh trước đây 6 năm. Điều khiển cuộc tranh luận là nữ ký giả Zeinab Badawi, tốt nghiệp đại học Oxford về chính trị, triết học và kinh tế. Có bốn thuyết trình viên thuộc hai phe. Phe ủng hộ [for], đồng ý với chủ đề trên gồm có hai nhân vật của Công giáo: Tổng giám mục John Onaiyekan ở Nigeria và bà Ann Widdecombe, một thành viên bảo thủ của quốc hội Anh. Phe chống [against] gồm có Christopher Hitchens thuộc Hiệp Hội Thế Tục Quốc Gia (National Secular Society), một hiệp hội được thành lập tại Anh từ năm 1866, và Stephen Fry.

   Kết quả của cuộc tranh luận trên ra sao? 

   Giáo hội Công giáo, qua suốt dòng lịch sử, chưa bao giờ, và có thể là không bao giờ, là một sức mạnh để tạo nên sự  tốt đẹp trong thế giới. Và đây chính là nhận định kết luận bất khả phủ bác của cuộc tranh luận

   [The Catholic Church is not a force for good in the world: that was the overwhelming verdict after a heated debate]

   Vậy thì tại sao Công giáo vẫn tồn tại?  Cuối cùng, tôi bắt buộc phải đồng ý với nhận định của Robert G. Ingersoll cách đây trên một thế kỷ mà vé vào cửa để nghe ông ta thuyết trình năm 1870 là $2.  Trước một cử tọa đông đảo, ông ta đưa ra nhận định sau đây:

   Công giáo La mã thật sống dai. Điều này chứng tỏ cái gì? Nó chứng tỏ rằng quần chúng tín đồ thì ngu si và các linh mục thì xảo quyệt  

   [Roman Catholicism dies hard. What does that prove? It proves that the people are ignorant and that the priests are cunning.]

    Hơn một thế kỷ sau, S.T. Joshi cũng đưa ra một nhận định tương tự: 

   “Câu hỏi chính không phải là tại sao tôn giáo (tác giả muốn nói đến Do Thái Giáo, Hồi Giáo và Ki Tô Giáo) không chết đi mà là tại sao nó còn tiếp tục tồn tại trước hàng núi những bằng chứng trái ngược [với những gì các tôn giáo trên rao truyền].  Đối với tôi, câu trả lời có thể thâu tóm trong một câu thẳng thắn: quần chúng tín đồ thì ngu si” [4]

     Tôi thấy cần phải giải thích từ “ngu si” ở đây.  Một tín đồ ngu si không có nghĩa là tín đồ đó không đủ đầu óc để học hiểu, mà là thiếu những thông tin cần thiết để có thể đánh giá đúng những gì tôn giáo giảng dạy.  Trong Phật Giáo cũng có cụm từ “ngu si vô trí” để chỉ những người không đủ trí tuệ hay thông tin để nhìn một sự vật nào đó đúng như nó là như vậy (như thực tri kiến: to see things as they really are), do đó không biết rõ sự thật, và không chấp nhận sự thật trước những bằng chứng hiển nhiên, và tiếp tục nhận giả làm chân.  Thí dụ, một tín đồ Công giáo có thể rất giỏi về một bộ môn nào đó, có thể có bằng cấp rất cao về một chuyên ngành nào đó, nhưng về tôn giáo của họ thì đầu óc họ đã bị điều kiện hóa để có một điểm mù tôn giáo, họ không được phép tìm hiểu những sự thực về tôn giáo của họ, cho nên họ đã bị nhồi sọ, bưng bít, không tiếp cận được với những thông tin cần thiết để có thể đánh giá đúng những lời giảng dạy của các bậc chăn chiên, và cái điểm mù tôn giáo trong đầu óc họ làm cho họ không thể chấp nhận hay tiêu hóa được những thông tin hay bằng chứng trái với đức tin của họ.  Như vậy, trong lãnh vực tín ngưỡng, có thể nói họ là người ngu si. 

   Điều này thật quả không sai, hiện nay, trên 70% tín đồ Công giáo là ở các nước trong thế giới thứ ba, ở Phi Luật Tân và ở trong vài ốc đảo ngu dốt (từ của Linh mục Trần Tam Tĩnh) ở Việt Nam.  Trong những cộng đồng này, số đông tín đồ thấp kém thì chẳng biết gì, còn giới chăn chiên, phần lớn là không biết, hoặc giả có biết đi chăng nữa, nhưng vì quyền lợi tinh thần và vật chất trên đám giáo dân thấp kém ở dưới, nên vẫn bưng bít, dấu kín những sự thật về Giáo hội và thực chất đức tin Công Giáo trước đám tín đồ. Chúng ta có thể chứng minh dễ dàng điều này qua vài sự kiện sau đây.  Một tài liệu điển hình về kết quả nghiên cứu của Russell Shorto trong cuốn Sự Thật Của Phúc Âm (Gospel Truth), trang 14, viết như sau:

   Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay  cả những người được giáo hội Công giáo bảo thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại… Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường. [5]

    Trong cuốn “Đối Thoại Với Giáo Hoàng Gioan-Phao-Lồ II”, Giao Điểm, 2000, học giả Trần Văn Kha đã đưa ra một loạt câu hỏi rất trí thức mà không có câu trả lời về quan niệm linh hồn trong Công giáo, trang 82-83.  Linh mục Thiện Cẩm ở Việt Nam đã đưa ra câu trả lời đơn giản như sau:  Đối với một bà lão Công giáo nhà quê thì Chúa đã sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài, vậy việc tạo ra linh hồn cho mỗi người đâu có khó khăn gì.”  Hiển nhiên là sự tồn tại của Giáo hội Công giáo là nhờ có những “bà lão Công giáo nhà quê” với trình độ hiểu biết như vậy.  Tin bướng tin càn như vậy thì nếu không gọi là ngu si thì gọi là cái gì?  Và câu trả lời của Linh mục Thiện Cẩm có thuộc loại “lý luận” xảo quyệt của giới chăn chiên không?

 

Sách Lược Che Dấu Sự Thật Và Giữ Tín Đồ Trong Bóng Tối Của Giáo Hội Công Giáo:

 

   Tại sao Giáo hội lại muốn giữ tín đồ trong bóng tối của sự hiểu biết?  Như Samuel Butler đã từng đưa ra một nhận định chính xác: Giáo hội Công Giáo không sợ tội lỗi mà chỉ sợ có sự thật.”  Hiển nhiên là sự tồn tại của Giáo hội phần lớn dựa vào sách lược che dấu sự thật về Giáo hội và những điều hoang đường và sai lầm về thần học cũng như về khoa học trong cuốn Thánh Kinh trước đám tín đồ thấp kém.  Bài viết này không ngoài mục đích đưa ra một số sự thật về bản chất và thực chất của Giáo hội Công giáo La mã, những sự thật mà các tín đồ Công giáo Việt Nam rất ít biết hoặc không hề biết.

   Thật vậy, đã có thời Giáo hội cấm tín đồ tự đọc cuốn Thánh Kinh, vi phạm có thể bị vạ tuyệt thông hoặc xử chết.  Giáo hội giữ độc quyền giải thích Thánh Kinh, cho rằng tín đồ không có khả  năng tự đọc Thánh Kinh, có thể hiểu sai Thánh Kinh và trở thành lạc đạo (heretic).  Lạc đạo, nghĩa là không đồng ý với những lời dạy của Giáo hội,  trong thời Trung Cổ đối với Giáo hội là tội chết..  Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ, một người đạo gốc trong 30 năm thưở thiếu thời, cho rằng Giáo hội sợ tín đồ nhận ra những điều hoang đường, sai trái trong Thánh Kinh.  Giáo hoàng và các Thánh trong Công Giáo chủ trương giết người lạc đạo.  Họ viện dẫn Cựu Ước để biện minh cho các cuộc tàn sát vì Cựu Ước dạy rằng: Kẻ nào phỉ báng tên Chúa đều phải bị giết (He who blasphemes the name of the Lord shall be put to death).  Thánh Thomas Aquinas tuyên bố: “Nếu những kẻ bất lương đáng tội chết, thì những kẻ lạc đạo còn đáng bị giết hơn nữa” (St. Thomas Aquinas declared: “If malefactors are justly doomed to death, much more may heretics be justly slain.”)  Lạc đạo đơn giản chỉ là không theo Công giáo hay bỏ Công giáo.  Nhưng ngày nay, quyền sinh sát của Giáo hội Công giáo đã không còn nữa, và như John Remsburg đã nhận định trong cuốn “False Claims”, The Truth Seeker Company, New York, 1928, trang 24:

   Hình như tôi nghe người Ki Tô biện hộ cho Giáo hội nói: “Nhưng bây giờ Giáo hội không còn giết nữa”.  Đúng vậy, một con hổ sắp chết càng ngày càng bới dữ đi.  Ngày nay Giáo hội không còn giết nữa vì Giáo hội không còn quyền lực để mà giết.  Bó củi (để thiêu sống người) và thanh gươm (để giết người) đã bị tước khỏi nhưng bàn tay đẫm máu của Giáo hội, và ngày nay Giáo hội chỉ còn dùng được hai vũ khí: gây thù hận và vu khống.” [6]

    Điểm qua những trang nhà Công giáo chống Cộng và lác đác một số bài phê bình mà không phải là phê bình, đối thoại mà không phải là đối thoại, của một số trí thức Công giáo trước những phanh phui ra những sự thật về Công giáo, chúng ta thấy rõ họ đã tận dụng hai thứ vũ khí này.

    Giáo hội cũng cấm tín đồ đọc những sách viết về những sự thực về bản chất và những tín lý mà mục đích chính là tạo quyền lực của giới chăn chiên trên đám tín đồ ở dưới, hoặc những sách mà mà Giáo hội cho rằng trái với những tiêu chuẩn đạo đức theo quan niệm của Giáo hội, những tiêu chuẩn mà lịch sử đã chứng tỏ là chính Giáo hội đã vi phạm hơn ai hết..

   Năm 1501, Giáo hoàng Alexander VI ban sắc lệnh cấm không được ấn hành những cuốn sách thảo luận về Ki Tô Giáo mà không có giấy phép của ông Giám mục địa phương, hay “giấy phép của chính Giáo hoàng” [Diarium of Buchard].

  Đây là sự khởi đầu của một danh sách dài những cuốn sách Giáo hội cấm tín đồ đọc [Index of Prohibited Books], và sự dẹp bỏ những cuốn sách đặt nghi vấn về những tín lý của Giáo hội đã trở thành chính sách chính thức của Vatican.  Đây có lẽ là cách kiểm duyệt bi thảm nhất mà thế giới biết đến, qua sự kiểm duyệt này, trong nhiều thế kỷ Giáo hội đã khống chế những văn phẩm mà quần chúng có thể đọc – Và Giáo hội chính thức duy trì sự khống chế này, kéo dài cho tới thế kỷ 20. [7]

   Chúng ta cũng biết ở Mỹ giới chăn chiên thường khuyên các con chiên là “đừng có đọc sách của Giao Điểm”.  Và ở Việt Nam thì Công giáo đã ra sức mua chuộc những cán bộ văn hóa để ngăn chận, không cho phổ biến các sách của Giao Điểm cũng như những sách viết về những sự thật về Công giáo.  Thông tin ở Việt Nam cũng loan tin rất ít về vụ các linh mục hiếp dâm nữ tu Công giáo trên 23 quốc gia, và trên 5000 linh mục bị truy tố vì tội loạn dâm và ấu dâm.  Và những chuyện bê bối trong nội bộ Giáo hội Công giáo Việt Nam cũng bị bưng bít dấu kín, nhưng thỉnh thoảng cũng bị lọt ra ngoài một phần qua vài bài viết, thí dụ như của Nguyễn Văn Trung hay Linh mục Nguyễn Văn Trọng.  Qua những sách lược trên của Giáo hội, các tín đồ, vốn đã ngu si lại tiếp tục sống trong vòng ngu si suốt đời.  Nếu không thì làm sao những sự xảo quyệt của giới chăn chiên có thể thành công.  Chúng ta hãy kể vài thí dụ về sự xảo quyệt của giới chăn chiên.

   Tín đồ được các bậc chăn chiên hứa hẹn một cái bánh vẽ trên trời mà họ gọi là “thiên đường” trong khi chính họ cũng chẳng biết cái bánh vẽ đó như thế nào, ở đâu, vì từ xưa tới nay đã có ai từ đó trở về, kể cả Chúa Giê-su, để cho bàn dân thiên hạ biết cái thiên đường đó là như thế nào. Nhưng sự xảo quyệt của các linh mục còn tỏ rõ hơn nữa khi họ vẫn giảng cho tín đồ về thiên đường và hỏa ngục trong khi có thể họ đã biết là, trước sự tiến bộ của khoa học về vũ trụ học, về sinh học  v..v…, Giáo hoàng John Paul II của họ đã bắt buộc phải chấp nhận trước thế giới thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ,  thuyết tiến hóa về nguồn gốc con người, chấp nhận con người không phải là do Thượng đế sáng tạo ra tức thời mà chính là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần và lâu dài, thú nhận không làm gì có thiên đường (một cái bánh vẽ trên trời để dụ những người đầu óc mê mẩn, yếu kém), và hỏa ngục (một nơi để hù dọa những người không tin Chúa).  Như vậy, Giáo hoàng đã chính thức bác bỏ thuyết “sáng tạo” của Ki Tô Giáo, phá tan huyền thoại về Adam và Eve là tổ tông loài người do Thượng đế tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm gì có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông. Do đó, vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi” của Giê-su chỉ là những luận điệu thần học lừa dối của giới giáo sĩ Ki Tô Giáo khi xưa, được tiếp tục đưa ra không ngoài mục đích khai thác lòng mê tín của một số người, huyễn hoặc và khuyến dụ họ tin vào những điều không thực.   Thật vậy, tháng 7 năm 1999, trước những khám phá xác tín nhất của khoa vũ trụ học, và trước những hiểu biết của con người ngày nay về cấu trúc của trái đất, Giáo Hoàng đã bắt buộc phải tuyên bố: “thiên đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải là một nơi cụ thể ở trên các tầng mây” (Heaven is neither an abstraction nor a physical place in the clouds), và “Hỏa ngục không phải là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là trạng thái hậu quả của những thái độ và hành động mà con người đã làm trong đời này” (Hell is not a punishment imposed externally by God, but the condition resulting from attitudes and actions which people adopt in this life). Thử hỏi có bao nhiêu tín đồ Công giáo được các bậc chăn chiên cho họ biết Giáo hoàng của họ đã nói những gì về thuyết Big Bang, thuyết Tiến Hóa, và về thiên đường và hỏa ngục?

  Tín đồ Công giáo Việt Nam được dạy là phải luôn luôn cầu nguyện Chúa hay Đức Mẹ Maria, kiểu “cầu ngày không đủ, tranh thủ cầu đêm, cầu thêm ngày chủ nhật”, một hình thức xin-cho, vì Chúa đã hứa cứ cầu đi rồi sẽ được.  Chúa phán, Matthew 21:22: “Nếu các người tin, các người sẽ nhận được bất cứ điều gì các người yêu cầu trong cầu nguyện” [If you believe, you will receive whatever you ask for in prayer] và John 14:13-14: “Và Ta sẽ làm bất cứ điều gì các người yêu cầu nhân danh Ta…  Các ngươi có thể yêu cầu bất cứ điều gì nhân danh ta, ta sẽ làm theo lời yêu cầu đó” [And I will do whatever you ask in my name… You may ask me for anything in my name, and I will do it.]

   Nhưng thực tế cho thấy rằng, Giáo dân Việt Nam cầu nguyện xin-cho với Nhà Nước Việt Nam thì may ra còn có thể được, chứ nghe lời xúi dục của ông Tổng Kiệt nhục nhã, đi thắp nến cầu nguyện đòi đất ăn cướp trước đây ở Tòa khâm Sứ, Ấp Thái Hà, Tam Tòa v… v… đều không có hiệu quả, vì Chúa chưa được phép của Nhà Nước Việt Nam, nếu không muốn nói là thật ra Chúa chỉ hứa hão.  Nhưng Giáo hội thường có những giải thích đặc thù Công giáo về cầu nguyện xin-cho mà không được đáp ứng.  Nếu cầu không được và  thắc mắc thì được giải thích là “Chúa đã trả lời rồi, Chúa không ưng thuận lời cầu nguyện đó.”  Tại sao?  Đây là thuộc về mầu nhiệm của Thiên Chúa, mọi quyết định của Chúa đều đúng vì Chúa là Chúa, chúng ta không thể nào hiểu được việc Chúa làm”.  Nhưng sự xảo quyệt của giới chăn chiên còn tỏ rõ hơn nữa khi họ giảng đạo, luôn luôn nói là “ý Chúa thế này, thế nọ”, “phải làm thế này thế nọ để làm đẹp lòng Chúa” v…v…  Khi xưa Giáo hoàng hô hào Thánh Chiến cũng nói với tín đồ đó là ý Chúa [God’s Will].     Khi có chuyện bất hạnh xảy ra cho tín đồ thì lời giải thích sẽ là “Chúa sinh ra thì Chúa có quyền lấy đi”, hoặc “Chúa gọi về sớm với Chúa”.  Tất cả những giải thích này đều thuộc loại dối trá, dù với mục đích gì, bàn chất vẫn là dối trá.

 

Cá Nhân Phạm Tội Hay “Hội Thánh Công Giáo” Phạm Tội:

   Giáo hội đã phạm rất nhiều tội ác đối với nhân loại.  Đây là một sự kiện bất khả phủ bác.  Một luận điệu bào chữa cho Giáo hội là các cá nhân phạm tội chứ Giáo hội vẫn là một “hội thánh” thánh thiện.  Luận điệu này quên rằng khi Giáo hoàng phạm tội thì đó là “đại diện của Chúa” (Vicar of Christ) phạm tội chứ không phải là cá nhân thường như mọi người, và khi các Linh mục can tội loạn dâm hay ấu dâm thì đó là các “Chúa thứ hai” phạm tội chứ không phải là người thường như mọi người.

   Nhưng thực ra Giáo hội là gì?  Theo cấu trúc toàn trị của Giáo hội Công giáo thì Giáo hoàng và tập thể các chức sắc ở Vatican gồm từ các Hồng y xuống tới các Linh mục, quyết định sách lược, đường lối của Giáo hội để phục vụ cái mà Giáo hội gọi là “Chân lý Công Giáo “ (Catholic truth), nghĩa là những tín điều, tín lý mà Giáo hội muốn tín đồ phải nuốt chững vì “đức vâng lời”, kèm theo những sách lược, thủ đoạn để mở mang đạo Chúa.  Trong thời Trung Cổ ở Âu Châu, Giáo hội nắm quyền sinh sát trong tay, và Giáo hội đã ra lệnh cho cánh tay thế tục, nghĩa là những chính quyền nằm dưới quyền của Giáo hội, cưỡng bức áp đặt những tín lý của Giáo hội trên nhân loại qua sách lược “giết người hàng loạt” [The Church ordered its secular arm to force its dogma upon humanity by “mass murder”]

   Các Giáo hội con, như Giáo hội Công giáo Việt Nam chẳng hạn, chỉ có nhiệm vụ thừa hành đường lối của Giáo hội hoàn vũ.  Như vậy, tội ác của Giáo hội thuộc về toàn thể “hội thánh” chứ không phải chỉ là của một số cá nhân như những lời bào chữa xảo quyệt của Giáo hội.  Chính sự ngu si của quần chúng tín đồ mù quáng tuân theo tất cả đường lối, sách lược của Giáo hội, cho nên dù muốn dù không, toàn thể “hội thánh” phải có trách nhiệm liên đới về những tác hại mà Giáo hội gây ra cho nhân loại, bởi vì không có sự tuyệt đối trung thành mù quáng của Giáo dân, Giáo hội không thể thực hiện được những sách lược Giáo hội muốn thi hành.

   Tuy nhiên, sự ngu si và cuồng tín của giáo dân không phải là yếu tố chính, mà còn phải do sự ngu dốt của chính Giáo hội cho nên Giáo hội mới có thể gây ra 7 núi tội ác đối với với nhân loại mà Giáo hoàng John Paul II cùng bộ tham mưu của ông đã xưng thú cùng thế giới.  Sự ngu dốt của Giáo hội là tin vào những điều mà Giáo hội cho rằng không thể sai lầm trong Thánh Kinh vì tưởng đó là lời mạc khải của Thiên ChúaBao nhiêu thảm họa Giáo hội Công giáo gây cho nhân loại cũng chỉ vì sự ngu dốt này của Giáo hội.  Chúng ta hãy kể vài trường hợp điển hình.

   Sự ngu dốt này đã đưa đến hành động giết hại khoa học gia, ngăn chận sự tiến bộ kiến thức trong nhiều thế kỷ.  Chúng ta hãy kể hai trường hợp điển hình.

   Trường hợp thứ nhất là Giáo hội Công giáo thiêu sống Giordano Bruno, một linh mục dòng Đa Minh người Ý.  Bruno không những đồng ý với Copernicus mà còn táo bạo hơn,  đưa ra quan niệm là ngoài thế giới chúng ta đang sống có thể còn có nhiều thế giới tương tự khác nữa.  Điều này trái với lời của Thượng Đế trong Thánh Kinh: "Trái đất là trung tâm của thế giới duy nhất mà chúng ta đang sống."

    "Bruno tin rằng ngoài thế giới của chúng ta còn có nhiều thế giới khác nữa, tin là trái đất quay xung quanh mặt trời, và tin vào thuyết mặt trời là trung tâm của thái dương hệ   Vì những “tội ác” như vậy mà ông ta bị giam tù trong 6 năm.  Sau cùng, vì không chịu thay đổi quan niệm để được tự do, ông bị đưa ra tòa án xử dị giáo, kết án là có tội, tuyệt thông và bị tuyên án thiêu sống.  Ông bị các Linh mục, những người được dạy phải yêu kẻ thù,  dẫn từ nhà tù ra nơi hành hình.  Ông bị cột vào một cọc xung quanh có chất củi.  Rồi các Linh mục, tín đồ của Chúa Ki-Tô, châm lửa và thiêu sống vị Thánh tử đạo vĩ đại nhất, hoàn hảo nhất từ xưa tới nay."  [8]

 

   Trường hợp thứ hai là về Galileo Galilei.  Năm 1616, kính thiên văn đầu tiên của Galilei đã làm cho vòm trời trong Thánh Kinh rớt ra từng mảng.  Công cuộc khảo cứu của Galileo Galilei dựa trên sự quan sát thiên văn qua hàng loạt những kính thiên văn ngày càng tân kỳ hơn, đã thực chứng quan niệm của Bruno và đồng thời khẳng định thuyết của Copernicus như là một chân lý khoa học.  Chúng ta đã biết, năm 1633, dưới triều Giáo Hoàng Urban VIII, tòa án xử dị giáo đã buộc Galilei phải sửa đổi khám phá khoa học của ông cho phù hợp với Thánh Kinh, nghĩa là mặt trời quay xung quanh trái đất, và biệt giam ông tại nhà cho đến khi ông chết vào năm 1642.

  Vì trường hợp của Galileo đã nói lên phần nào tinh thần tôn trọng sự thật và bất khuất của các khoa học gia, và vì Galileo được coi như là người đã mở một kỷ nguyên mới cho nền khoa-học tân tiến Tây phương, nên tôi nghĩ kể lại vài dòng về trường hợp của ông cũng không phải là vô ích (B. S. Rajneesh, Linh Mục và Chính Trị Gia: Những Mafia của Linh Hồn (Priests and Politicians: Mafia of the Soul, trg. 27):

   "Năm 1633, khi Galileo, dựa trên những dữ kiện khoa học không thể phủ nhận, đoan quyết trong một cuốn sách khảo cứu thiên văn của ông rằng: không phải là mặt  trời quay  xung quanh  trái đất  mà  chính là trái đất quay xung quanh mặt trời, thì ông bị kéo ra trước tòa án dị giáo của giáo hoàng Urban VIII.  Khi đó ông đã già, gần chết.  Giáo hoàng phán: "Trước khi chết, ngươì hãy sửa lại điều trên vì nó ngược lại với thánh kinh.  Bất cứ điều nào ngược với thánh kinh đều đương nhiên sai lầm, vì thánh kinh là lời của Thượng Đế.

   Galileo là một khoa học gia vĩ đại, dù đã 80 tuổi, sắp chết, nhưng vẫn còn đầy đủ óc khôi hài tuyệt vời.  Ông nói: Không thành vấn đề, tôi sẽ sửa lại lời tôi viết, tôi sẽ viết lại trong sách của tôi đúng như lời Thượng Đế đã viết trong thánh kinh - nghĩa là mặt trời quay xung quanh trái đất.  Nhưng có một điều tôi cần trình ngài rõ: cả trái đất lẫn mặt trời đều không đọc sách của tôi.  Và sự thực thì, trái đất sẽ tiếp tục quay xung quanh mặt trời.

   Nếu ngài nhất định muốn biết tại sao thì tôi có đầy đủ bằng chứng.  Tôi đã dùng cả đời tôi để nghiên cứu vấn đề này, và những người có đầu óc khoa học đều tuyệt đối đồng ý với sự khám phá của tôi.  Trước sau gì rồi ngài cũng  phải  đồng ý  vì không  ai có thể chống lại sự thực lâu dài."  [9]

     Tuy vậy Galileo vẫn bị buộc phải sửa đổi sự thực khoa học ông đã viết trong sách, bị kết án là "lạc đạo" và bị biệt giam tại nhà cho đến khi ông chết, năm 1642.  Nhưng lời tiên đoán của ông đã thành sự thực, tuy hơi chậm.  359 năm sau, ngày 29 tháng 10 năm 1992, giáo hoàng John Paul II, tuyên bố vụ án Galileo là một sai lầm và phục hồi danh dự cho Galileo, sau khi một ủy ban gồm những bộ óc thượng thặng của tòa thánh nghiên cứu trong 13 năm về vấn đề Galileo.  13 năm dùng để nghiên cứu một vấn đề mà đối với toàn thế giới đã rõ như ban ngày từ  mấy trăm năm nay, một sự kiện mà ngày nay học sinh tiểu học cũng biết, 13 năm tiêu tốn không biết bao nhiêu tiền của giáo dân đóng góp để kiếm ra một kẽ hở  hòng  biện hộ cho Giáo hội trong vụ án Galilei nhưng không thành công, để cuối cùng  phải thú nhận sự sai lầm của Giáo hội.

   Sự ngu dốt của các bậc Thánh trong Giáo hội Công giáo có thể biểu hiện điển hình trong lời phán của Thánh Augustine, tác giả nền thần học căn bản của Công Giáo, Augustine không thể tin nổi là trái đất có hình cầu, điều này chứng tỏ thần học là một bộ môn thuộc loại mê tín, không có giá trị trí thức:

   Không thể có người ở phía bên kia của trái đất, vì trong những hậu duệ của Adam, không có sắc dân nào được ghi trong Thánh Kinh. [10]

Ảnh Hưởng Thánh Kinh Trên 7 Núi Tội Ác Của Giáo Hội Công Giáo:    

    Hầu hết các tín đồ Công giáo không biết rằng, sở dĩ Giáo hội Công giáo gây nên 7 núi tội ác đối với nhân loại là vì Giáo hội tin theo tất cả những gì viết trong cuốn Thánh Kinh, như Mục sư Ernie Bringas đã nhận định ở trên, trong khi Thánh Kinh chỉ là một cuốn sách mà ngày nay các học giả đã chứng minh rằng chứa rất nhiều sai lầm về thần học cũng như khoa học, khoan kể những chuyện hoang đường của dân tộc du mục Do Thái thời bán khai.  Các tín đồ cũng không biết rằng phần lớn những việc ác độc của Giáo hội chính là theo sát những lời dạy của hai cha con Giê-su trong cuốn Thánh Kinh.  Ngày nay, Giáo Hội làm đủ mọi cách để quảng cáo cho một Thượng đế nhất mực nhân từ của Ki-Tô Giáo, và Giê-su như là một Thày Giảng tôn giáo vô hại (a harmless religious preacher) và chủ trương hòa bình, nhưng những gì chúng ta có thể đọc trong Cựu Ước và các Phúc Âm trong Tân Ước đã loại bỏ hoàn toàn những điều Giáo hội nói về Thượng đế và Giê-su.  Do đó, Giáo hội luôn luôn tránh né thảo luận về sự kiện là chính hai cha con Giê-su đã gây cảm hứng cho Giáo Hội để thi hành những điều ác ôn đối với nhân loại.  Chúng ta hãy đọc vài lời phán của hai cha con Giê-su trong Thánh Kinh để chứng minh luận cứ trên.  Trước hết chúng ta hãy đọc đoạn sau đây của ông Lý Chánh Trung, một nhà trí thức Công giáo, trong cuốn Tôn Giáo và Dân Tộc :

   "Tuy nhiên lịch sử đã cho thấy rằng từ khi Giáo hội (La Mã) đã trở thành quốc giáo thì cây gươm tinh thần của Thánh Phao-Lồ đã luôn luôn bị cám dỗ để biến thành cây gươm thép thực sự.  Kể từ dạo ấy, mỗi khi hoàn cảnh cho phép, giáo hội đã không ngần ngại để dùng thế lực tiêu diệt các tôn giáo khác, đập phá các đền thờ "Tà Thần", đốt sách vở ngoại đạo, và đốt luôn bọn người bị xem là "lạc đạo" nếu không chịu sửa sai.

   Lịch sử cho thấy:

    "Vào cuối thế kỷ 15, (1493), Giáo hoàng Alexander VI, tự  cho  Công giáo cái  quyền thống trị  hoàn cầu,  đã chia thế giới ra làm hai vùng ảnh hưởng: 1) toàn thể Mỹ Châu, trừ Ba Tây, thuộc Tây Ba Nha; 2) còn Bồ Đào Nha thì được Ba Tây và tất cả những đất đai nào chiếm được ở Á Châu và Phi Châu.  Sắc lệnh phân chia vùng ảnh hưởng này quy định rằng, song song với việc chiếm cứ đất đai là bổn phận phải kết hợp các dân địa phương vào trong giáo hội Công giáo.  Do đó, đi cùng với những đoàn quân xâm lăng là những linh mục.  Sự có mặt của gìới linh mục đã biện minh cho những hành động áp chế dân địa phương cũng như bất cứ thủ đoạn cưỡng ép nào được coi là cần thiết để kéo họ vào niềm tin Công giáo."  [11]

    Bản chất của các giáo sĩ thừa sai và các linh mục bản xứ như ở Việt Nam họ tạo nên phần lớn là cuồng tín, nhắm mắt nghe theo mọi huấn lệnh của Giáo hoàng, vô đạo đức tôn giáo, tham lam, thích vơ vét tài sản của cải, lạm quyền để ăn cướp hay phá hủy chùa chiền làm đất xây nhà thờ, điển hình là nhà thờ lớn Hà Nội, nhà thờ La Vang, nhà thờ Đức Bà ở Saigon v..v… đều được xây trên những đất ăn cướp của Chùa.  Sách lược này theo đúng huấn lệnh của Alexander VI ở trên và  trong  Cựu ước:  “Ngươi không được thờ thần nào khác, phải phá hủy tượng thần của dân gian.” Một số tài liệu trong phần sau sẽ chứng minh điều này.

   Giáo sư sử Mark W. McLeod viết trong cuốn The Vietnam Response to French Intervention, 1862-1874, trang 122, về vài hành động của Giáo dân Việt Nam trong thời Pháp xâm chiếm Việt Nam như sau:

   ... Để giúp chúng ta hiểu rõ hơn, chúng ta hãy xét tới những hành động của Balny tại Phủ Lý và Hải Dương và của Harmand ở Nam Định, và nhấn mạnh đến sự liên hệ giữa Bộ Truyền Giáo Công giáo và các lực lượng quân sự Pháp.  Sự phân tích những hành động này cho thấy, trong những cuộc tấn công vào những cứ điểm của chính quyền Việt Nam, quân đội Pháp đã nhận được một mức độ hỗ trợ rất đáng kể từ những thừa sai và những tín đồ Công giáo Việt Nam.  Hơn nữa, những phương pháp mà các sĩ quan Pháp và những cộng tác viên Gia Tô dùng tuyệt đối không thể coi là có đạo đức cao theo những tiêu chuẩn đương thời của ngay chính họ, vì những phái bộ truyền giáo Công giáo đã dùng sức lao động (của tín đồ Công giáo bản xứ; TCN), tài nguyên, và tin tức tình báo, đổi lấy hậu thuẫn của Pháp để thực hiện sự tàn sát liên miên người "lương", mạo phạm những công trình xây dựng của Phật Giáo, thiêu hủy những làng mạc phi-Công giáo, và cướp bóc những thành phố của nhà Vua.  Sự cộng tác với chủ nghĩa đế quốc Pháp của những tín đồ Công giáo  thường không được các sử gia nhận biết đầy đủ, nhưng đó chính là một yếu tố đáng kể góp phần thắng lợi cho Pháp ở Bắc Kỳ."  [12]

        Trong “thánh lễ” xưng thú 7 núi tội ác của Giáo hội Công giáo đối với nhân loại, Giáo hội đã thiếu lương thiện khi cho rằng những tội ác mà Giáo hội gây ra là do một số cá nhân không theo đúng tinh thần của Giáo hội.  Những hành động ác ôn của Giáo hội hoàn vũ đối với nhân loại và của Giáo hội con ở Việt Nam đối với dân tộc Việt Nam có phải là những hành động lẻ tẻ của các cá nhân nằm ngoài ý định của “hội thánh” Công giáo không?  Tuyệt đối không phải, đó chính là sách lược chính thức của Giáo Hội, thực thi đúng những lời dạy của hai cha con Giê-su trong cuốn thánh Kinh.  Chứng minh?  Chúng ta có thể đọc trong Cựu Ước như sau:

 THIÊN CHÚA: PHỤC TRUYỀN 6:17; 7:1-5: PHẢI TUYỆT ĐỐI TUÂN HÀNH CÁC ĐIỀU RĂN, LUẬT LỆ CỦA THIÊN CHÚA...  KHI ĐỨC CHÚA TRỜI DẪN CÁC NGƯƠI VÀO VÙNG ĐẤT MÀ CÁC NGƯƠI SẼ CHIẾM HỮU..CÁC NGƯƠI PHẢI TẬN DIỆT HỌ, KHÔNG ĐƯỢC LẬP GIAO ƯỚC, KHÔNG ĐƯỢC THƯƠNG XÓT...  KHÔNG ĐƯỢC GẢ CON GÁI MÌNH CHO CON TRAI HỌ, HOẶC CƯỚI CON GÁI HỌ CHO CON TRAI MÌNH VÌ HỌ SẼ DỤ CON CÁI CÁC NGƯƠI THỜ CÚNG CÁC THẦN CỦA HỌ MÀ BỎ CHÚA HẰNG HỮU.. CÁC NGƯƠI PHẢI ĐỐI XỬ VỚI HỌ NHƯ SAU:  PHẢI PHÁ HỦY NHỮNG BÀN THỜ CỦA HỌ, PHẢI ĐẬP PHÁ NHỮNG CỘT TRỤ THIÊNG LIÊNG CỦA HỌ, ĐẬP NÁT  NHỮNG HÌNH TƯỢNG BẰNG GỖ,  ĐỐT SẠCH CÁC TƯỢNG CHẠM CỦA HỌ..

   Lời xưng thú núi tội ác thứ 5:   Xưng thú tội ác trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển”, và thứ 7:  Xưng thú tội ác trong việc vi phạm những quyền căn bản của con ngườicủa Giáo hội Công giáo đã chứng minh hơn gì hết là Giáo hội đã theo sát lời dạy trên trong Cựu Ước.  Và nay chúng ta đã hiểu tại sao các bậc chăn chiên Việt Nam không muốn cho con chiên của mình lấy người ngoại đạo, và cưỡng ép những người ngoại đạo phải học đạo trước khi lấy người trong đạo, với điều kiện những đứa con sinh ra phải đi rửa cái tội của một Adam hoang đường, nghe lời của một con rắn hoang đường biết nói tiếng người,  chót ăn một trái cây hoang đường, trong một cái vườn hoang đường của cổ sử Do Thái.

    Tại sao lịch sử Công giáo lại chứng tỏ đó là một tôn giáo rất hiếu chiến với những đạo binh của Chúa, đạo binh của Đức Mẹ v…v…  Đó là vì chính Chúa Giê-su đã gây cảm hứng hiếu chiến cho Giáo hội.  Giê-su phán:

GIÊ-SU: Matthew 10: 34-36:

ĐỪNG TƯỞNG RẰNG TA XUỐNG TRẦN ĐỂ MANG LẠI HÒA BÌNH TRÊN TRÁI ĐẤT.  TA KHÔNG XUỐNG ĐÂY ĐỂ MANG LẠI HÒA BÌNH MÀ LÀ GƯƠM GIÁO.  VÌ TA XUỐNG ĐÂY ĐỂ LÀM CHO CON CHỐNG LẠI CHA, CON GÁI CHỐNG LẠI MẸ, CON DÂU CHỐNG LẠI MẸ CHỒNG, VÀ KẺ THÙ CỦA CON NGƯỜI Ở NGAY TRONG NHÀ HẮN.

   Cho nên đi đến đâu, Công Giáo cũng tạo nên sự bất hòa trong dân gian, gia đình xung đột v…v…  Cảnh Lương Giáo tàn sát lẫn nhau trong quá khứ, và gia đình bất hòa vì có đứa con lạc đàn đi theo Công giáo là chuyện thường xảy ra trong xã hội Việt Nam kể từ khi Công giáo xâm nhập vào Việt Nam.

    Trong cuốn Những Hội Truyền Giáo Hải Ngoại và Sự Xâm Nhập của Pháp Vào Việt Nam (Les Missions Étrangères et la Pénétration Francaise au Viet-Nam), Nicole-Dominique Lê viết:

   "Theo quan điểm của những nhà lãnh đạo Việt Nam  thì các thừa sai đã phạm tội thúc đẩy giáo dân bất tuân luật lệ quốc gia.  Từ bỏ những thờ phượng tôn giáo, những giá trị xã hội đã khiến cho họ sống ở ngoài lề của xã hội truyền thống.  Nhưng nghiêm trọng hơn là, người ta trách cứ các giáo sĩ và giáo dân đã tạo nên sự phân chia quốc gia thành 2 khối tôn giáo đối nghịch nhau.[13]

    Chính Linh mục Lương Kim Định cũng phải thú nhận trong cuốn  Cẩm Nang Triết Việt, trang 57:

   Sự truyền đạo Thiên Chúa vào Việt Nam…đưa đến sự chia khối dân tộc đang thống nhất thành hai phe Lương Giáo làm cho sự liên lạc giữa đôi bên trở nên nhức nhối đầy e dè nghi kỵ.  Đấy là một tai nạn lịch sử mà thời gian tuy có làm giảm đi, nhưng xem ra không sao xóa sạch được”

   Sự phân biệt lương-giáo của ông cha chúng ta là có ý nghĩa sâu sắc.  Vì “lương” có nghĩa là tốt, lành, lương thiện, còn “giáo” chỉ các giáo dân, những người không “lương”.  Linh Mục Lương Kim Định đã thú nhận một ảnh hưởng tác hại của Công Giáo trên đại khối dân tộc Việt Nam: gây chia rẽ.

    Sau Giám mục Bá Đa Lộc là những Linh mục, Giám mục tới Việt Nam với mục đích rõ rệt là phá hủy nền văn hóa Việt Nam, và vận động chính phủ Pháp xâm chiếm Việt Nam, biến Việt Nam thành thuộc địa của Pháp.  Trong số này chúng ta phải kể đến những Giám mục Huc, Retord, Pellerin, Gauthier, Puginier v..v.. [Xin đọc bài “Nhân Vụ Đồng Chiêm” – Quạ Thì Đen” của Nguyễn Lâm trên http://www.sachhiem.net/TONGIAO/tgN/NguyenLam.php ngày 1/2/2009]

Tất cả đều có những hoạt động gián điệp với sự tiếp tay của một số không nhỏ tín đồ Công giáo bản xứ.  Hiện nay, những sử liệu về hoạt động gián điệp và gian ác thế tục của họ không thiếu.  Trong mục đích xâm lăng Việt Nam, các thừa sai Công giáo đã bi thảm hóa chính sách cấm đạo của các triều đình nhà Nguyễn với tất cả sự căm phẫn của họ.  Nhưng xét theo bối cảnh lịch sử thế giới trong những thế kỷ 16-19 thì chúng ta phải nói rằng, căn bản căm phẫn của các giáo sĩ thừa sai ngoại quốc và tay sai bản địa về việc  cấm đạo  và  bách hại  giáo dân ở  Việt Nam thật là vô lý một cách lố bịch: "Vì chính trong những khoảng thời gian này, Công Giáo đang tàn sát những tín đồ Tin Lành ở Netherlands, tra tấn hàng ngàn dân Huguenots ở Pháp, và Văn Phòng Thánh Xử Dị Giáo (Holy Office of the Inquisition = Cơ Quan Chỉ Đạo các Tòa Hình Án xử dị giáo) còn đang bận thiêu sống những kẻ dị giáo từ Granada tới Goa." (Dennis Bloodworth, The Chinese Looking Glass, A Delta Book, New York, 1968), khoan kể là việc cấm đạo không phải vì giáo dân theo một đạo mới mà vì giáo dân đã có những hành động phản quốc, phản bội dân tộc.

    Như vậy, căn bản căm phẫn của họ thực ra là đặt trên cái lý lẽ đầy bất công và man rợ của kẻ mạnh, mạnh vì gươm giáo, súng ống, chứ không phải mạnh về tinh thần hay đạo đức: là con Chúa thì có quyền đi tra tấn, tàn sát, thiêu sống người ngoại đạo vì họ không có cùng một niềm tin như các con Chúa, còn người ngoại đạo thì không có quyền đụng tới con Chúa ngay cả khi những con Chúa này thuộc loại phản quốc.

   Về những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo, Lord Acton, một tín đồ Công giáo, viết vào cuối thế kỷ 19:

    “Nguyên tắc của Những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo là giết người..  Những giáo hoàng không chỉ là những tên sát nhân có hạng, mà còn cho sự giết người là một căn bản hợp pháp của Giáo hội Ki Tô và là một điều kiện của sự cứu rỗi.”  [14]

    Giáo hội đã theo sát lời dạy của Giê-su như sau:

 GIÊ-SU: LƯU–CA: 19:27: HÃY MANG NHỮNG KẺ THÙ CỦA TA RA ĐÂY, NHỮNG NGƯỜI KHÔNG MUỐN TA NGỰ TRỊ HỌ, VÀ GIẾT CHÚNG NGAY TRƯỚC MẶT TA.

    Giáo hội không chỉ giết người mà còn hành hạ tra tấn các nạn nhân bằng những hình cụ rất khủng khiếp mà Giáo hội đã phát minh ra.  Hiện nay ở San Francisco, Mỹ, và ở Amsterdam, Hà Lan, đều có bảo tàng viện trưng bày hơn 40 hình cụ Giáo hội “sáng tạo” ra để tra tấn con người.  Nhưng tại sao Giáo hội lại ác ôn như vậy?  Chính Giê-su đã dạy phải hành hạ tra tấn những kẻ không tin Chúa trong sách Khải Huyền.

   Sách Khải Huyền đã được Tổng Thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson phê bình  một cách rất chính xác như sau: “Sách Khải Huyền là những lời nói dốt nát của một kẻ điên khùng”   [President Thomas Jefferson referred to the Book of Revelation as “the ravings of a maniac”, West County Times, California, USA, Editor Steven Morris, 14 August, 1995]. 

   Kẻ điên khùng dốt nát này là ai?  Kinh Thánh viết rõ tên sách Khải Huyền: “The Revelation of Jesus Christ”, có nghĩa là “Lời khải thị của Giê-su Ki Tô”, và câu đầu trong sách Khải Huyền viết rõ: “Rev. 1: 1: The Revelation of Jesus Christ, which God gave Him to show to His servants – things which must soon take place, He made it known by sending his angel to his servant John....” [TCN tạm dịch: Lời khải thị, hay mạc khải, của Giê-su Ki-tô mà Chúa Cha đã ban cho ông ta để tỏ cho các tôi tớ của ông ta thấy những điều sắp phải xảy ra.  Giê-su tỏ điều khải thị này (cho các tôi tớ) bằng cách sai thiên sứ của ông ta đến với kẻ tôi tớ của ông ta là John (Gio-an hay Giăng)...].  Bây giờ chúng ta hãy đọc đoạn sau đây của Chúa Giê-su trong sách Khải Huyền, 9:3-5:

   Rồi từ đám khói bay xuống đất những con châu chấu.  Chúng được ban cho nọc độc như những con bọ cạp ở dưới đất.  Chúng được lệnh không được phá hại cây cỏ mà chỉ nhắm vào những người không có dấu ấn của Thượng đế đóng trên trán [nghĩa là những người không được Thượng đế chọn để cứu vớt trong ngày tận thế vì không tin vào Thượng đế].  Chúng không được quyền giết mà chỉ được tra tấn hành hạ những người này trong 5 tháng.  Và sự đau đớn cùng cực của những người này giống như khi bị bọ cạp chích.  Trong 5 tháng này, những người này muốn chết đi cho rồi mà không chết được. (Ôi! Chúa lòng lành của Ki Tô Giáo?]

     Nhưng thật ra, những cuộc tra tấn nạn nhân vô tội của Giáo hội trong những vụ xử án dị giáo, lạc đạo, và phù thủy còn dã man, khủng khiếp hơn là bị bọ cạp chích nhiều.  Tra tấn xong, và sau cuộc tra tấn thì nạn nhân nào cũng có tội.  Cuối cùng thì Giáo hội trao cho cánh tay thế tục của Giáo hội mang nạn nhân đi thiêu sống, dưới sự giám sát của giám mục hoặc linh mục.  Tại sao chính quyền thế tục lại phải nghe theo lời sai khiến của Giáo hội để thi hành những điều ác ôn như vậy.  Chúng ta nên nhớ rằng, trong thời Trung Cổ, quyền hành sinh sát của Giáo Hội là tuyệt đối, đứng trên thế quyền. 

   Ngày 18 tháng 11 năm 1302, Giáo hoàng Boniface VIII ban “sắc lệnh về hai lưỡi gươm” của Giáo hội (Bull of two Swords [Unam Sanctam = The One Holy]), đặt căn bản cho quyền hành của Giáo hội trong nhiều thế kỷ.  Sắc lệnh của Giáo hoàng tuyên dương là Giáo Hội nắm trong tay “hai lưỡi gươm”, nghĩa là hai mặt quyền lực. (“Two swords, that is, two powers):

     “Cả hai lưỡi gươm đề nằm trong quyền lực của Giáo hội, lưỡi gươm tinh thần và lưỡi gươm thế tục;  lưỡi gươm tinh thần được vung lên trong Giáo hội bởi giới chăn chiên; lưỡi gươm thế tục thi hành lệnh của Giáo hội bởi cánh tay quân sự của Giáo hội .. và quyền lực tinh thần có quyền thiết lập và hướng dẫn quyền lực thế tục, và phán xét quyền lực thế tục khi quyền lực này không thi hành đúng lệnh.. Bất cứ người nào chống lại hai lưỡi gươm này là chống lại luật của Thượng đế (Bull Unam Sanctam, Boniface VIII, 18 November 1302; Catholic Encyclopedia, xv, p.126)  [15]

    Nhưng tại sao sau khi tra tấn Giáo hội lại không giết phắt nạn nhân đi cho rồi, mà lại còn phải mang nạn nhân đi thiêu sống.  Là vì chính Chúa Giê-su đã dạy như vậy trong “Phúc Âm” (sic) John 15:6:

    Nếu  một người không chịu theo ta, nó sẽ bị quăng đi như một cành cây, và trở thành khô héo; rồi các người sẽ gom chúng lại, ném chúng vào ngọn lửa, và chúng bị đốt cháy.

    Không phải là tự nhiên và vô cớ mà Giáo hội lại đi săn lùng phù thủy, nếu thực sự có phù thủy ở trên đời, tra tấn họ và thiêu sống họ.  Đó là vì Giáo hội theo sát lời dạy trong những đoạn sau trong Thánh Kinh.

   Exodus 22: 18:  NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC ĐỂ CHO MỘT PHÙ THỦY ĐƯỢC SỐNG SÓT [King James Version: “You shall not suffer a witch to live”; Revised English Version:  “You must not allow a witch to live.”]; Leviticus 19:26  “Thiên Chúa sẽ đối mặt với các kẻ làm thầy pháp và giết hết bọn này trước mặt dân chúng”; Levi. 20:26-27  “Những kẻ làm phù thủy hoặc bói toán phải được đem ra giết hết”.  Và Giáo hội Công Giáo cũng như Tin Lành sau này đã theo đúng những luật man rợ này của Thiên Chúa trong Kinh Thánh để tiêu diệt những phù thủy, sản phẩm tưởng tượng của Thiên Chúa trong Kinh Thánh mà Công Giáo cũng như Tin Lành tin là có thật, hay vu là có thật, để theo đuổi những mục đích thế tục như chiếm hữu tài sản của nhưng nạn nhân. 

    Giám mục Bruno ở Segni nói:  “Những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo và Phù Thủy “được phát minh ra để cướp tài sản của những người giầu có.  Giáo hoàng và các linh mục của ông ta đều bị nhiễm độc bởi thú nhục dục; họ coi khinh Gót vì tôn giáo của họ đã bị chìm ngập trong một cơn đại hồng thủy của giàu sang” [16]

   Tin nhảm tin nhí vào Thánh Kinh, rằng phù thuỷ có thực trên thế gian, không chỉ là niềm tin trong Công Giáo mà còn trong Tin Lành.  Thật vậy, Martin Luther,  ông tổ của Phản Thệ Giáo, alias Tin Lành [thực sự chỉ là Tin Dữ], tin chắc cuốn Kinh Thánh là quyền uy tối cao, không ngần ngại thiêu sống phù thủy.

     Ông ta cho phép thiêu sống 4 phù thủy ở Wittenberg,.  Ông ta phát biểu: “Tôi không hề có lòng thương các phù thủy..Tôi có thể thiêu sống tất cả bọn họ. và Tin Lành John Calvin (1545) đích thân chỉ huy một chiến dịch ở Geneva chống 31 người bị kết án là phù thủy.  Calvin tuyên bố: “Kinh Thánh dạy chúng ta là có những phù thủy và họ phải bị giết.. luật này của Thiên Chúa là một luật phải được áp dụng khắp nơi” [17]

      Chúng ta thấy rằng, những câu trích dẫn ở trên từ cuốn Thánh Kinh, và nhiều câu khác cũng như nhiều chuyện trong Thánh Kinh, đã là căn bản, không những chỉ cho sách lược truyền đạo của Công Giáo, điển hình là ở Việt Nam, cho những cuộc Thập Ác Chinh, mà còn cho cả 7 núi tội ác của giáo hội Công Giáo mà giáo hoàng John Paul II cùng một số phụ tá cao cấp trong tòa Thánh, trong đó có Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, về sau được phong Hồng Y, đã công khai xưng thú với nhân loại ngày 12 tháng 3, 2000 tại thánh đường Phê-rô.

   Chúng ta có thể nêu ra vô số trường hợp chứng tỏ sự ngu dốt của Giáo hội trong lịch sử Giáo hội đã gây nên bao tác hại cho nhân loại, và sự ngu dốt đó còn kéo dài cho tới ngày nay khi Giáo hội còn mang cái gọi là “vạ tuyệt thông” hoang đường để hù dọa tín đồ, “đức vâng lời” để nô lệ hóa tín đồ, hoặc lập trường cứng rắn của Giáo hội về những vấn đề xã hội, nhất là vấn đề ngừa thai, cấm phá thai trước nạn nhân mãn, trong khi một số linh mục đã hiếp dâm chị em nữ tu Công giáo rồi dẫn họ đi phá thai.

Thực Chất Hàng Giáo Phẩm Công Giáo:

   Giáo dân Công giáo Việt Nam gọi giáo hoàng của họ là “đức thánh cha”.  Họ được dạy như vậy nhưng sự thực họ không biết gì về những “đức thánh cha” của họ.  Khoan kể lịch sử các giáo hoàng đã cho thấy có nhiều giáo hoàng tội ác ngập trời, ngay cả những giáo hoàng gần đây như Pius XII, John Paul II hay Benedict XVI cũng không được coi là có đạo đức tôn giáo.  Giáo hoàng đương nhiệm, Benedict XVI, khi còn là Hồng y thiết giáp Joseph Ratzinger, đã phê bình Phật Giáo bằng một câu rất vô giáo dục, gần đây ông ta cũng còn phán bậy về Hồi Giáo rồi phải xin lỗi, và chính ông ta đã ra lệnh cho các giám mục trên thế giới phải tiếp tục thi hành chính sách bao che, bưng bít các vụ giám mục và linh mục của ông ta can tội loạn dâm và ấu dâm.

    Giáo dân cũng gọi các linh mục của họ là “đức cha” mà sự thực không biết gì về các “đức cha” vô đức của họ.  Họ được dạy, đúng ra là bị nhồi sọ, để tin rằng “giáo hoàng” là những đại diện của Chúa trên trần (Vicars of Christ), có thể cho họ lên một “thiên đường mù” sau khi chết để sống cuộc sống đời đời với Chúa mà thực ra không phải là Chúa của họ.  Họ được dạy, đúng ra là bị nhồi sọ, để tin rằng các linh mục của họ đều là các “Chúa thứ hai” (Alter Christus), có quyền thay Chúa tha tội cho họ.  Trong bí tích xưng tội hoang đường, là “cha tha tội cho con” chứ không phải là “Chúa tha tội cho con” trong khi rất có thể Chúa, nếu thực sự có Chúa, không hề muốn tha tội cho họ.  Họ không hề biết rằng nhiều khi các “đức cha” của họ còn bê bối, tội lỗi hơn chính họ nhiều.  Ở Việt Nam, khi giáo dân phàn nàn về đạo đức của mấy “đức cha” thì được ông giám mục sở tại khuyên: “Các con đừng nói hành các Cha mà mang tội với Chúa”.  Giáo dân đầu óc thuộc loại mì ăn liền sợ mang tội với Chúa cho nên không dám hé môi, để mặc các “đức cha” tự tung tự tác, con rơi con vãi.  Nhưng trong thế giới Tây phương thì có khác.  Hơn 5000 linh mục ở Mỹ đã bị giáo dân đưa ra tòa vì tội loạn dâm và ấu dâm, và một số Hồng Y, Tổng Giám mục đã bị truy tố, lên án về tội bao che các linh mục phạm tội.  Giáo hội đã phải bỏ ra trên 2 tỷ đô-la để bồi thường cho các nạn nhân tình dục của các “Chúa thứ hai”.

      Vì tiếp tục sống trong bóng tối nên chúng ta thấy trên vài trang nhà của Công Giáo Việt Nam vẫn huênh hoang nói lên câu vô nghĩa: Giáo hội Công Giáo Rô-ma là “Giáo hội mạc khải, thánh thiện, duy nhất, và tông truyền” dù rằng hàng ngàn công cuộc nghiên cứu về Công Giáo của các học giả Tây phương, gồm cả các bậc chăn chiên như Linh mục, và cao cấp hơn như Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục, khoan kể đến các nhà thần học nổi danh thế giới như Hans Kung, Uta-Ranke Heineman, John Shelby Spong v..v.. đã chứng minh dứt khoát là Công Giáo tuyệt đối không có cái gì có thể gọi là “mạc khải, thánh thiện, duy nhất, và tông truyền”. Chúng ta hãy điểm sơ vài nét về lịch sử Công Giáo, về đạo đức của các Giáo hoàng và giới chăn chiên.

   Vì Giáo hoàng là “đại diện của Chúa” (Vicar of Christ) và là người chủ chăn đứng đầu Giáo hội cai quản đám con chiên ở dưới, nên sau đây tôi sẽ duyệt qua một số sự kiện về các Giáo hoàng và và hàng Giáo phẩm trong cung đình Vatican, xuyên qua đó hi vọng chúng ta có thể thấy rõ phần nào bản chất và thực chất của Giáo hội Công giáo.  Về lịch sử và đạo đức của một số không nhỏ Giáo hoàng, tôi đã viết bài “Đây! Những “Đức Thánh Cha”, Đại Diện Của Chúa Ki-Tô trên Trần và là Chủ Chăn của Giáo Hội Công Giáo :Thiên Khải, Duy Nhất, Thánh Thiện, Tông truyền,”  đăng trên sachhiem.net:  http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN20.php,  tôi sẽ không nhắc lại những chi tiết trong đó nữa.  Ở đây, tôi chỉ nêu lên một số sự kiện tổng quát để chứng minh là:

   Đọc lịch sử Giáo hội Công Giáo từ đầu cho đến ngày nay, chúng ta thấy đó là một lịch sử của những sự tàn bạo, giết người [cruelty and murder], những vụ mang tai tiếng (scandals), những chuyện vô luân [immorality], gian lận [frauds], gian dối (deceit], ngụy tạo [forgeries], hiếu chiến [aggression].  Tất cả những điều này sẽ được chứng minh trong phần tài liệu sau đây.

   Trước hết, tài liệu của Giáo hội về các Giáo hoàng bắt đầu bằng một sự ngụy tạo.  Người ta biết rằng lịch sử các Giáo hoàng viết bởi Giáo hội Công giáo đều chứa những văn kiện ngụy tạo [It is acknowledged that the popular Catholic version of the history of the popes are composed of forgeries], mà mục đích chính là để đánh bóng Giáo hội, mê hoặc tín đồ, che dấu sự thực.  Vatican xuất bản cuốn sách về các Giáo hoàng (Book of the popes) và cuốn “Liberian Catalogue”, đưa ra trước thế giới những thông tin ngụy tạo về các Giáo hoàng.  Phân tích tổng hợp hai cuốn sách trên, các học giả đã chứng minh là cả hai đều nổi rõ về những chuyện bịa đặt giả tưởng về những người kế vị Peter đầu tiên (both notorious for their fictions accounts of early and mythical “successors” of St. Peter” [Catholic Encyclopedia, ix, pp. 224-225; also Pecci ed., ii, p. 371] và Giáo hội không biết gì về các Giáo hoàng trong 6,7 thế kỷ đầu.  Trong những thế kỷ này, không có một Giáo hoàng nào có một khuôn mặt lịch sử rõ ràng [To glance at the sypnosis of each pope as given, the Church knows nothing whatever about the pontiffs of the first 6, 7 centuries, and not one of them is a clearly defined in history].

   Linh mục Delehaye, sau khi nghiên cứu cuốn sách trên, phát biểu:

   “Không có bất cứ một bằng chứng nào là danh sách các Giáo hoàng trong mấy thế kỷ đầu được căn cứ trên những tài liệu có từ trước; đơn giản là, không có một Giáo hoàng Ki-tô nào trong nhiều thế kỷ”  [18]

    Nhà thần học Anh, Anthony Collins (1676-1729) viết trong cuốn “Discourse of Freethingking (1713), trang 96:

    Nói ngắn gọn, những sự gian dối như vậy rất thông thường trong mọi cuốn sách viết bởi các linh mục.  Điều chắc chắn là họ dựa vào quyền năng của những tác phẩm trước, nhưng chính những tác phẩm này cũng là đồ giả, ngụy tạo, với các lý do hơn bất cứ lý do nào khác để hỗ trợ cho những sản phẩm về đức tin của họ với sự lươn lẹo nham hiểm. [19]

    Ngày nay, nếu chúng ta có đọc những cuốn sách viết về đạo của các linh mục Phan Phát Huồn, Bùi Đức Sinh, hay Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận v…v…, chúng ta cũng có thể thấy trong đó đầy những sự gian dối, ngụy tạo, không ngoài mục đích hỗ trợ cho đức tin của họ, bất kể đến sự bất lương và liêm sỉ trí thức.

   Đọc lịch sử Giáo hội Công giáo chúng ta thấy Giáo hội có cả một trường phái ngụy tạo (school of forgeries), chuyên ngụy tạo những văn kiện có lợi cho Giáo hội, hay sửa lại các tài liệu mà Giáo hội thấy rằng có hại cho uy tín và những thuộc tính tự tạo để tăng uy tín của Giáo hội, hoặc diễn giải Thánh Kinh theo chiều hướng lành mạnh hóa những điều xâu xa trong Thánh Kinh.  Những văn kiện ngụy tạo nổi tiếng nhất mà nay chính Giáo hội hoặc các nhà thần học trong Công giáo cũng phải thừa nhận là ba bằng chứng ngụy tạo sau đây:

-           Bản văn hiến dâng của Constantine (The Donation of Constantine);  mục đích là chứng minh chắc chắn rằng Giáo Hoàng là người kế thừa Phê-rô và Constantine, do đó có toàn quyền trên trái đất, và đàng sau hậu trường là sự hậu thuẫn của quyền lực từ trên trời. 

-          Ngụy tạo Tân Ước, rằng Giáo hội Công Giáo là do Chúa Giê-su thành lập, trao quyền cho Phê-rô, và các giáo hoàng đều là những người kế vị Phê-rô để chăn dắt đạo Chúa.

-          Ngụy tạo lời Giê-su, sau khi đã chết hiện ra dạy các tông đồ phải đi truyền đạo trên khắp thế giới.

   Quý độc giả có thể đọc chi tiết chứng minh ba sự ngụy tạo chính này trên trang nhà sachhiem.net: http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/Giesu/Giesulaai3.php

   Quý độc giả cũng có thể đọc bài “Những Tài liệu Ngụy Tạo và Quyền Lực Giáo Hoàng” [Forged Documents and Papal Power] của Nữ Tu Công Giáo Mary Ann Collins trên www.CatholicConcerns.com , hoặc bài “Ảnh hưởng lịch sử và sự sử dụng những tài liệu ngụy tạo để đẩy mạnh giáo lý về chế độ Giáo hoàng” [The Historical Influence and Use of Forgeries in Promotion of the Doctrine of the Papacy] của William Webster trên trang nhà: http://www.christiantruth.com/articles/forgeries.html để thấy rằng Giáo hội Công giáo đã ngụy tạo ra, không phải là một vài, hay một vài chục, mà hàng trăm các văn kiện để tạo quyền lực cho chế độ Giáo hoàng và Giáo hội.

   Chúng ta biết rằng, các tín đồ Công giáo ở các nước kém phát triển như trong thế giới thứ ba, hoặc như ở Việt Nam, Phi Luật Tân là những người cuồng tín nhất thế gian.  Làm sao mà Giáo hội có thể thành công trong việc nhào nặn đầu óc tín đồ đến độ họ không còn khả năng suy nghĩ.  Đó là vì Giáo hội đã sử dụng Học Thuật Công giáo (Catholic scholarship), phối hợp một nền thần học ngụy biện, dối trá với những văn kiện ngụy tạo, giả mạo.  Nguỵ biện vì lúc thì giải thích thế này, khi thì giải thích thế nọ, lúc thì giải thích suôi, khi thì giải thích ngược v..v..; dối trá vì không đúng với sự thật với chủ đích lừa dối; ngụy tạo, giả mạo là bịa đặt ra, thêm thắt vào. Học thuật này rất thành công đối với đám tín đồ ít học, đầu óc yếu kém, không đủ khả năng để nhận ra sự thật.  Nhưng ngày nay, học thuật này đã không còn chỗ đứng trong thế giới văn minh, tiến bộ.   Thật vậy, ngày nay, nhiều học giả, trí thức, chuyên gia v..v.. đã phanh phui ra những thủ đoạn lừa dối của giáo hội Công giáo.  Thí dụ, Douglas Lockhart đã viết trong cuốn  Cái Mặt Đen Tối Của Thiên Chúa (The Dark Side of God) như sau:

   Với khả năng phịa sử qua những tài liệu giả mạo trông như thật với dấu ấn của Giáo Hoàng, và lồng những tài liệu giả mạo này vào trong Giáo Luật, Giáo hội Công giáo đã tái tạo quá khứ của mình một cách có hệ thống để rồi cuối cùng tin vào những điều nói láo của chính mình. [20]

    Nữ học giả Helen Ellerbe cũng viết trong cuốn Cái Mặt Đen Tối Của Lịch Sử Ki Tô Giáo (The Dark Side of Christian History):

    Cuốn Tự Điển Bách Khoa của Công giáo cũng phải thừa nhận rằng “Trong mọi lãnh vực, sự giả mạo và thêm thắt vào cũng như sự ngu đần đã được tập họp thành trò tinh quái có hạng.” Dù rằng Giáo hội đã cấm không cho nghiên cứu thêm về nguồn gốc của các Phúc Âm, nhiều học giả đã chứng tỏ cả bốn Phúc Âm đều đã được xào xáo viết lại.  Trong khi Giáo hội tuyên bố rằng bản chất chân lý không thay đổi và chỉ được mạc khải một lần duy nhất, Giáo hội luôn luôn tìm ra lý do  để thay đổi chân lý đó. [21]

    Chúng ta hãy đọc đoạn sau đây của Cựu Linh mục dòng Tên, Peter Doeswyck, về những sự ngụy tạo của Giáo hội Công giáo La mã: http://www.mtc.org/3_98_nl.html#art1:

    Toàn thể cấu trúc của Giáo hội Công giáo La-mã được xây dựng trên những ngụy tạo, những lá thư tông đồ giả mạo, những bài giảng giả mạo, những phép lạ giả mạo, những di tích giả mạo (của các Thánh), những công đồng giả mạo, và những sắc lệnh giả mạo của các giáo hoàng. Sách Bách Khoa Toàn Thư của Công Giáo thú nhận về sự hiện hữu của nhiều ngàn những tác phẩm ngụy tạo.. Những phát minh của Giáo hội La-mã như Peter tử vì đạo ở La-mã (thế kỷ 2), sự thăng thiên của Mary (thế kỷ 6), quyền lực thế tục của Giám mục thành La-mã (Giáo hoàng) [thế kỷ 8], Quyền tối thượng của Giáo hội La-mã (thế kỷ 11), 7 Bí Tích (thế kỷ 13) v..v… chỉ có thể chứng minh bằng sự ngụy tạo…

   Các nhà thần học Công giáo nhận định rằng, với sự phát triển về quyền tối thượng của Giáo hoàng trong thời Trung Cổ, số văn thư của các giáo hoàng tăng lên thật nhiều: “Không còn nghi ngờ gì nữa là trong gần suốt thời Trung Cổ các tài liệu của các giáo hoàng và nhiều tài liệu khác đã được ngụy tạo không ngần ngại một cách rất vô lương tâm.  Nói về hàng ngàn các phép lạ về các di tích của các thánh của Giáo hội La Mã, những học giả này thú nhận là “chắc chắn phần lớn là giả mạo”, có “vô số các thánh tích chắc chắn là giả mạo”.  Những học giả này thú nhận những sự gian dối sau của Giáo hội La-mã: nguồn gốc chuỗi hạt mân côi hay các bài kinh cầu, sự hiện ta của Mary trước thánh Dominic,   xương vai của Mary và Mary hiện ra trước Simon Stock, những bậc thang thánh [Scala Santa = đó là 28 bậc thang bằng đá ở thánh đường John Lateran, thành La Mã,  được giáo hội dạy rằng các thiên thần đã mang chúng từ Jerusalem tới.  Đó là những bậc thang mà Chúa Giê-su đi xuống sau khi bị Pilate xử.  Trong các Phúc Âm không có chỗ nào nói về các bậc này, nhưng dây không phải là vấn đề đối với giáo hội, vì giáo hội bảo con chiên thế nào thì con chiên phải nghe như vậy.  Vì sự mê tín cùng cực vào những điều nhảm nhí như trên nên các tín đồ Công Giáo hành hương nơi đây thường leo 28 bậc này bằng đầu gối.  (Those who adored the Pope: "And kissed—whatever he gave them to kiss, Toe, relic, embroidery, nought came amiss,").  TCN], những truyền thuyết về thánh tích của thánh Veronica, cây “thánh giáo” [đâm lên người Giê-su sau khi Giê-su bị đóng đinh] v..v… [22]

       Chúng ta hãy đọc một trường hợp điển hình về sự ngụy tạo của Giáo hội trong vô số các vụ ngụy tạo.

   Trong những ấn bản đầu của bộ Tự Điển Bách Khoa Encyclopedia Britannica, Giáo sư  Rockwell, một sử gia chuyên nghiên cứu về lịch sử giới lãnh đạo Công giáo, đã viết về Giáo hoàng Boniface VIII như sau: tham lam, huênh hoang kiêu căng làm cho ông ta có nhiều kẻ thù.  Nhiều người cho rằng hắn liên kết với Satan [avarice, lofty claims and frequent exhibition of arrogance made him many foes; he was believed by many to be in league with the Devil (3rd ed., 1797)]  Sau ấn bản thứ 11 vào năm 1898, Giáo hội Công giáo mua lại nhà xuất bản Encyclopedia Britannica và chỉ trong vài năm, những ấn bản mới được phát hành và những đoạn nói về Boniface VIII được lệnh phải xóa bỏ. Đến năm 1943, các ấn bản của Giáo hội được trao trách nhiệm cho đại học Loyola ở Chicago.  Trong những thập niên tiếp theo, các vị chăn chiên đi từng nhà tín đồ ngây thơ và rao bán được nhiều triệu bộ.

   Thật ra, rất ít người, nhất là các tín đồ Công giáo, biết rằng nhiều văn kiện chính thức của Giáo hội Công giáo đã ghi lại những việc xấu xa trong toàn thể hệ thống hàng giáo phẩm Công giáo, và những uẩn hàm xung quanh sự hiểu biết này đã bắt đầu có những quan điểm mới khi xét trong ánh sáng của lời dạy chính của Giáo hội, cho rằng hệ thống giới chăn chiên rất sùng tín [nghĩa là giới chăn chiên chẳng sùng tín mà chỉ lợi dụng chức vụ cho những mục đích thế tục. TCN] [23]

   Nhưng với sách lược cố hữu là che dấu sự thực nên Giáo hội đã dấu nhẹm những văn kiện này và thay thế chúng bằng những tài liệu ngụy tạo để đánh bóng bộ mặt của Giáo hội.  Một luận điệu dối trá của Giáo hội mà chúng ta thường thấy các tín đồ Công giáo Việt Nam thường nhắc lại mà người Công giáo Việt Nam thường lập lại như những con vẹt là “Giáo hội đã là tôn giáo đưa Âu Châu đến nền văn minh hiện đại”.  Điều này hoàn toàn sai với những sự thực lịch sử.  Ngày nay, thế giới đã biết rằng chế độ Giáo hoàng, thay vì dẫn giắt Âu Châu trên con đường tiến tới văn minh, thực ra những đại diện của Công giáo đã đưa Âu châu qua nhiều thế kỷ xung đột và thoái hóa. [The world is learning that the papacy, instead of having guided Europe along a path to civilization, has even in its best representatives inaugurated centuries of conflict and degradation].

Giáo hội và nền văn minh Âu Mỹ?

   Giáo hoàng và giáo hội luôn luôn nhập nhằng lấy cái nền văn minh Âu Mỹ làm nền văn minh KiTô.  Giáo hoàng John Paul II phát biểu là "Một nền văn minh xứng đáng với con người phải là nền văn minh KiTô."   Hồng Y Spellman khi sang Việt Nam ủy lạo binh sĩ Mỹ cũng khẳng định họ "đang chiến đấu để bảo vệ nền văn minh KiTô Tây phương."   Và trên vài diễn đàn điện tử chúng ta vẫn thấy một số tín đồ Công giáo huênh hoang và ngu ngơ quảng cáo rằng nền văn minh Tây phương chính là nền văn minh của Ki tô giáo.

   Chúng ta đã thấy những chính sách đốt sách vở của Công giáo, chính sách tiêu diệt các nền văn hóa địa phương, giết người ngoại đạo, bách hại dân Do Thái, và đàn áp các khoa học gia vì những khám phá của họ ngược với Thánh Kinh v..v..  Vậy nền văn minh KiTô là nền văn minh nào, có phải là nền văn minh hiện thời không?  Có bao nhiêu khoa học gia, tư tưởng gia, triết gia tuyệt đối tin vào KiTô giáo đã đóng góp cho nền văn minh hiện đại và đóng góp những gì?  Hay là nền văn minh hiện đại bắt nguồn từ những khoa học gia bị Giáo hội bạo hành, rồi phát triển qua những khoa học gia, tư tưởng gia mà giáo hội đã không còn quyền hành để thiêu sống hay bắt giam nữa.

      Chúng ta cũng đã biết, khi Giáo hội Công giáo La Mã nắm quyền thống trị ở Âu Châu thì đã kéo bức màn "man rợ và đen tối trí thức" phủ lên Âu Châu trong 10 thế kỷ.  Sau thời đại hắc ám này, chúng ta thấy xuất hiện ở Âu Châu những thời đại Phục sinh (Renaissance), thời đại Khai sáng  (the age of Enlightenment), thời đại lý trí (the age of reason), thời đại cách mạng khoa học (the age of scientific revolution), thời đại phân tích (the age of analysis), thời đại kỹ nghệ (the industrial age) v...v... Tất cả những thời đại này lập thành nền văn minh hiện nay của Tây phương, và lịch sử đã chứng minh rằng, Giáo hội Công giáo đã hết sức ngăn chặn sự phát triển trí thức của nhân loại này nhưng đã hoàn toàn thất bại.  Các đại tư tưởng gia Tây phương như Voltaire, Montesquieu, Rousseau, Victor Hugo, Thomas Paine v...v.. là những người đi tiên phong trong vấn đề cải cách xã hội, đề xướng quyền tự do và nhân quyền của con người.  Tác phẩm của họ đều bị Giáo hội giam chặt trong cái gọi là "danh sách những tác phẩm cấm tín đồ đọc" (Index of banned books).  Những khoa học gia tiên phong của cuộc cách mạng khoa học như Copernicus, Kepler, Bruno, Galileo v...v... đều bị Giáo hội dùng "sự ngu dốt và bạo quyền khống chế sự thật" giam  cầm hoặc thiêu sống.   Vậy,  có  thể tin được chăng, nền văn minh Tây phương là nền văn minh Ki Tô?  Có lẽ chúng ta nên duyệt qua vài tài liệu lịch sử để thấy thực chất của Công giáo La Mã trong nền văn minh Tây phương như thế nào.

   Trước hết, chúng ta cần biết là nền văn minh Âu Mỹ được xây dựng trên những tư tưởng khai phóng về những quyền tự do căn bản của con người như tự do tín ngưỡng, tự do suy tư v..v.., những quyền mà giáo hội luôn luôn chống đối,  và những thành quả khoa học với kết quả làm tăng mức sống thoải mái của con người. Giáo hội đã góp được những phần nào trong sự tiến bộ của con người qua các thời đại?  Hàng giáo phẩm Công giáo, với nhiệm vụ chăn dắt tín đồ, đã làm những gì để mở mang đầu óc của những tín đồ ngoài một số tác phẩm về Thần học mà mục đích chỉ để bảo vệ các tín lý giáo hội đưa ra, giữ tín đồ trong vòng mê tín, ngu muội.

   Đã đành rằng, trong hàng giáo phẩm Công giáo cũng có những vị đóng góp cho nền văn minh Âu Mỹ qua những công cuộc khảo cứu về khoa học và xã hội nhưng số này quả thật hiếm hoi, và Giáo hội đã hoặc khai trừ họ, hoặc thiêu sống họ (Bruno), vì những đóng góp của họ không phù hợp với những giáo điều Công giáo, cho nên phải nói rằng, nền văn minh Âu Mỹ không phải là nền văn minh Ki Tô như Giáo hội thường nhập nhằng tự nhận.  Vài tài liệu sau đây sẽ chứng tỏ điều trên.  Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu về cuộc cách mạng khoa học ở Âu châu, khởi điểm của nền văn minh Âu Mỹ hiện đại.

  Cuộc cách mạng khoa-học ở Tây phương phát khởi từ  thế kỷ thứ 16,  phát  triển mạnh trong thế kỷ thứ 17, mở đầu bằng những công trình khảo cứu và tư tưởng của Nicolaus Copernicus (1473-1543), Giordano Bruno (1548-1600), Galileo Galilei (1564-1642),  Johannes Kepler (1571-1630) v...v...Người ta gọi đó là 1 cuộc cách mạng khoa học, bởi vì nhờ đó mà Tây phương thoát ra khỏi cảnh tăm tối đã kéo dài gần 1000 năm, từ năm 476 tới năm 1473.  Thời gian này thường được gọi là thời Trung Cổ và cũng còn được gọi là thời kỳ đen tối hay thời kỳ hắc ám (Dark Ages).  Chính trong khoảng thời gian này, Tây phương đã bị thống trị bởi một ý thức hệ tôn giáo độc tôn.  Những giáo điều, tín lý của Công Giáo cộng với quyền hành  của hàng giáo phẩm Công Giáo ở địa vị nắm quyền, trên cả những chính quyền thế tục đương thời, đã ngăn chặn sự phát triển khoa học và tự do tư tưởng của con người.  Mọi khám phá khoa học, mọi tư tưởng trái ngược với Thánh Kinh đều bị lên án là 'tà đạo" (heretics), phải diệt trừ.  Do đó, cũng chính trong khoảng thời gian này, Tây phương phải chịu đựng, như chúng ta đã biết, 8 cuộc Thập Tự Chinh (Crusades) và hàng trăm ngàn các vụ xử án dị giáo (Inquisitions), với kết quả là nhiều triệu người gồm già, trẻ, lớn, bé, trai, gái đã bỏ mạng vì, hoặc bị tàn sát, có khi tập thể; hoặc bị tra tấn bởi những dụng cụ tra tấn kinh khủng nhất trong lịch sử nhân loại; hoặc bị treo cổ, hoặc bị thiêu sống v...v..., tất cả chỉ vì họ không chấp nhận hay có những tư tưởng ngược với Thánh Kinh.

   Cuộc cách  mạng  khoa học  đã gây nên hai ảnh hưởng to lớn trong giới khoa học và ngoài xã hội dân gian.  Trong giới khoa học, đó là khởi điểm của của các tiến bộ khoa học về sau.  Trong xã hội đại chúng, đó là khởi điểm của sự đạp đổ nền độc tài tôn giáo và những giáo điều lỗi thời, vì những khám phá khoa học mới đã có tác dụng mở mang dân trí, điển hình là cuộc cách mạng năm 1789 tại Pháp mà kết quả là tước bỏ quyền hành của giới lãnh đạo tôn giáo trong quần chúng.  Ảnh hưởng của cuộc cách mạng khoa học vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Tây phương được viết trong các sách giáo khoa mà bất cứ sinh viên đại học nào học về khoa học cũng phải biết.

   Nhưng trong thời mà quyền hành của Giáo hội còn ngự trị trên nhân loại thì Giáo hội vẫn đưa ra quyết định:

   "Điểm thứ nhất, nói rằng mặt trời là trung tâm và không quay xung quanh trái đất, là điên rồ, vô nghĩa, sai lầm theo thần học, và là tà thuyết vì trái ngược hẳn với Thánh Kinh; và điểm thứ hai, nói rằng trái đất không phải là trung tâm mà lại quay xung quanh mặt trời , là vô nghĩa, sai lầm theo triết lý, và ít nhất từ quan điểm thần học, đối nghịch với chân tín ngưỡng"  [24]

      Giáo hội cũng cấm các giáo sĩ và con chiên đọc sách của Copernicus và Galilei.  Lệnh cấm này kéo dài suốt 278 năm cho tới năm 1821 mới được Giáo Hoàng Pius VII thu hồi và tới năm 1822 Giáo hội mới chịu khuất phục trước những sự thật khoa học: rằng trái đất quay xung quanh mặt trời chứ không phải là mặt trời quay xung quanh trái đất như lời mạc khải của ông Thượng đế toàn năng, toàn trí của Giáo hội..  Nhưng cấm thì cứ cấm, giới trí thức cùng người dân đọc thì vẫn cứ đọc. Dần dần quyền hành tôn giáo ở Âu Châu không còn địa vị độc tôn và giữ quyền sinh sát như trước nữa, vì cuộc cách mạng khoa học và các phát triển khoa học về sau trong mọi ngành, nhất là về vũ trụ học, nhân chủng học và di truyền học, và phương pháp định tuổi của vật chất bằng phóng xạ đồng vị Carbon v...v... đã làm sụp đổ tận gốc rễ thuyết sáng tạo trong Thánh Kinh, căn bản tín ngưỡng của Công giáo .  Đó là ảnh hưởng trực tiếp to lớn của cuộc cách mạng khoa học trên xã hội Tây phương và đưa đến sự suy thoái của Ki Tô Giáo trên khắp thế giới, nhất là trong các thế giới văn minh Âu Mỹ..

    Qua  những  tài liệu  dẫn chứng  ở  trên chúng ta thấy rằng không có một nền văn minh nào xứng đáng với danh từ  văn minh mà  có thể gọi là nền văn minh KiTô.  Sự nhập nhằng vơ nền văn minh Tây phương vào làm nền văn minh Ki-Tô là sách lược quen thuộc của Công giáo để khuyến dụ những người kém hiểu biết trong những quốc gia nghèo khổ, những người không hề biết gì về lịch sử cũng như bản chất của Công giáo.

   Để có một nhận định chính xác hơn về mối tương quan giữa nền văn minh Âu Mỹ và KiTô giáo, chúng ta hãy đọc đoạn sau đây của John E. Remsburg trong cuốn "Những lời tự nhận sai sự thực" ("False Claims",  trg. 16-17 ):

   "KiTô giáo có liên quan gì tới nền văn minh của dân tộc này?  Chắc chắn là không; và nếu không có đám mây thiên kiến trước mắt họ, những tín đồ KiTô sẽ thấy rõ rằng KiTô giáo không tạo nên nền văn minh của chúng ta.  Họ sẽ thấy rằng thay vì giáo hội văn minh hóa thế giới, chính cái thế giới duy lý trong nhiều thế kỷ đã từ từ văn minh hóa giáo hội.

   Chính ngay cái bản chất của KiTô giáo đã loại bỏ cái khả năng tiến bộ như là một nguyên lý tự hữu của tôn giáo này; và bất cứ có sự tiến bộ nào, ở trong hay ở ngoài giáo hội, đều do những nguyên nhân mà giáo hội không kiểm soát được.  Giáo  hội tự cho là nắm giữ chân lý, chân lý toàn diện, chỉ là chân lý.  Mọi đề nghị thay đổi, mọi khám phá mới, đối với giáo hội là sai sự thực, và, do đó, giáo hội chống đối.  Giả thử giáo hội thành một  đế  quốc  trên  toàn  thế  giới,  mọi  tiến  bộ sẽ phải ngưng ngay lập tức.  Những Huxley và Haeckels của chúng ta sẽ bị diệt trừ thẳng cánh, ngọn đuốc Lý Trí sẽ bị tắt ngấm, và cái lòng tin mù quáng sẽ là sự chỉ đạo duy nhất của chúng ta.  Giáo hội đã cho ta những bằng chứng  quyết định về sự thực này.  Trong nhiều thế kỷ, quyền lực của giáo hội ở Âu Châu là cao nhất, nhưng ngay cả những văn sĩ KiTô cũng phải gọi những thế kỷ đó là thời đại đen tối.

   Chỉ khi chủ thuyết duy lý khai sinh, khi khoa học bắt đầu phát triển, và KiTô giáo bắt đầu suy thoái, nền văn minh hiện đại mới ló dạng.  Lecky nói rằng: "Trong hơn 3 thế kỷ, sự suy thoái của những ảnh hưởng thần học là một trong những dấu hiệu không thể chối cãi để đo sự tiến bộ của chúng ta."  Carlyle nói rằng: "Kiến thức càng tăng, lòng tin càng giảm."   Strauss nói rằng: "Thời Trung Cổ tín ngưỡng tôn giáo thì tỷ lệ thuận với sự ngu si và man rợ.  Tôn giáo và văn minh không ở cùng vị thế mà trái ngược đối với nhau, cho nên với sự văn minh tiến bộ, Ki Tô giáo phải lui." [25]

 

Phần II. TIN LÀNH:

 

   Thực ra thì “Tin Lành” là dịch từ từ “Phúc Âm” [Gospels] nghĩa  là dựa theo 4 Phúc Âm của Matthew, Mark, Luke và John trong Tân ước.  Người Ki Tô Giáo cho đó là Phúc Âm hay Tin Matthew, Mark, Luke và John trong Tân ước.  Người Ki Tô Giáo cho đó là Phúc Âm hay Tin Lành, nhưng người ngoại đạo với đôi chút hiểu biết thì lại cho đó là “Tin Dữ” hay “Tin Xấu” vì  nội dung của Tân ước, ngoài vai trò của Giê-su như là “Chúa cứu thế” mà Giám Mục Tin Lành John Shelby Spong đòi phải dẹp bỏ: http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN37.php , và niềm hoang tưởng về sự “cứu rỗi” của Giê-su mà Linh Mục James Kavanaugh đã coi như là một huyền thoại:  http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN36.php, còn lại toàn là Tin Dữ hay Tin Xấu.  Không phải là vô căn cứ mà Giáo sư đại học David Voas viết cả một cuốn sách dưới tên “Cuốn Thánh Kinh Mang Tới Tin Xấu: Cuốn Tân ước” [David Voas, The Bad News Bible: The New Testament, Prometheus Books, New York, 1995]

    Có lẽ chúng ta cũng nên biết qua là “Đạo Tin Lành Khác Với Công Giáo La-Mã Như Thế Nào?”  Thực ra, câu hỏi này đã được một người hỏi Robert G. Ingersoll từ cuối thế kỷ 19: “Sự khác biệt giữa đạo Công giáo và đạo Tin lành là gì? Và đạo nào tốt hơn?” (What is the difference between Catholicism and Protestantism? and which one is better?).  Và câu trả lời của Ingersoll có thể nói là chính xác, ngắn gọn, và đầy đủ nhất: Tin lành khá hơn vì có ít chất Công giáo hơn [nghĩa là ít độc tài, ít giáo điều, ít những lễ tiết mê tín hoang đường hơn, và ít tội ác hơn], nhưng sự khác biệt giữa đạo Công giáo và đạo Tin lành chỉ là sự khác biệt giữa một con cá sấu lớn và một con cá sấu nhỏ. (Protestantism is better because it is less Catholic, but the difference between Catholicism and Protestantism is only the difference between an alligator and a crocodile).  Ingersoll là nhà tư tưởng tự do (freethinker) vĩ đại nhất của nước Mỹ.

     Ingersoll đã nhận xét rất đúng về thực chất của đạo Tin Lành cũng như Công Giáo: đó là hai định chế tôn giáo độc hại, xấu xí, một xấu nhiều, một xấu ít hơn, nếu chúng ta xét đến lịch sử của cả hai đạo.  Công Giáo có một lịch sử lâu dài hơn Tin Lành nên gây tác hại cho nhân loại nhiều hơn là Tin Lành, mới được thành lập từ thế kỷ 16.  Khi Giáo hoàng John Paul II xưng thú trước thế giới 7 núi tội ác của Công giáo đối với nhân loại thì Tin Lành cũng dự một phần đáng kể trong đó, bởi vì Tin Lành cũng can dự vào những núi tội ác như:  Giết hại phù thủy, bách hại dân Do Thái, thi hành chính sách diệt chủng dân da đỏ ở Bắc Mỹ, không tôn trọng các nền văn hóa khác v..v.., tất cả đều có những bàn tay dính nhơ đầy máu và đầu óc có chứa một loại “gen” đặc biệt của Tin Lành.

    Về hình thức, giữa Tin Lành và Công Giáo có sự khác biệt.  Những tín đồ Công Giáo thực chất là nô lệ của cấu trúc quyền lực của Giáo hội Công Giáo, nghĩa là nô lệ của các bề trên từ Giáo hoàng xuống tới các Linh mục qua giáo lý nô lệ hóa tín đồ là “đức vâng lời”.  Vì vậy các tín đồ Công Giáo đều phải nhắm mắt mà tin những tín lý, tín điều Giáo hội bầy đặt ra, mục đích chính là để tạo quyền lực cho giới chăn chiên..  Còn tín đồ Tin Lành thường được coi là ở trong một định chế dân chủ, nhưng thực chất là nô lệ của cuốn Thánh Kinh,  hay nói đúng hơn, nô lệ của những đoạn đã được chọn lọc kỹ trong Thánh Kinh.  Nhưng đi sâu vào phương cách nhồi sọ tín đồ thì cả hai đều giống nhau, đều có những mánh mung để nhốt tín đồ vào trong những khuôn phép tâm linh, nếu không muốn nói là ngục tù tâm linh, đã định sẵn. 

    Đạo Tin Lành tin ở cái gì?  Theo Mục sư Nguyễn Văn Huệ giải thích thì đức tin Tin Lành là như sau:

       Người Tin Lành tin tưởng Thánh Kinh là uy quyền duy nhất và đầy đủ của đức tin. Người Tin Lành chỉ tôn trọng những truyền thống nào của Hội Thánh phù hợp với Kinh Thánh. Người Tin Lành muốn trở về với cội nguồn đức tin và hình thức sống đạo theo như Thánh Kinh dẫn, không thêm, không bớt.

    Thực tế là, ngày nay những ai còn nói chuyện mạc khải, hay thẩm quyền của Thánh Kinh, thật ra chỉ là những người còn sống trong bóng tối, lạc hậu ít ra là vài thế kỷ.  Bởi vì, thực tế là, Thánh Kinh có phải là do Thiên Chúa mạc khải hay không thì trong Thánh Kinh, những chuyện  loạn luân vẫn là loạn luân, độc ác vẫn là độc ác, giết người vẫn là giết người, phi lý phản khoa học vẫn là phi lý và phản khoa học v..v...  Thật vậy, tất cả những chuyện thuộc các loại sau đây chiếm hơn nửa cuốn Kinh Thánh: bạo hành giết người (Violence & Murder), giết người hàng loạt (Mass Killing), loạn luân (Incest), ăn thịt người (Human Cannibalism), độc ác đối với trẻ con (Child cruelty), tục tĩu quá mức (Scatology), trần truồng (Nakedness), đĩ điếm (Harlotry), hiếp dâm (Rape), thù hận tôn giáo và chủng tộc (Religious & Ethnic Hatred), nô lệ (Slavery), say rượu (Drunkeness) v..v.. [Xin đọc cuốn Tất Cả Những Chuyện Tục Tĩu Trong Kinh Thánh (All The Obscenities In The Bible) của Gene Kamar], chưa kể là những lời “mạc khải” của Thiên Chúa về vũ trụ, nhân sinh, đã chứng tỏ là hoàn toàn sai lầm trước những sự kiện khoa học bất khả phủ bác ngày nay.

    Tôi thực tình không hiểu người Tin Lành tin những gì trong  cuốn Thánh Kinh của họ.  Sách lược truyền đạo của họ là chỉ đưa ra những câu lạc lõng trong Thánh Kinh hợp với niềm tin của họ, hoặc có đôi chút đạo lý, và lờ đi những đoạn không thể đọc được chiếm phần lớn Thánh Kinh.  Thật vậy, nếu chúng ta mở cuốn Thánh Kinh ra và đọc với một đầu óc chưa bị nhiễm độc, đọc từ đầu đến cuối, đừng bỏ sót phần nào, thì chúng ta sẽ thấy rằng tuyệt đại đa số những điều viết trong Thánh Kinh là những chuyện không nên đọc, nhất là đối với các trẻ vị thành niên. Nếu ngại công tìm kiếm những điều trên, có đầy trong Thánh Kinh, tôi xin giới thiệu một số tác phẩm trong đó các tác giả đã trích dẫn sẵn những câu, những đoạn trong Thánh Kinh mà lẽ dĩ nhiên các tín đồ Tin Lành hay Công giáo không bao giờ được nghe giảng trong nhà thờ:

 -  “Cuốn Thánh Kinh Thuộc Loại Dâm Ô: Một Nghiên Cứu Bất Kính Về Tình Dục Trong Thánh Kinh” [The X-Rated Bible: An Irreverent Survey of Sex in the Scripture, AA Press, Austin, Texas, 1989] của Ben Edward Akerley: cuốn sách dày hơn 400 trang, liệt kê những chuyện tình dục dâm ô, loạn luân trong Thánh Kinh.

- “Tất Cả Những Chuyện Tục Tĩu Trong Thánh Kinh” [All The Obscenities in the Bible, Kas-mark Pub., MN, 1995] của Kasmar Gene: cuốn sách dày hơn 500 trang, liệt kê tất cả những chuyện tục tĩu, tàn bạo, giết người, loạn luân v..v.. (Human sacrifice, murder and violence, hatred, sex, incest, child cruelty etc..) trong Thánh Kinh.

- “Sách Chỉ Nam Về Thánh Kinh” [The Bible Handbook, AA Press, Ausrin, Texas, 1986]  của W. P. Ball, G.W.Foote, John Bowden, Richard M. Smith ...: Liệt kê những mâu thuẫn (contradictions), vô nghĩa (absurdities), bạo tàn (atrocities) v..v.. trong Thánh Kinh.

- “Sách Hướng Dẫn Đọc Thánh Kinh Của Người Sống Lại [trong Chúa] Nhưng Hoài Nghi” [The Born Again Skeptic’s Guide To The Bible, Freedom From Religion Foundation, Wisconsin, 1979]  của Bà Ruth Hurmence Green: Bình luận những chuyện tàn bạo, dâm ô, kỳ thị phái nữ trong Thánh Kinh.

- “Một Trăm Điều Mâu Thuẫn Trong Thánh Kinh” [One Hundred Contradictions in the Bible, The Truth Seeker Company, New York, 1922]  của Marshall J. Gauvin: Liệt kê 100 điều mâu thuẫn trong Thánh Kinh.

- “Lột mặt nạ Thánh Kinh” [The Bible Unmasked, The Frethought Press Association, New York, 1941] của Joseph Lewis:  đưa ra những sai lầm trong Thánh Kinh.

- “Thẩm Vấn Ki Tô Giáo” [Christianity Cross-Examined, Arbitrator Press, New York, 1941] của William Floyd:  Phân tích từng quyển một trong Thánh Kinh.

- “Ki Tô Giáo Và Loạn Luân” [Christianity and Incest, Fortress Press, MN, 1992] của Annie Imbens & Ineke Jonker:  Viết về Ki Tô Giáo và vấn đề loạn luân, những sự kiện về loạn luân và kỳ thị phái nữ bắt nguồn từ Thánh Kinh.

    Xin nhớ rằng, những cuốn sách khảo cứu về Thánh Kinh như trên đã được phổ biến rộng rãi trên đất Mỹ, và Công Giáo cũng như Tin Lành, dù có nhiều quyền thế và tiền bạc, cũng không có cách nào dẹp bỏ những cuốn sách trên, hay đối thoại để phản bác, vì tất cả đều là sự thật.  Vì thế nên Khoa học gia Ira Cardiff đã đưa ra một nhận xét rất chính xác như sau:

    “Hầu như không có ai thực sự đọc cuốn Thánh kinh.  Cá nhân mà tôi nói đến ở trên (một tín đồ thông thường) chắc chắn là có một cuốn Thánh kinh, có thể là cuốn sách duy nhất mà họ có, nhưng họ không bao giờ đọc nó - đừng nói là đọc cả cuốn.

   Nếu một người thông minh đọc cả cuốn Thánh kinh với một  óc phê phán  thì chắc chắn họ sẽ vứt bỏ nó đi."  [26]

   Đó là những sự thực về cuốn sách mà người Tin Lành tuyệt đối tin vào để được lên Thiên đường (mù) sống cuộc sống đời đời, lẽ dĩ nhiên là sau khi chết, cùng Chúa của họ, trong trường hợp hãn hữu được Chúa biết đến và tặng cho một cái bánh vẽ  “cứu rỗi” ở trên trời. 

    Trước khi đi vào chi tiết để tìm hiểu thêm về đạo Tin Lành, tôi muốn nhắc lại ở đây nhận định của Robert G. Ingersoll, nhà tư tưởng tự do vĩ đại nhất của nước Mỹ, vào cuối thế kỷ 19:

    Tin Lành Giáo thật sống dai.  Điều này chứng tỏ cái gì?  Nó chứng tỏ là quần chúng thì mê tín và các mục sư và những người đi giảng đạo thì đần độn (stupid). [27]

     Nhận định của Robert G. Ingersoll như trên đúng hay sai, xin để cho quý độc giả tự mình phán xét, và tôi tin chắc những người Tin Lành ngoài phái bảo thủ cũng tự biết bản chất của tôn giáo mình theo là như thế nào.  Riêng đối với tôi, đọc những bài của nhóm Tin Lành Việt Nam, từ các Mục sư cho tới những người được gọi là “trí thức Tin Lành” như Huỳnh Thiên Hồng, Lê Anh Huy, Nguyễn Huệ Nhật v..v.. chúng ta thấy rõ là nhận định của Ingersoll không sai một mảy may.  Không những họ cuồng tín và đần độn mà còn cho chúng ta thấy, đạo Tin Lành đã làm cho họ mê mẩn đến độ trở thành ngu xuẩn hết mức, và đặc biệt là không còn biết đến các truyền thống văn hóa của dân tộc là gì.  Sau đây là vài trường hợp điển hình về những đầu óc vô cùng ngu xuẩn của Tin Lành Việt Nam.

 1.   Trong bài Lửa Đã Cháy Trên Quảng Trường Mỹ Đình, Hà Nội, http://hoithanh.com/, chúng ta có thể đọc vài đoạn như sau:

     “dầu sống, hay chết, quyết dâng trọn đời sống cho Jesus...” Những anh em chúng tôi xác tín với nhau rằng, dầu phải chết chúng tôi cũng sẽ thực hiện bằng được chương trình này để tôn cao danh Đức Chúa Trời trên đất nước Việt Nam."

Và nhất là cái gọi là “Tuyên Ngôn Thuộc Linh”:

   Dân tộc Việt Nam chắc chắn thuộc về Đức Chúa Trời. Mọi xiềng xích tội lỗi và rủa sả của các thế hệ trước đã bị tuyên bố cắt đứt, hình ảnh con rồng, tức con rắn xưa là ma quỷ kể từ nay không còn tiếp tục được ảnh hưởng trên dân tộc Việt Nam. Việt Nam thuộc về Đức Chúa Trời, từ nay dân tộc Việt Nam sẽ được phước, Hội thánh Việt Nam sẽ bước vào một cơn phấn hưng chưa từng có và trong một tinh thần hiệp một khắng khít trước mặt Đức Chúa Trời... Đó chính là nội dung chính của "Tuyên ngôn thuộc linh" được dõng dạc tuyên bố trước hàng ngàn trái tim ngày đêm quặn thắt cho dân tộc. 

   Chúng ta thấy, họ là những kẻ điên, không phải là những con người có đầu óc bình thường.  Họ có quyền tin thờ một người dân thường Do Thái sống với một ảo tưởng, Giê-su;  họ có quyền dâng trọn đời sống, hay chết, cho người họ tôn thờ; họ có quyền tôn cao danh Đức Chúa Trời của họ, nhưng họ ngu xuẩn đến mức là không biết rằng họ tuyệt đối không có quyền xúc phạm đến cả dân tộc Việt Nam như trên.  Tỷ lệ Tin Lành ở Việt Nam so với Công Giáo không đáng kể.  Và Tin Lành đang suy thoái khắp nơi trên thế giới, kể cả trên nước Mỹ.  Vậy mà họ vẫn huênh hoang muốn đem đồ phế thải về làm ô nhiễm dân tộc Việt Nam.  Tuy nhiên, họ ngu xuẩn là vì cái “gen” Tin Lành của họ, và từ cái “gen” này họ mới có những hành động ngu si vô trí.  Nhưng vấn đề là tại sao Nhà Nước lại để cho họ ăn nói như vậy. Đây không phải là vấn đề “tự do ngôn luận”, hay vấn đề “tự do tín ngưỡng” mà là vấn đề xúc phạm đến cả một dân tộc mà đa số tuyệt đối người dân coi Tin Lành như một “tà đạo”Phải chăng đã có sự mua chuộc trong tầng lớp cán bộ.  Nhà Nước không có trách nhiệm gì trong vụ ăn nói bừa bãi này hay sao?  Và tại sao người dân phi Tin Lành không có phản ứng trước những lời hỗn hào láo xược như trên của Tin Lành?  Tôi không hô hào một cuộc chiến tranh tôn giáo, nhưng tôi tha thiết kêu gọi tầng lớp trí thức Việt Nam trong Tam Giáo, trong các tôn giáo khác ở Việt Nam, hãy tham gia mặt trận văn hóa, thẳng thắn vạch ra những cái tầm bậy của Tin Lành.  Ngày nay, chúng ta có đầy đủ những thông tin về bản chất và thực chất của Tin Lành.

 

2.   Một chuyện khôi hài nhất thế kỷ đã xảy ra ở Việt Nam trước đây:  Mục Sư Tin Lành [sic] Trần Long thuộc Liên Đoàn Truyền Giáo Phúc Âm Việt Nam, lấy tư cách của một “môn đồ của Chúa Jesus” để gửi một “Thông Điệp Phước Lành [sic]” cho “Nhà Cầm Quyền Việt Nam”, một thông điệp, xin lỗi quý độc giả vì tôi không kiếm được từ nào thích hợp hơn, có thể nói là ngu xuẩn và mê tín nhất thế gian, để kêu gọi nhà cầm quyền hãy từ bỏ nền văn hóa dân tộc để theo nền văn hóa Tin Lành, cũng là nền “văn hóa thiên đàng”.  (Ở trên thế giới này làm gì có cái gọi là “văn hóa Tin Lành” hay “văn hóa thiên đàng”, có chăng chỉ là nền văn hóa mù quáng, hay văn hóa mê tín, hay văn hóa hoang tưởng của các con cừu Tin Lành) mà mục sư Trần Long cho là nền văn hóa của cả nhân loại, có nghĩa là biến nước Việt Nam thành nước Tin Lành [Trần Long: Phục hồi bản sắc văn hóa của dân tộc là để văn hóa Tin Lành tuôn chảy trong lòng dân tộc- vì đây là văn hóa của dân tộc Việt Nam cũng là văn hóa toàn thế giới. .]  Đây là một hành động của một kẻ không có đầu óc, cuồng tín cực đoan, muốn mang niềm tin thuộc thời bán khai của mình mà ngày nay thế giới văn minh Âu Mỹ đang dần dần loại bỏ, để áp đặt trên toàn thể đất nước.

   Cái mà mục sư Trần Long gọi là “Phước Lành” hay “Tin Lành”, thực ra chỉ là “Hiểm Họa” hay “Tin Dữ”.  Cái gọi là “thông điệp phước lành” của mục sư chỉ toàn là một thứ thuộc loại mê tín hoang đường như “Chúa sáng tạo”, “Kính sợ Chúa”, “Biết ơn Chúa”, “Thờ phượng Chúa” “Nước Thiên Đàng vinh hiển”, “Đức Chúa Trời sẽ giáng họa” và vô số những điều tin nhảm nhí khác về Jesus, phản ánh một đầu óc mê muội chưa từng thấy.  Đó là những “Tin Dữ” hay “Tin Xấu” (Bad News) đã mang họa dữ đến cho nhân loại.  Điều này đã thật là rõ ràng nếu chúng ta đọc qua cái lịch sử đẫm máu của Ki-tô Giáo, những hành động ác ôn của Ki-tô Giáo, tất cả đều nhân danh “Tin Lành”. Mục sư Trần Long muốn biến người Việt Nam thành những con cừu đi theo sự dẫn dắt của một đám gọi là Mục sư, đầu óc kém cỏi, cuồng tín như Trần Long, để tin nhảm tin nhí vào một người Do Thái đã chết mà bản chất là vô đạo đức, đạo đức giả, ác độc và lòng đầy thù hận: Jesus.  Thủ đoạn truyền tà giáo của các mục sư như Trần Long là viết láo lếu về Kinh Thánh, Lịch Sử nhân loại, và trích dẫn lắt léo Kinh Thánh , làm như không ai biết đọc Kinh Thánh.

   Chúng ta hãy thử đọc một đoạn trong cái thông điệp quái gở này mà Nhà Nước phải kiên nhẫn chịu đựng sự lạm dụng quyền tự do một cách ngu xuẩn để viết bậy, viết nhảm nhí nấp sau bình phong tự do tín ngưỡng.  Nhà Nước nên nghe lời đề nghị của Charlie Nguyễn trước đây, không nên nhân nhượng với loại người coi thường chính quyền và dân tộc này.

    Với tư cách là người Việt Nam và là môn đồ của Chúa Jesus; với tư cách là người của Đức Chúa Trời trong đất nước được gọi là tự do tín ngưỡng, tôi có trách nhiệm trên đất nước mình đang ở, tôi phải tuân thủ luật pháp nhà nước mà Đức Chúa Trời đã bổ nhiệm nhà nước nầy cầm quyền, nhưng chúng tôi cũng có trách nhiệm tuân thủ luật pháp của Chúa Jesus – là lời Đức Chúa Trời.

    Với tư cách là một người Mỹ gốc Việt, không phải là môn đồ của Chúa Jesus, tôi xin có vài lời ngỏ cùng mục sư Trần Long.  Đất nước Việt Nam quả là một đất nước có tự do tín ngưỡng, cho nên ai muốn làm môn đồ của Chúa Jesus thì cứ việc làm, không có ai ngăn cản.  Nhưng môn đồ của Chúa Jesus thì không có tư cách gì ngoài tư cách của một con chiên.  Tại sao? Vì đối với mục sư Trần Long thì Jesus là Chúa,  là Đức Chúa Trời,  nhưng đối với những người ngoại đạo như chúng tôi, và cả những người trí thức trong đạo Ki-Tô,  những người đã từng nghiên cứu kỹ Kinh Thánh của Ki Tô Giáo, thì Jesus không có cái gì xứng đáng để gọi là Chúa hay Đức Chúa Trời.  Khoan kể đến hơn 90% người dân Việt Nam cũng như hơn 4 tỷ người trên thế giới không biết hay không muốn biết Jesus là ai.  Do đó ông Trần Long chỉ có thể lấy tư cách của một công dân Việt Nam chứ không thể lấy tư cách của một môn đồ của Chúa Jesus, một người Do Thái đã chết tám hoánh từ 2000 năm nay,  để bàn quốc sự Việt Nam.  Chỉ có một điều sơ đẳng này mà mục sư Trần Long cũng không hiểu, tưởng rằng mang cái nhãn hiệu “môn đồ của Chúa Jesus” ra là vinh hạnh lắm.  Nếu mục sư biết rõ Jesus là ai thì cái nhãn hiệu “môn đồ của Chúa Jesus” chẳng có gì là vinh hạnh mà rất có thể là một biểu hiện của sự ô nhục (a badge of shame).  Tôi có cần phải chứng minh ở đây không?

 3.   Trường hợp điển hình thứ ba là về bức “Tâm Thư Ngỏ” của ông Tin Lành Khuất Minh ở Việt Nam.   Mở đầu “Tâm Thư ngỏ” ông Khuất Minh viết:

 Ngày 11 tháng 8 năm 2001

Kính gửi ông Tổng biên tập báo An Ninh Thế Giới

Đồng kính gửi ông Trần Chung Ngọc, tác giả bài báo Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo tại hải ngoại.

 Tạ ơn Đức Chúa Trời, nhân danh một công dân của vương quốc Thiên Đàng của Đức Chúa Jésus Christ, tôi trân trọng gửi lời chào đến quý ông, đồng thời xin gửi đến quý ông một số ý kiến của mình về bài báo của tác giả Trần Chung Ngọc đăng trên trang 30 báo An Ninh Thế Giới số 226 ngày thứ Tư 11/07/2001.

    Tôi không hiểu báo An Ninh Thế Giới có nhận được Tâm Thư ngỏ này không và thái độ của họ đối với bức Tâm Thư này ra sao, chứ tôi thì tôi không hề nhận được, và nay chỉ đọc 1 câu trên tôi đã cảm thấy vô cùng ngán ngẩm.  Tôi không thể tưởng tượng là cái đạo Tinh Lành lại có thể biến đầu óc của một con người thành tê liệt đến độ như vậy, không còn một khả năng suy nghĩ nào, chỉ biết nhắm mắt mà tin, không cần biết, không cần hiểu.  Tình trạng thê thảm này còn rõ hơn trong những phần sau của bức Tâm Thư. Tôi cũng không hiểu nổi là tại sao gửi 1 bức Tâm Thư cho ANTG và cho Trần Chung Ngọc ông Khuất Minh lại phải tạ ơn Đức Chúa Trời?   

    Thứ đến, nhân danh là một công dân của vương quốc Thiên Đàng của Đức Chúa Jésus Christ để gửi 1 bức Tâm Thư cho tờ báo ANTG của Bộ Công An nước CHXHCNVN với nội dung chỉ trích chế độ CS và hi vọng người ta sẽ có đáp ứng thỏa đáng?  Ở trên đời này có người nào đần đến độ như vậy không?  Hay là đầu óc của ông ấy đã bị thuốc phiện Tin Lành làm cho bất bình thườngKhông những tác giả của bức Tâm Thư này đần đến độ ngớ ngẩn mà những người đăng bức Tâm Thư này trên Internet cũng đần không kém.  Bộ các ông cho rằng Bộ Công An CS cần biết cái vương quốc Thiên Đàng của Chúa Jésus Christ là cái gì, hay công dân của nước đó là ai hay sao

    Tôi nói cho các ông biết một sự kiện, chính giáo hoàng John Paul II, chủ chăn của số tín đồ Công giáo đông gấp 3 lần số tín đồ Tin Lành trên thế giới, muốn tới La Vang, trước đây cướp được của Chùa Phật Giáo ở đó nhờ thế lực của thực dân Pháp để làm “thánh đường”, hòng nuôi dưỡng lòng mê tín và khích động lòng cuồng tín của giáo dân, cũng phải xin phép nhà nước CHXHCNVN, và nhà nước đã từ chối, không cho phép.  Vậy thì một công dân của cái gọi là vương quốc Thiên Đàng của Chúa Jésus Christ mà không ai biết nó ở đâu thì có tư cách gì để “trả lời” một bài báo đăng trên tờ An Ninh Thế Giới của Bộ Công An Việt Nam.  Việt Nam có biết cái vương quốc Thiên đàng đó ở đâu đâu, và lẽ dĩ nhiên, chẳng làm gì có quan hệ ngoại giao nào với cái vương quốc tưởng tượng đó. May ra thì nhiều nhất là Bộ Công An biết được sự kiện là cái người mà ông Khuất Minh gọi là Chúa Jésus Christ thì đã bị đóng đinh trên một cái giá bằng gỗ có hai thanh, một thanh dài và một thanh ngắn, đóng thẳng góc với nhau, và đã chết cách đây khoảng gần 1980 năm rồi.

    Đến đây chắc quý độc giả đã thấy đầu óc của những người Tin Lành thuộc loại như thế nào.  Tất cả là bắt nguồn từ sự tin nhảm nhí vào cuốn Thánh Kinh.  Loại đầu óc như vậy không chỉ có ở Việt Nam mà còn ở trên đất Mỹ được coi là văn minh nhất thế giới.  Pat Roberson, nhà truyền giáo trên TV, cho rằng vụ động đất ở Haiti gần đây là sự trừng phạt của Thiên Chúa của Ki Tô Giáo, vì người Haiti khi xưa đã ký hợp đồng với Satan (pack with the Devil), không biết rằng gần 90% người dân Haiti theo Công giáo. Trước đây ông ta cũng cho trận bão Katrina ở New Orleans là do Chúa trừng phạt vì nơi đây hợp thức hóa chuyện phá thai, và cho rằng bệnh AIDS là do Thiên Chúa “sáng tạo” ra để trừng phạt những người đồng giống luyến ái (homosexuals). 

Hiển nhiên là Pat Roberson ngu đến độ không biết là tại sao có những thiên tai bão lụt, động đất v.. v… đã xảy ra trên thế gian cả ngàn vụ, và trong nhiều trường hợp, các chuyên gia đã có thể tiên đoán được khi nào sẽ xảy ra.. 

     Một trường hợp điển hình khác ở Mỹ là, sau vụ 9-11 ở New York, trước ngày lễ Halloween, 31 tháng 10 hàng năm, Mục sư Tin Lành Deacon Fred, trong một bài giảng cho các tín đồ, cho rằng bổn phận của người Ki-tô là phải giết phù thủy ngay trong thời đại này:

    Thiên Chúa rất rõ ràng ở đây, thưa quý vị, ông ta không muốn cho các phù thủy sống.  Chúng ta phải giết các phù thủyNếu không, chúng ta đang bất tuân lệnh của Thiên Chúa.  Jesus sẽ vui mừng  đến chảy nước mắt nếu ông ta từ trên đám mây cúi xuống và hít hà mùi thịt nướng của một phù thủy trong ngày lễ Halloween này. [Trong ngày lễ Halloween vào 31 tháng 10 mỗi năm, rất nhiều người ăn mặc giả làm phù thủy kéo ra chật đường phố]  Có phải là như vậy đã phá tan ngày sinh nhật nhỏ của Satan không?  Hãy ca tụng Thiên Chúa. [Vui mừng khi được hít hà mùi thịt nướng của một con người] Thật là xấu hổ vì chính quyền Mỹ đã ngăn cấm người dân không được thực hành lệnh trong Kinh Thánh là phải thiêu sống phù thủy. [28]

    Sự tai hại của niềm tin vào những điều viết nhảm nhí trong Kinh Thánh thật đã rõ rệt.  Ở nơi nào mà Khi Tô Giáo, đặc biệt là đám Tin Lành cuồng tín, đám người tin tất cả vào uy quyền tối thượng của Kinh Thánh,  nắm quyền thế tục thì lịch sử đẫm máu của Ki Tô Giáo sẽ lại tái diễn. Tất cả bắt nguồn từ niềm tin vào cuốn sách gọi là Kinh Thánh và nhân danh Thiên Chúa của họ. 

     Hiểm họa Tin Lành là một sự kiện rõ như ban ngày, khó ai có thể chối cãi. Vấn nạn của những người Tin Lành tân tòng Việt Nam là không biết đầu óc học đã bị điều kiện hóa như thế nào để đến nỗi trở thành những kẻ mê muội, cuồng tín đến mức phi lý trí, phi dân tộc, bất chấp sự tiến bộ trí thức của nhân loại, bất chấp những sự thực hiển nhiên về chính tôn giáo của họ. 

  Do đó, mọi người Việt Nam phi Ki-Tô phải có bổn phận ngăn chận cái hiểm họa này, không thể  để cho cái tế bào ung thư này tự do lan rộng trong xã hội lành mạnh về tâm linh của chúng ta .   Đọc những luận điệu cuồng tín của Trần Long, Khuất Minh và “Tuyên ngôn thuộc linh” ở trên, chúng ta thấy rõ Tin Lành là một đạo hoàn toàn không thích hợp với người Việt Nam, những niềm tin thuộc thời man rợ bán khai của họ đã đang phá sản ở Âu Mỹ hoàn toàn bất phù hợp với truyền thống văn hóa chiết trung (synchretic) về tôn giáo của Việt Nam..

   Vậy biện pháp nào thích hợp nhất để bảo vệ và gìn giữ nền văn hóa truyền thống của Việt Nam?  Tôi cho rằng, để tránh cái hiểm họa Công Giáo và Tin Lành, cái hiểm họa đã được chứng tỏ trong 2000 năm lịch sử của Ki Tô Giáo, đặc biệt là Công giáo , ở Việt Nam, ngoài việc cương quyết canh chừng, kiểm soát những phương cách truyền đạo bất chính, con đường hữu hiệu nhất là con đường mở mang dân trí.  Qua con đường này, người dân sẽ biết rõ về bản chất và những sự thực về Ki Tô Giáo nói chung, Công Giáo nói riêng, và từ đó sẽ không còn bị mê hoặc bởi những lời truyền đạo giả dối, che đậy thực chất mê tín, hoang đường, phi lý của Ki Tô Giáo mà ngày nay thế giới Tây Phương đã nhận thức rõ và đang từ bỏ dần dần.  Nhà Nước cũng cần huấn luyện một đội ngũ trí thức nắm vững nội dung Kinh Thánh và lịch sử các giáo hội Công Giáo và Tin Lành cùng kiến thức thời đại về các bộ môn khoa học để có thể công khai chất vấn các nhà truyền đạo về mọi mặt trong các cuộc giảng đạo hay truyền đạo của họ. Chúng ta nên nhớ, “người Ki Tô Giáo, nhất là Công giáo, chỉ sợ sự thật.”  

   Mở mang dân trí, cập nhật hóa kiến thức thời đại, đây chính là một nhiệm vụ quan trọng trong thời đại ngày nay, không chỉ riêng của chính quyền mà là nhiệm vụ chung của mọi người dân Việt Nam nào còn có lòng với dân tộc, đất nước, còn trân quý truyền thống văn hóa và tôn giáo của Việt Nam.  Tôi hi vọng giới trí thức, nhất là giới trẻ ngày nay, hãy nhận thức rõ tầm quan trọng của lãnh vực văn hóa này.  Vì lợi ích của mọi người, và vì tương lai của dân tộc và đất nước, chúng ta hãy cùng nhau tích cực hoạt động trong đường hướng mở mang dân trí, giúp người dân nhận thức được những sự thật về các tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam. 

   Chúng ta đã biết, mất đi chỗ đứng trong thế giới Tây phương, Công Giáo cũng như Tin Lành đều có mưu toan bành trướng sang Á Châu, nơi đây ở một số nơi,  Giáo hội đã có sẵn một đám thuộc hạ cuồng tín, nô lệ, bảo sao nghe vậy, và con người còn đang sống trong cảnh khó khăn vật chất và thiếu hiểu biết.  Họ là nhưng mồi ngon trong sách lược truyền đạo của Ki Tô Giáo.  Đối với đất nước Việt Nam, đó là một hiểm họa cần phải phòng ngừa nếu chúng ta muốn bảo vệ và gìn giữ nền văn hóa truyền thống của Việt Nam. Không có lý do gì để cho người dân tiếp tục bị lừa dối để chấp nhận những đồ phế thải của Tây phương mà lịch sử đã chứng tỏ trái nghịch với truyền thống văn hóa và tôn giáo của Việt Nam

    Tại sao những người Tin Lành lại đều có một loại đầu óc hầu hết là ngu đần và cuồng tín như trong những trường hợp đã nêu ở trên.  Chúng ta hãy đọc một chút về sự phân tích vấn đề của Mục sư Tin Lành Rubem Alves.    Trong cuốn “Đạo Tin Lành Và Sự Đàn Áp” (Protestantism and Repression, Orbis Books, New York, 1985), Mục sư Tin Lành Rubem Alves, giáo sư đại học ở Campinas, Brazil, đã phân tích rất sâu sắc về mọi khía cạnh của đạo Tin Lành, đặc biệt là về tâm thức của những người tân tòng trong Chương 2: Cải Đạo:  Cái Khuôn Xúc Động Tình Cảm Của Tin Lành (Conversion: The Emotional Matrix of Protestantism), dài 24 trang giấy, từ 22 đến 46.  Đây là một cuốn sách, dày 215 trang, rất hữu ích cho những người nào muốn tìm hiểu về đạo Tin Lành, từ cấu trúc tình cảm, nhận thức thực tại, cho đến phương pháp tẩy não, nhồi sọ những giáo điều mà Tin Lành chấp chặt bất kể đến những bằng chứng về lô-gic, về khoa học, về xã hội, những bằng chứng trái ngược với Kinh Thánh một cách rất hiển nhiên.  Chúng ta hãy đọc một đoạn ngắn trong mục “Cải Đạo và Khổ” (Conversion and Suffering), trang 43-44, để thấy rõ Tin Lành đã lợi dụng những tình trạng khủng khoảng về vật chất và tinh thần của con người như thế nào để kéo họ vào trong vòng mê tín của Tin Lành:

      Sự phân tích vấn đề của chúng tôi đưa đến kết luận là, kinh nghiệm cải đạo là sự đáp ứng của một tình trạng khủng khoảng.  Sự cải đạo giải quyết một ngõ bí tình cảm.

   Đó là tại sao giáo hội phát triển nhanh hơn trong những địa phương ở đó những tiến trình xã hội đã gây ra sự khổ, đặc biệt là từ hoàn cảnh ngoài lề xã hội và sự sụp đổ ý nghĩa của cuộc đời.. Những địa phương như vậy là ưu tiên số một của các nhà thờ ở địa phương, mà những nỗ lực để tạo nên đời sống trong giáo hội được chú trọng trong những địa phương này.

   Tôi không nói điều gì mới lạ đối với những người Tin Lành.  Không có sự cải đạo (vào Tin Lành) nếu không có sự khủng khoảng, không có sự cải đạo mà không có sự khổ.  Cải đạo là một quá trình mà con người hấp thụ sự khổ thành một ý nghĩa mới của cuộc đời và làm cho nó có ý nghĩa...

   Có phải là khó hiểu không khi mà (vai trò của) Giê-su Ki-tô không thể rao giảng được cho những người cảm thấy mình an toàn, hạnh phúc, cho những người cảm thấy đời sống thật đáng sống, cho những người không đang ở trong cơn khủng khoảngCó phải là kỳ cục không khi mà Đấng Ki-tô  chỉ có thể trình bày và làm cho có ý nghĩa trong những tình trạng bệnh hoạn trong đó con người bị nhiễm bởi sự bất an, bởi những cảm xúc tội lỗi, và sợ hãi cái chết?  Thật ra nhiệm vụ của những nhà truyền bá phúc âm là gì?  Nhiệm vụ của họ là gán cho một cơn khủng khoảng những cái tên thần học trong khi nguồn gốc của nó chỉ là tâm lý xã hội.  Nhà truyền bá phúc âm tìm cách khơi động một cơn khủng khoảng mà con người có thể không cảm thấy trước, rồi từ đó, và chỉ từ đó, họ mới có thể tuyên bố: “Chúa Ki-tôt là giải đáp”

   Chúng tôi bắt buộc phải kết luận rằng thế giới chỉ mở chỗ cho Chúa Ki-tô khi nó cảm thấy ốm đau, bệnh hoạn.  Có một lý do thần học nào để giải thích là tại sao sự sợ hãi cái chết lại là những bí tích đặc quyền của sự cứu rỗi?  Nói cách khác, kinh nghiệm cải đạo giả định là điểm gặp nhau giữa Thiên Chúa và thế giới là sự khổ và thống khổ.  Có phải là có một cách nhìn thực tại một cách tự mãn trong sự đau khổ (sadomasochistic vision of reality) tiềm ẩn ở đàng sau giả định như vậy? [Tác giả dùng từ sadomasochistic nghĩa là phối hợp của sadism (thỏa mãn trong sự độc ác) và masochism (cảm thấy thích thú khi bị thống trị hay bị bạc đãi).  Về điểm này, Tin Lành không khác gì Công Giáo. Trong một cuộc hành hương tại Lộ Đức (Lourdes), Giáo hoàng John Paul II đã phát biểu là ngài chia sẻ sự đau đớn vật chất của các tín đồ và bảo đảm với họ là những sự đau đớn bệnh hoạn của họ là nằm trong “kế hoạch kỳ diệu” của Thiên Chúa. (Pope John Paul II joined thousands of other ailing pilgrims at Lourdes... telling them he shares in their physical suffering and assuring them that the burden is part of God’s “wondrous plan”.)  Không hiểu khi ông ta bị bắn suýt chết, và khi bị bện Parkingson run rẩy chân tay, ăn nói lắp bắp thì ông ta có nghĩ đó là “kế hoạch kỳ diệu” của Thiên Chúa dành cho người “đại diện của Chúa ở trên trần” không?]

     Sự khổ được biến đổi thành một dạng ân sủng, vì nó mang đến cho kẻ tội lỗi một cơ hội để gặp Chúa Ki-tô.  [Ở đây, chúng ta lại thấy Tin Lành và Công giáo gặp nhau ở điểm này.  Thật vậy, một học giả chuyên gia viết tiểu sử, Anne Sebba, đã sang tận Calcutta và nhiều nơi khác để quan sát nhưng “cơ sở từ thiện” (sic) của bà Teresa, và đã viết trong cuốn “Mother Teresa: Beyond The Image” (Mẹ Teresa: Ngoài Cái Hình Ảnh Đã Được Dựng Lên) là: “Công việc từ thiện của bà Teresa không bắt nguồn từ chính lòng từ thiện mà động cơ thúc đẩy chính là để làm sáng danh Chúa và để truyền đạo...  Bà Teresa đã khẳng định rằng công việc từ thiện bà làm là để phục vụ Chúa, không phải phục vụ con người, phục vụ Chúa bằng cách kiếm thêm nhiều tín đồ cho Chúa mà những sự đau khổ, bất hạnh của con người là những cơ hội để bà làm việc thiện, chứng tỏ lòng “từ bi” (sic) của bà.” (Xin đọc bài Đâu Là Sự Thực? trên trang nhà Giao Điểm).]  Sự khổ càng lớn thì những cơ hội truyền đạo càng nhiều.  Có phải chăng điều này hàm ý là Giáo hội được đặt trong một vị thế khó hiểu là thường cầu nguyện cho nhân loại bị khổ nhiều hơn để cho con người có thể chấp nhận thông điệp của giáo hội?  Đây là câu hỏi mà Dietrich Bonhoeffer [Một nhà thần học Ki-tô bị chết trong nhà tù của Đức Quốc Xã] đặt trước Giáo hội.     

   Vậy những nhà biện hộ cho đức tin Ki-tô, những người mang những “tin lành” thực sự đã làm những gì?

   Họ chứng tỏ cho những người đang ở trong tình trạng an toàn, hài lòng, hạnh phúc, thực ra là chẳng sung sướng gì, tuyệt vọng, và không ý thức được rằng mình đang ở trong tình trạng nghiêm trọng mà mình không biết gì về nó, từ đó chỉ có họ (những nhà truyền bá phúc âm) mới có thể cứu được.  Bất cứ ở nơi nào mà có sự khỏe mạnh, sức sống, sự an toàn, bình dị, họ dò xét để kiếm những trái cây ngọt ngào [những kẻ nhẹ dạ, cả tin] để gặm nhấm hoặc kiếm chỗ đặt những cái trứng độc hại của họ trong đó.  Họ đặt mục tiêu số một vào cách đưa con người vào tình trạng tuyệt vọng nội tâm, và từ đó những người này sẽ hoàn toàn lệ thuộc họ. [Bonhoeffer].

   Cải đạo (theo Tin Lành) là một giải đáp cho một vấn nạn đau đớn.  Người ta bắt đầu đi từ cải đạo đến một quan niệm về thế giới có tác dụng ngăn ngừa sự tái xuất hiện của kinh nghiệm bất an tiên khởi.  Mục đích [của cải đạo] là đuổi đi sự sợ hãi.  Nếu sự cải đạo đã đủ để chứng minh có thể đuổi đi sự sợ hãi, tâm thức con người sẽ gắn chặt vào kinh nghiệm cải đạo và vào quan niệm mới về thế giới.  Đó là tại sao mọi lý luận không có tác dụng ở trình độ này.  Chúng ta có thể đưa ra mọi thứ bằng chứng – lô-gic, khoa học, hay bất cứ bằng chứng nào khác – để kêu gọi người cải đạo suy tư về kinh nghiệm cải đạo của họ.  Bằng chứng này bị bác bỏ ngay lập tức bởi người tân tòng. [Bởi vì người tân tòng sợ phải đối diện lại với một tâm thức bất an như trước.]  [29]

    Nơi trang 84-85, mục sư Rubem Alves còn cho chúng ta biết rõ những người tân tòng đã cải đạo vào Tin Lành như thế nào và tâm thức của họ đã bị cộng đồng Tin Lành thay đổi như thế nào để họ có thể được chấp nhận trong “hội thánh” (sic) Tin Lành.  Đọc xong đoạn sau đây chúng ta sẽ hiểu rõ hơn tại sao những tín đồ Tin Lành như Lê Anh Huy, Huỳnh Thiên Hồng hay Nguyễn Huệ Nhật, Trần Long, Khuất Minh v…v..  lại như những con vẹt, nhắc lại y chang những điều mà họ được truyền dạy trong những cộng đồng Tin Lành:

    Tình trạng của một kẻ tân tòng giống như tình trạng của một đứa trẻ lần đầu tiên đi đến trường học.  Họ không biết gì hết.  Kiến thức sẽ được dàn xếp để truyền cho họ bởi một người [tự cho là] đã có kiến thức (về Tin Lành).  Quá trình học tập là một quá trình tập sự.  Sự tương giao xã hội giữa hai bên không phải là một sự tương giao bình đẳng.  Ông thầy và kẻ tập sự, thầy dạy giáo lý và kẻ tân tòng học hỏi, không ở cùng một trình độ.  Một người là thuộc cấp của người kia; do đó quyền lực nằm trong phương trình này.  Những người dạy giáo lý là những người có quyền năng áp đặt những định nghĩa về thực tại của mình; những kẻ tân tòng học hỏi là những người không có quyền giữ những định nghĩa về thực tại của mình..

   Ngay cả trước khi những kẻ tân tòng học hỏi bất cứ điều gì về thế giới, họ được dạy để tự coi mình như là không biết gì.  Những kiến thức của họ được để trong dấu ngoặc và được dạy phải  nghi ngờ.  Họ không được phép viện ra những điều mà họ cho là họ biết để phê bình loại kiến thức mà “hội thánh” muốn chuyển đạt cho họ.  Tại sao vậy?  Vì kiến thức có trước của họ là tài sản từ các thời kỳ tăm tối và bị đầy đọa từ trước.  Đầu óc của họ được đưa về tình trạng của những trang giấy trắng.  Họ không có gì để nói; nhiệm vụ của họ là nghe.  Là những kẻ tập sự và học hỏi, họ phải tuân phục định chế của giáo hội trong yên lặng.  Nay họ biết rằng định chế đó có độc quyền về sự hiểu biết tuyệt đối, do đó có độc quyền để nói.

     Như vậy, trong thế giới Tin Lành, quá trình học hỏi bắt đầu bằng một bài học thuộc loại đặc biệt về mối giao hệ xã hội: những người dạy giáo lý nói, những kẻ học hỏi ngồi yên; những người dạy giáo lý giảng dạy, những kẻ học hỏi nhắc lại.  Nếu những kẻ học hỏi không biết là mình tin cái gì (như những người giảng dạy tự cho là mình đã biết), họ không đủ tư cách để nói.  Đúng là những kẻ tân tòng được tự do tỏ lộ tình cảm của mình.  Nhưng họ không thể nói điều gì về sự hiểu biết của họ.  Đó là tại sao loại ngôn từ thích hợp của những kẻ tân tòng học hỏi là nhắc lại, như sách giáo lý (của Tin Lành) đã minh họa rõ ràng.  Những sách giáo lý là sách đầu tiên để cho những kẻ tân tòng tập sự và học hỏi.  Chúng chứa những câu hỏi và những câu trả lời viết sẵn.  Khi nào thì những kẻ tân tòng học hỏi hiểu sách giáo lý của Tin Lành?  Khi họ có thể đọc thuộc lòng những câu trả lời in sẵn trong đó.  Sự học hỏi của cộng đống Tin Lành được định nghĩa theo loại kiến thức đó, và sự kiểm tra sự học hỏi của những kẻ tân tòng là khả năng nhớ  và nhắc lại những câu hỏi và câu trả lời trong sách giáo lý.  Theo cách này tâm thức tập thể của cộng đồng Tin Lành được in vào đầu óc và tâm thức của thành viên.  Thế còn vấn đề tự do tìm hiểu thì sao?  Thế còn vấn đề để cho những kẻ tân tòng học hỏi tự mở mang trí tuệ?  Không thể tìm thấy ở đâu trong đạo Tin Lành. [30]

    Ngoài ra, mục sư Rubem Alves còn cho chúng ta biết, trang 34, là Tin Lành cấy vào đầu tân tòng mặc cảm tội lỗi, và để có thể vào trong cộng đồng Tin Lành, người tân tòng phải tin rằng mình sinh ra trong tội lỗi, và vì cái bản chất tội lỗi đó con người không thể làm điều gì tốt (Believe that you were born in sin, and that by nature you are incapable of doing good.).  Để thoát ra khỏi cái bản chất tội lỗi đó, con người chỉ có một cách: chấp nhận Giê-su Ki-tô là đấng cứu chuộc duy nhất và đầy đủ (Accepting Christ as the sole and sufficient savior).  Cái công thức này không khuyến khích làm thiện mà chỉ cần đầu phục Giê-su Ki-tô (The formula calls not for doing  but for surrendering to Christ).  Thật vậy, rất mực đạo đức còn thường được coi là một chướng ngại trong sự cải đạo (Indeed moral excellence is often considered an obstacle to conversion).

     Những người Tin Lành Việt Nam, đầu óc mù mịt, không biết rằng thế giới đã thay đổi nhiều, và những điều rao giảng của Tin Lành về Chúa Giê-su, về nước “thiên đường” v… v… nay đã không còn mấy giá trị trong cả ngay nội bộ Tin Lành.  Những tác phẩm của Giám mục Tin Lành Jogn Shelby Spong, Mục sư Ernie Bringas  và Rubem Alves v…v… đã nói rõ hơn gì hết sự phá sản tâm linh của Tin Lành.  Thật vậy, chúng ta hãy xét đến một điều giảng dạy chính của Ki Tô Giáo, chung cho Công giáo và Tin Lành về “Tình yêu của Thiên Chúa”:

   Trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng, xuất bản năm 1995, trang 76,  để trả lời câu hỏi “Tại sao nhân loại cần cứu rỗi?”, Giáo hoàng John Paul II đã trích dẫn một câu trong Phúc Âm John 3: 16  làm luận điểm giải thích, “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban Con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.”, nhưng lờ đi câu  tiếp theo, John 3: 18: “Người nào không tin vào Giê-su thì đã bị đầy đọa rồi, vì người đó không tin vào đứa con duy nhất của Thượng đế.”  Theo tôi, mấy câu trên là những câu vô nghĩa và bậy bạ nhất trong Tân Ước vì những câu này chỉ có thể áp dụng cho những người sinh sau Giê-su mà thôi. Lẽ dĩ nhiên chỉ có những người sinh sau Giê-su mới có thể biết đến Giê-su và tin Giê-su để không bị luận phạt và có cuộc sống đời đời, lẽ dĩ nhiên sau khi chết.  Nhưng  lịch sử loài người đâu chỉ bắt đầu từ khi Giê-su 30 tuổi. Ấy thế mà vẫn có vô số người tin vào những cái câu nhảm nhí này.  Ngày nay, trên đất Mỹ chúng ta thấy nhan nhản những bảng hiệu đề “Giê-su Yêu Bạn” [Jesus loves you], và trong bài “Lửa Cháy trên Quảng Trường Mỹ Đình” ở trên chúng ta cũng thấy một chuyện phịa về một ông Mục sư Joseph nào đó cảm hóa được ba tên “ăn trộm” bằng mấy câu vớ vẩn vô căn cứ mà “đạo chích” thường dùng như "Chúa rất yêu các em, các em đừng làm như vậy", "Chúa rất yêu thương các em, các em hãy lên tiếp nhận Chúa" trong khi Chúa đã chết gần 2000 năm nay rồi và Ki Tô Giáo thường khẳng định là không ai có thể biết ý Chúa là như thế nào..  Nhưng thử hỏi mấy ông Tin Lành, nếu tôi không thèm tin vào Chúa của các ông, không muốn tiếp nhận Chúa của các ông, thì Chúa của các ông có còn yêu thương tôi không, hay là đày đọa tôi xuống hỏa ngục của ông ấy như được viết rõ trong Tân Ước?  Luận điều “Chúa yêu thương…” chỉ là luận điệu lừa bịp cho những kẻ đầu óc yếu kém cả tin vào những điều không tưởng.

      Nền thần học Ki Tô Giáo rao giảng cho các tín đồ về một “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian”, và “Chúa rất thương yêu bạn” , nhưng những sự kiện xảy ra ngay trước mắt:  Tsunami, thiên tai, bệnh tật, quái thai, chiến tranh v.. v… đưa đến một câu hỏi:  Tình yêu Thiên Chúa đặt ở đâu?   Một ví dụ điển hình về ngay cả những bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo cũng không còn tin vào một “Thiên Chúa lòng lành” nữa được đăng trên tờ Newsweek số ngày 7 tháng 5, 2007, về chuyện một Mục sư tuyên úy phục vụ ở Iraq và nay trở về phục vụ trong Quân Y Viện Walter Reed.  Bài báo viết về cuốn Nhật Ký của Mục sư tuyên úy Roger Benimoff.  Những dòng cuối cùng trong Nhật Ký viết:

    “Tôi không muốn dính dáng gì đến Thiên Chúa.  Tôi thật chán ngấy tôn giáo.  Đó là cặp nạng cho những kẻ yếu kém.. Chúng ta tạo ra Thiên Chúa cho những gì chúng ta cần đến trong một lúc.  Tôi thậm ghét Thiên Chúa.  Tôi thậm ghét tất cả những kẻ nào toan tính giảng giải về Thiên Chúa trong khi họ thực sự không hiểu gì về Thiên Chúa” [31]

    Tại sao một Mục sư tuyên úy lại viết như vậy?.  Vì ông ta đã chứng kiến những cảnh tàn bạo dã man phi lý trong cuộc chiến ở Iraq và những cảnh đau khổ của thương phế binh ở Quân Y Viện Walter Reed, và ông ta không thể nào hòa hợp những cảnh đó với luận điệu thần học “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian” trong phúc âm John.  

    Cựu Thống Đốc Jesse Ventura của Bang Minnesota cũng đã từng phát biểu:

    “KiTô giáo là một sự giả dối trống rỗng và là một cặp nạng cho những người có đầu óc yếu kém cần đến sức mạnh trong số đông” (Christianity is a sham and a crutch for weak-minded people who need strength in numbers)

      Nhưng những người Tin Lành đầu óc mụ mị, được nhồi sọ để tin rằng mọi sự tốt đẹp xảy ra cho họ là do Chúa ban cho:  [Trần Long: Người Tin Lành cám ơn Chúa Trời là Đấng ban cho gạo cơm, mưa nắng, sức khỏe, sự sống, và con cái]. Điều này nói lên tâm cảnh ích kỷ cùng cực của những người Tin Lành.  Họ không hề nghĩ đến những đứa trẻ sinh ra là quái thai, hoặc có khuyết tật, những thiên tai hàng ngày xảy ra trên thế giới, và vô số những cảnh nghèo khổ xảy ra trong ¾ thế giới.  Họ bị đầu độc bởi viên thuốc phiện Thiên Chúa, tạo cho họ một tâm cảnh hoàn toàn phụ thuộc vào cặp nạng thiên chúa, không bao giờ dám rời bỏ cặp nạng này, dù hàng bao tỷ người trên thế giới vẫn đứng vững trên trường đời mà không cần đến cặp nạng thiên chúa..  Họ được cấy vào đầu là mọi sự tốt lành trên thế gian này đều là do thiên chúa của họ tạo ra, không bao giờ buồn để ý đến những sự xấu ác, bất toàn trên thế giới.  Họ được dạy là thiên chúa lòng lành, rất thương yêu thế gian, nhưng họ chưa từng đọc Kinh Thánh nên không biết rằng thiên chúa của họ trong đó ác ôn như thế nào.  Sau đây chỉ  kể vài điều điển hình về những đòi hỏi và hành động của Thiên Chúa của họ trong Kinh Thánh:

 -          Thiên Chúa đòi hỏi và chấp nhận giết người để tế Thiên Chúa (Leviticus 27; Judges 11;  2 Samuel  21).

-          Thiên Chúa giết đứa con đầu lòng trong mọi gia đình Ai Cập (Exodus 12)

-          Thiên Chúa chấp nhận nô lệ (Exodus 21; Leviticus 25)

-          Thiên Chúa chấp nhận việc bán con gái làm nô lệ (Exodus 21)

-          Thiên Chúa ra lệnh giết các phù thủy và những kẻ lạc đạo (Exodus 22)

-          Thiên Chúa xử chết những người vi phạm ngày lễ Sabbath (không nghỉ làm việc ngày thứ Bảy) (Exodus 31)

-          Thiên Chúa giết 70000 người trong một dịch hạch do chính Chúa tạo ra (2 Samuel 24)

-          Thiên Chúa cho 2 con gấu cắn nát 42 đứa trẻ vì chúng chế riễu nhà tiên tri Elisha (2 Kings 2)

-          Thiên Chúa tạo ra hồng thủy giết chết mọi người và mọi sinh vật, chỉ chừa lại gia đình tên say rượu Noah và giống vật mỗi thứ một cặp, vì Chúa thấy loài người, do chính Chúa “sáng tạo” ra,  tội lỗi (Genesis 6) [Dưới con mắt cận thị của Thiên Chúa thì con người sa ngã, mang tội với Thiên Chúa, do đó Thiên Chúa tạo ra Hồng Thủy để giết hại hầu hết loài người. Nhưng thử hỏi, tại sao Thiên Chúa lại giết cả mọi sinh vật hoàn toàn vô tội, gồm có nhiều triệu chủng loại khác nhau, khi chúng do chính Chúa “sáng tạo” ra và không hề làm điều gì trái với ý của Thiên Chúa?]

-          Thiên Chúa ra lệnh giết vợ con, anh em nếu họ theo tôn giáo khác (Deuteronomy 13)

-          Thiên Chúa xử chết những đứa trẻ nào không cắt miếng da đầu dương vật  (Genesis 17)

-          Một học giả trên Internet đã đếm được là trong Thánh Kinh Thiên Chúa đã giết trên 2 triệu người, đó là con số đếm được, trong khi Satan chỉ giết có 10 người, với sự đồng ý của Thiên Chúa, trong vụ đánh cuộc về trường hợp của Job.

    Một trường hợp phá sản tâm linh khác của Tin Lành như sau.  Charles Kimball, Mục sư Tin Lành hệ Baptist, Tiến sĩ Thần Học, tốt nghiệp đại học Harvard, Trưởng Ban Tôn Giáo đại học Wake Forest, gần đây mới xuất bản cuốn Khi Tôn Giáo Trở Thành Ác Ôn (When Religion Becomes Evil), HarperSanFrancisco, 2003.  Tác giả đưa ra 5 dấu hiệu đồi bại (5 warning signs of corruption in religion) của một tôn giáo, khiến cho tôn giáo đó trở thành ác ôn. Đó là:

 -          Tự cho là nắm chân lý tuyệt đối (Absolute truth claims)

-          Tuân phục một cách mù quáng (Blind obedience) [Công Giáo dạy tín đồ phải quên mình trong vâng phục các bề trên, Tin lành dạy phải tuyệt đối trung thành với Thánh Kinh. TCN]

-          Thiết lập thời điểm “lý tưởng” [thời điểm được cứu rỗi để  truyền đạo] (Establish the “ideal” time)

-          Cứu cánh biện minh cho bất cứ phương tiện nào (The end justifies any means)

-          Tuyên bố Thánh Chiến (Declaring Holy War)

      Chúng ta không còn lạ gì, cả 5 dấu hiệu này là những sắc thái đặc thù của Ki Tô Giáo, Công giáo cũng như Tin Lành.  Những dấu hiệu này không chỉ là những dấu hiệu của tự thân Ki Tô Giáo mà cũng là những dấu hiệu của những chính quyền dân sự theo Ki Tô Giáo, đặc biệt là Công giáo như dưới thời Franco ở Tây Ban Nha, Palevich ở Croatia, Ngô Đình Diệm ở Việt Nam v…v…

     Tiến sĩ Kimball đã phê bình gay gắt sách lược truyền đạo của Ki Tô Giáo và tác giả viết, trang 25:

     “Tự do tôn giáo là điều tốt.  Nhưng tự do từ chối cái tôn giáo mà những người khác muốn áp đặt trên những người có niềm tin khác cũng là điều tốt vậy thôi.” [32]

      Điều này có nghĩa là chúng ta có quyền tự do từ chối và không cho phép những kẻ truyền đạo dùng những thủ đoạn bất lương (The end justifies any means) để truyền đạo như đám Tin Lành.

    Người Việt Nam hẳn không ai mà không biết đến câu “theo đạo có gạo mà ăn”, được truyền tụng trong dân gian từ ngày Công giáo bắt đầu xâm nhập Việt Nam cho tới bây giờ, và gần đây, những nhà truyền giáo Tin Lành đã mua mỗi đầu người Thượng trên miền thượng du vào đạo bằng 20 đô-la.  Ki Tô Giáo không thể truyền đạo trong các môi trường trí thức như trường Trung Học và Đại Học, không thể truyền đạo bằng Thánh Kinh, trừ vài đoạn trích dẫn vụn vặt đượm chất hoang đường, mê tín, nhưng lại khiến cho những người ít đầu óc dễ tin..  Họ chỉ thành công, hoặc bằng bạo lực như trong quá khứ, hoặc bằng cách dùng bả vật chất, trong các cộng đồng mà cảnh nghèo khổ và kém hiểu biết của người dân là những yếu tố dễ lợi dụng và khai thác nhất. Nhưng phải công nhận rằng, “từ thiện” là cái mặt thành công nhất của Ki Tô Giáo, nếu kể về số tín đồ nghèo khó và trí tuệ thấp kém mà Ki Tô Giáo dụ được “vô đạo”, cái đạo “vô đạo” của Ki Tô Giáo.

 Kết Luận:

   Trên đây chỉ là vài nét về bản chất và thực chất của Ki Tô Giáo, Công giáo cũng như Tin Lành.  Không ai có thể viết hết về Ki Tô  giáo trong một bài viết thuộc loại này.  Thời buổi này mà chúng ta vẫn còn nghe thấy những luận điệu như những bài viết thuộc loại nghiên cứu lịch sử này là “chống Công giáo”, “chống Tin Lành”, hay “chia rẽ tôn giáo” hay “theo sách lược đánh phá Ki-tô giáo của Cộng sản” của một số tín đồ Ki Tô giáo Việt Nam cuồng tín.  Đây chỉ là những luận điệu chụp mũ vu vơ, không bằng chứng, vì tất cả các tài liệu dùng trong những bài nghiên cứu về Ki Tô Giáo đều là của giới trí thức Tây phương, ở trong cũng như ở ngoài các Giáo hội Ki-tô.  Tuyệt đối không có một tài liệu nào của Phật Giáo hay của Cộng sản.  Tại sao các tín đồ Ki tô giáo Việt Nam, kể cả các bậc chăn chiên và trí thức, đều không có mấy ai sử dụng đến lý trí của mình.

   Nếu còn dùng đến lý trí thì các tín đồ Ki Tô giáo Việt Nam phải hiểu rằng, một khi mà những lời nói dối trá đã không còn giá trị trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, những điều thuộc loại mê tín hoang đường cổ xưa không còn có hiệu lực và không còn thuyết phục được ai, thì tất nhiên con người sẽ không còn tin vào chúng nữa.  Và thực tế là, từ hàng giáo phẩm cho đến các con chiên ở dưới bỏ đạo hàng loạt là vì họ không còn muốn dính dáng gì đến một tôn giáo đầy tội lỗi thế gian, và trình độ người dân ngày nay đã cao, không còn có thể tin vào những điều thuộc loại hoang đường mê tín nữa.  Chính các học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-Tô đã khai sáng cho họ qua những tác phẩm nghiên cứu nghiêm chỉnh về Ki Tô Giáo.

     Cuối cùng tôi muốn nói lên một số ý nghĩ chân thành của tôi về các tín đồ Ki Tô Giáo Việt Nam.  Đây là những ý nghĩ  bắt nguồn từ sự hiểu biết về bản chất và thực chất của Ki Tô Giáo nói chung, Công giáo nói riêng, với tất cả sự lương thiện trí thức trong lãnh vực học thuật, tuyệt đối không phải vì thù hận cá nhân hay tập thể.  Và những ý nghĩ này nhằm mục đích xây dựng chứ không phải phá hoại.  Do đó, các bạn, xin phép được gọi như vậy, nên hiểu rằng đây là những ý nghĩ của một người bạn, không phải của kẻ thù.

   Vấn đề không phải là các tín đồ Ki Tô Giáo tin vào Thượng đế của người Do Thái, vì ai cũng có quyền tin vào một Thượng đế mà mình muốn tin. Trong thế giới ngày nay, chúng ta thấy có cả trăm Thượng đế khác nhau, và về bản chất, mọi Thượng đế và mọi đối tượng tín ngưỡng đều như  nhau, nếu chỉ là thuần túy đối tượng của một đức tin không cần biết, không cần hiểu. Vấn đề chính là tin như thế nào, và những hành động tôn giáo bắt nguồn từ đức tin của mình có thật sự làm sáng danh Thượng đế mà mình tin hay không, hay ngược lại chỉ kéo Thượng đế của mình xuống vòng  ô nhục.  Thảm thay, đây chính lại là điều các tín đồ Ki-tô thường làm, tưởng rằng để vinh danh Thiên Chúa nhưng thực ra lại hạ thấp Thiên Chúa của mình xuống hàng tệ mạt nhất trong nhân loại, qua những hành động tàn bạo, ác ôn nhất trong lịch sử nhân loại.  Có phải là kỳ lạ  không khi chúng ta tin vào Thần cây đa, Thần bình vôi v... v..., chúng ta không hề gây hại cho ai, trong khi tin vào Thần của Ki Tô Giáo thì lại gây ra bao thảm cảnh cho nhân loại.  Vậy về phương diện xã hội, những niềm tin nào đã gây hại cho xã hội.  Các tín đồ Ki-tô có bao giờ nghĩ đến điều này không?

   Sau đây tôi sẽ đưa ra vài điều để các bạn suy nghĩ và thấy rằng không phải tôi viết bừa mà không có căn cứ.

-          Các bạn tin vào một Thiên Chúa toàn năng [nghĩa là làm gì cũng được], sáng tạo ra cả vũ trụ và muôn loài trong đó.  Nhưng các bạn lại tin rằng Thiên Chúa phải cần đến những con người thế tục, đầy tội lỗi như các bạn để đi kiếm thêm linh hồn cho Thiên Chúa của các bạn.  Chẳng vậy mà các bạn rình mò xem có người quen nào sắp chết, nhân lúc gia đình vắng mặt, đến ban tên thánh cho người sắp chết, hoặc dùng mọi thủ đoạn để kéo người ngọai đạo vào trong niềm tin của các bạn.  Vậy thực ra các bạn đang vinh danh Thiên Chúa hay đang mạ lỵ Thiên Chúa của các bạn?  Các bạn đã không tin ở thuộc tính toàn năng của Thiên Chúa, không tin ở khả năng sáng tạo của Thiên Chúa, không tin ở khả năng thực hiện tất cả những gì mà Thiên Chúa muốn.  Các bạn tin rằng Thiên Chúa có nhiều nhu cầu, thí dụ như nhu cầu độc tài, không ai được thờ Thần khác, hoặc nhu cầu về sự yêu thương hết lòng hết sức của những con người do chính Thiên Chúa tạo ra, hoặc nhu cầu cần được người trần vinh danh v..v.. và Thiên Chúa lại phải nhờ đến các bạn để cung cấp những nhu cầu ấy cho Thiên Chúa?  Vậy thực chất Thiên Chúa của các bạn là cái gì, có khác gì người thường không?  Các bạn đã mang những tính xấu trần tục của con người để áp đặt lên Thượng đế của các bạn.

-          Các bạn tin lời giải thích của giáo hội hay của chính giáo hoàng John Paul II gần đây ở Lourdes, là mọi bất hạnh, tật nguyền xảy tới với các bạn là nằm trong “kế hoạch kỳ diệu” của Thiên Chúa (God’s wondrous plan).  Các bạn không hiểu tại sao những bất hạnh đó lại đến với các bạn, và để tự an ủi các bạn đã tin vào lời giải thích như trên.  Cũng như khi xưa, người dân Do Thái được các thầy tu hay tiên tri Do Thái giải thích là những đau khổ triền miên xảy ra cho dân Do Thái là do sự trừng phạt của Thiên Chúa vì dân Do Thái đầy tội lỗi, không theo đúng luật của Thiên Chúa.  Một ngày nào đó, Thiên Chúa sẽ hồi tâm, mang nước thiên đường, nghĩa là một Jerusalem mới tràn đầy sữa và mật cho người Do Thái.  Vậy thật ra các bạn đã tin vào một Thiên Chúa chuyên làm ác, gây ra bao đau khổ và bất hạnh cho nhân loại chỉ vì Thiên Chúa không vừa ý [ai biết ý Chúa ra sao?]. Điều này đối ngược hẳn với niềm tin của các bạn về một Thiên Chúa “quá thương yêu thế gian”.  Có niềm tin nào có thể hạ thấp Thiên Chúa của các bạn xuống hàng ác ôn hơn không?

-          Trong nhiều thế kỷ, các giáo hội Ki-tô đã gây ra bao thảm họa cho nhân loại qua những cuộc Thánh chiến, những cuộc săn lùng phù thủy, thiêu sống con người, những tòa án xử dị giáo với những cuộc tra tấn khủng khiếp con người, những cuộc cưỡng ép cải đạo khắp năm châu v..v.. mà tất cả đều được biện minh là làm theo ý Chúa (God’s will it = Motto trong cuộc thánh chiến đầu tiên).  Như vậy là các bạn đã tin và chấp nhận một Thiên Chúa toàn năng chủ trương giết chóc, tra tấn, thiêu sống và cưỡng bách cải đạo v..v...  Một Thiên Chúa như vậy thì có giá trị gì cho nhân loại, hay thực chất chỉ là một tên ác ôn khát máu?

-          Đã một thời, và ngày nay vẫn còn nhiều người tin, là những thiên tai như động đất, bão lụt, bệnh dịch truyền nhiễm v..v.. đều là những biện pháp của Thiên Chúa để trừng phạt những người không tin theo Ngài hoặc vì một lý do nào đó của Thiên Chúa mà chúng ta không thể hiều nổi.  Và tất cả cũng đều là do ý Chúa.  Nhưng thiên tai, bệnh tật có chừa ai đâu, đâu chỉ chọn người ngoại đạo để mà trừng phạt.  Các bạn đã tin vào một Thiên Chúa, tác giả của những tai họa của nhân loại.  Một Thiên Chúa như vậy có đáng để con người kính trọng không, khoan nói đến thờ phung?

-          Các bạn tin vào một ông Thiên Chúa đòi hỏi các bạn phải yêu ông ta hết sức hết lòng nếu không thì..., phải tin ông ta và tuân theo những luật lệ của ông ta dù những luật lệ đó đã trở thành lỗi thời, phản ánh một trình độ man rợ của thời chưa khai hóa, nếu không thì...., phải nhận ơn tha thứ của ông ta nếu không thì..., phải tin rằng ông ta có khả năng “cứu rỗi” nếu không thì....  Chỉ có một Thiên Chúa dùng sự đe dọa và sợ hãi để bắt con người phải tin vào mình mới có những đòi hỏi như vậy.  Một Thiên Chúa nhân từ, đầy lòng thương yêu không bao giờ có thể đòi hỏi như vậy.  Thật ra các bạn không hiểu các bạn là ai, không hiểu Thiên Chúa là cái gì, không hiểu sự vận hành của thiên nhiên, của vũ trụ, của thế giới mà chúng ta đang sống trên đó.  Do đó các bạn không hiểu tình yêu là căn bản của mọi sự sống, cũng như không hiểu tình yêu của một Thiên Chúa, theo đúng nghĩa của nó, phải là một tình yêu không có điều kiện, không có sự phân biệt. 

     Đó là những vấn nạn mà các tín đồ Ki Tô Giáo ngày nay phải đối diện.  Nhưng không phải là những vấn nạn trên không thể giải quyết nổi, nếu các bạn có đủ lý trí, lòng tự tin, và sự lương thiện trí thức tối thiểu.  Tất cả tùy thuộc các bạn.  Các bạn chỉ có hai chọn lựa.  Một là tiêp tục sống trong bóng tối của ngu si, an phận làm con chiên, con cừu, và không cần biết đến những sự tiến bộ tri thức của nhân loại.  Hai là muốn thoát ra khỏi cảnh tối tăm trí thức?  Thoát ra như thế nào.  Mục sư Harry Wilson đề nghị: “Phải cất bỏ gánh nặng Thiên Chúa và Kinh Thánh trên vai.”  Riêng tôi, tôi có một đề nghị thiết thực hơn: Muốn gia nhập hàng ngũ của giới trí thức hiểu biết thì lẽ tất nhiên các bạn phải thay đổi những niềm tin về Thiên Chúa và Kinh Thánh.  Tôi không có ý nói là phải bỏ những niềm tin này mà là phải thay đổi những niềm tin này như thế nào để những hành động, lời ăn tiếng nói của các bạn không hạ thấp Thiên Chúa của mình xuống như các bạn thường làm trước đây, và cũng phải chấp nhận sự thực là Kinh Thánh không phải là do sự mạc khải của Thiên Chúa viết ra, mà chỉ là sản phẩm của một số người mà kiến thức của họ vào thời đó còn rất nhiều thiếu sót.  Các bạn có thể tiếp tục tin vào vài điều đạo đức trong Kinh Thánh, nhưng những chuyện trẻ con như “sáng thế”, “tội tổ tông”, “Giê-su sinh ra từ một nữ trinh”, “chuộc tội”, “cứu rỗi”, “xác chết sống lại” v..v.. thì đừng có bao giờ mang ra mà quảng cáo trên các diễn đàn công cộng. [Xin đọc cuốn Putting Away Childish Things của Nữ Giáo sư Thần Học Uta Ranke-Heinemann]

Nếu các bạn cứ tiếp tục tin vào một ông Thượng đế của người Do Thái, về sau được biến thành Thượng đế của Ki Tô Giáo, tiếp tục tin vào sự không thể sai lầm của Kinh Thánh, và không hề có một thắc mắc, nghi vấn nào, như các bạn đã tin, tôi e rằng các bạn sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi phải đối diện với những thắc mắc của thiên hạ về Thượng đế của Ki Tô Giáo hay về mức độ khả tín, chính xác, không thể sai lầm của cuốn Kinh Thánh.

Đây chỉ là vài ý kiến chân thành của tôi, hi vọng có thể giúp các bạn trở về thân phận con người mà cái quý báu nhất là một đầu óc lành mạnh, có khả năng suy tư, phân biệt chân giả, và nhất là, đừng vì những niềm tin của mình mà phản bội dân tộc, đánh giá thấp truyền thống văn hóa cao đẹp hơn văn hóa Ki-tô rất nhiều của Việt Nam..

Sau cùng, xin độc giả hiểu cho rằng, bài viết này chỉ viết về bản chất và thực chất của Ki Tô Giáo, Công giáo cũng như Tin Lành, chứ không có ý tổng quát hóa, quy tất cả những tội ác và sai trái của Ki Tô Giáo lên đầu đám tín đồ ở dưới mà trong đám này tất nhiên có rất nhiều người lành thiện, giầu lòng bác ái, là những công dân tốt.  Họ không bao giờ nghĩ rằng bản chất và thực chất của tôn giáo họ theo lại có một lịch sử như vậy.  Họ là những người đáng thương chứ không đáng trách.

 

[1]  Most Catholics are unaware of the history to which the pope alluded, an if, in the words of Cardinal John O'Connor, archbishop of New York, Catholics are to be "liberated by the truth", then they must know what that truth is.)

[2]  King Charles VI of France published a decree withdrawing the French Catholic Church and all French citizens from obedience to Pope Benedict XIII.  He nullified his country’s support for Christianity and declared France religiously neutral

[3]  Malachi Martin, The Decline and Fall of The Roman Church,  p. 196: “France, “eldest daughter of the Church”, enthroned Reason officially as supreme deity, massacred over 17,000 priests and 30,000 nuns as well as 47 bishops, abolished all seminaries, Catholic schools, religious orders, burned churches and libraries...

[4]  S.T. Joshi, God’s Defenders: What They Believe and Why They Are Wrong,  Prometheus Books, New York, 2003, p. 12:  The dominant question thus becomes  not why religion has not died away but why it continues  to  persist in the face of monumental evidence to the contrary.  To my mind, the answer can be summed up in one straightforward sentence: People are stupid.

[5]  Most important, the impact of the scientific perspective is having now that even scholars working under a conservative Catholic imprimatur agree that much of what we know of Jesus is myth… Scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of anger.  So the only ones left in the dark are ordinary Christians.]

[6]  “But the Church does not kill now”, methinks I hear the Christian apologist exclaim.  No, a tiger weakened by the pangs of death grows less and less ferocious.  The Church does not kill now because it does not have the power to kill.  The fagot and the sword have been wrested from its bloody hands, and hatred and slander are the only weapons left her now.

[7]  This was the beginning of the Index of Prohibited Books, and the suppression of books challenging Church dogma soon became official Vatican policy.  It was perhaps the most dramatic form of censorship known to the world, by which the Church for centuries policed the literature available to the public, and it maintained official sanction well into the 20th century.

[8]  He believed in a plurality of worlds, in the rotation of this, in  the heliocentric theory.   For  these  crimes,  and for these alone, he was imprisoned for six years. He was offered his liberty, if he would recant.  Bruno refused to stain his soul by denying what he believed to be true.  He was tried, condemned, excommunicated and sentenced to be burned.  He was taken from his cell by the priests, by those who loved their enemies, led to the place of execution..He was chained to a stake and about his body the wood was piled.  Then priests, followers of Christ, lighted the fagots and flames consumed the greatest, the most perfect martyr, that ever suffered death.  ("Ingersoll The Magnificient" By Joseph Lewis).

[9]  Galileo was a great scientist who, even at the age of eighty, when he was dying, had such a beautiful sense of humor.  He said: There is no problem.  I will change it; I will write in my book exactly what God has written in the bible - that the sun goes around the earth.  But one thing I must make clear to you: neither the sun reads my book nor the earth reads my book.  As far as reality is concerned, the earth will continue going around the sun.  And   why   should  you  insist?   Because  I have every proof; I have devoted my whole life to the search, and all those who have a scientific mind are in absolute agreement with me.  Sooner or later you will have to agree because one cannot remain against truth for long.

[10]  It is impossible there should be inhabitants on the opposite side of the earth, since no such race is recorded by Scripture among the descendants of Adam.

[11]  Pettifer, Julian & Bradley, Richard, Missionaries, BBC Books, London, 1990, pp. 132-133: By the end of the fifteenth century, Pope Alexander VI created two spheres of influence; he determined that the whole of the Americas with the exception of Brazil, should belong to Spain, while Portugal would take Brazil and whatever could be seized in Asia and Africa. It was decreed that along with territorial gains would go the duty to incorporate any native peoples into the Catholic Church...With the invading armies came priests and  friars whose  presence justified the subjugation of the people and the use of whatever coercion was judged necessary to bring them to the faith.

[12] ...It is useful to consider Balny's actions at Phu Ly and Hai-duong and Harmand's at Nam-dinh with an emphasis on the relationship between Catholic Missions and the French forces.  The analysis reveals that the French were far from alone in their attacks on the loci of Vietnamese authority because the invaders received a significant level of support from the missionaries and the Vietnamese Catholics.  Moreover, the methods of the French officers and their Catholic collaborators could hardly be considered as evidence of a superior morality even by their own contemporary standards, for the Catholic Missions exchanged labor, resources, and information in return for French assistance in perpetuating summary executions, desecreations of Buddhist religious edifices, burning of non-Catholic villages, and pillaging of imperial citadels.  This Catholic collaboration with French imperialism has not been adequately recognized by historians, but it was a significant contributing factor to the French success in Tonkin.

[13]  Les missionaires, selon l'optique des dirrigeants Vietnamiens, étaient coupables  de pousser les Chrétiens à rejeter les lois de leur pays.  Rejet des cultes religieux, des valeurs sociales qui les faisaient vivre en marge de la société traditionnelle.  Mais chose plus grave, on reprochait aux prêtres et aux chrétiens la scission du pays en deux clans religieux opposés.

[14]  The principle of the Inquisition was murderous..The popes were not only murderers in the great style, but they also made murder a legal basis of the Christian Church and a condition of salvation.

[15]  The pope’s bulletin declared that the Church controlled “two swords”, that is, two powers: “Both swords are in the power of the Church, the spiritual and the temporal; the spiritual is wielded in the Church by the hand of the clergy; the secular is exerted for the Church by the hand of its military.. and the spiritual power has the right to establish and guide the secular power, and also to judge it when it does not act rightly.. Consequently, whoever opposes the two swords of the Church opposes the law of God.

[16]  The Inquisition, said Bishop Bruno of Segni, “was invented to rob the rich of their possessions.  The pope and his priests were intoxicated with sensuality; they despised God because their religion had been drown in a deluge of health (A History of the popes, Joseph McCe, V.A. Watts & Co., London, 1939)

[17]  Martin Luther, upholding the Bible as the supreme authority, had no reservations about burning witches.  He sanctioned 4 executions at Wittenburg.  “I should have no compassion on the witches…I would burn them all.” John Calvin personally led a campaign in Geneva against 31 persons accused of witchcraft.  Calvin declared:  The Bible teaches us that there are witches and they must be slain… this law of God is a universal law.

[18] Father Delehaye, The Legends of the Saints, 1907, English ed., Dr. Joseph McCabe, “The Popes and their Church”, C. A. Watts & Co., London, 2nd ed. Revised, 1924, p.13:  There is no evidence whatever that the papal genealogies are based upon earlier sources; simply put, there were no Christian popes for many centuries.

[19] In short, these frauds are very common in all books which are published by priests..  For it is certain they plead the authority of earlier writings that wew themselves fake, forged, mangled or corrupted, with more reasons than any to support their articles of faith with sinister ingenuity.

[20] Lockhart, Douglas, The Dark Side of God, Elements Books, Inc., Boston, MA., 1999, p. 47: With the ability to invent history through the forging of imposing-looking documents complete with papal seals, and with the added ability to instantly insert such fabrications into Canon Law, the Catholic Church systematically recreated its past and ended up believing its own lies.

[21] Ellerbe, Helen, The Dark Side of Christian History, Morningstar & Lark, Orlando, FL., 1999, p.17: The Catholic Encyclopedia concedes that “In all departments forgery and interpolation as well as ignorance had wrought mischief on a grand scale.”  Despite Church prohibitions against any further research into the origins of the Gospels, scholars have shown that all four canonized Gospels have been doctored and revised.  While the Church claimed that truth was static in nature and had been revealed only once, it continually found cause for changing that truth.

[22] The entire structure of the Roman Church is built on forgeries, spurious epistles, spurious sermons, spurious miracles, spurious relics, spurious councils, and spurious papal bulls. The Catholic Encyclopedia admits the existence of thousands of forgeries.. Roman inventions as Peter’s martyrdom at Rome (2nd cent.), Assumption of Mary (6th cent.), Temporal power of the bishop of Rome (8th cent.), Primacy of Rome (11th cent.), Seven Sacraments (13th cent.), etc., can only be proved by forgeries…

   Catholic theologians claim that with the development of the primacy in the Middle Ages, the papal letters grew enormously in number (C.E. 6, 202). “There can be no doubt that during a great part of the Middle Ages papal and other documents were fabricated in a very unscrupulous fashion” (C.E. 3, 57). Speaking of the thousands of miraculous relics of Rome, the same scholars admit that “the majority of which no doubt were fraudulent,” a “multitude of unquestionably spurious relics” (C.E. 12, 737). The same scholars admit the following Roman frauds: the origin of the Rosary and the apparition of Mary to St. Dominic, the Scapular and the apparition of Mary to Simon Stock, the Scala Santa, the legends and relics of Veronica, the Holy Lance etc…

[23] Official Catholic records provide extraordinary confessions of wickedness in the whole Catholic clergy, and the implications surrounding this knowledge begin to assume major new proportions when considered in light of the central church claim of unquestionable piety in the clergy hierarchy.

[24] The first proposition,   that  the  sun  is  the  centre  and  does  not revolve about the earth, is foolish, absurd, false in theology, and heretical, because expressely contrary to the Holy Scriptures; and  the second proposition,  that the earth is not the centre  but revolves about the sun, is absurd, false in philosophy, and from a theological point of view at least, opposed to the true faith. ("The Scientific Revolution" Edited by Vern L. Bullough.)

[25]  Now did Christianity have aught to do with the civilization of this people ?  Certainly not; and were it not for the cloud of prejudice before his eyes, the Christians would clearly see that it did not produce our civilization. He wvould see that instead  of the church having  civilized  the world,  the  Rationalistic world has for centuries been slowly civilizing the church.

   The very nature of Christianity--I mean orthodox Christianity - precludes the possibility of progression as an inherent principle of itself; and whatever progress has been made, either in the church or outside of it, must be attributed to causes over which she has had no control. The church claims to have the truth, the whole truth, and nothing but the truth.    Every proposed change, every new discovery, is to her a perversion of truth, and, hence, she opposes it. Were the church to sweep  to universal empire, all progress would at once cease.  Our Huxleys and Haeckels would be summarily disposed of, the torch of Reason would be extinguished, and the ignis-fatuus of Faith would become our only guide. Of the truth of this she has herself given conclusive evidence.  For centuries her power in Europe was supreme, and even Christian writers denommate these centuries the Dark Ages.

   Not until Rationalism was born, not until science commenced her career, and Christianity began to decay, did our modern civilization dawn.  "For more than three centuries, " says Lecky, "the decadence of theological influence has been one of the most invariable signs and measures of our progress."  Says Carlyle, "Just in the ratio that knowledge increases, faith diminishes."  "The Middle Ages were more religious than ours," says Strauss, "in proportion to their ignorance and barbarism.  Religion and civilization accordingly occupy, not an equal,  but an inverted position regarding each other,  so that with the progress of civilization, religion retreats."

[26] Virtually no one really reads the Bible.  The above mentioned individual doubtless has a Bible, perhaps the only book he owns, but he never reads it - much less reads all of it.

   If an intelligent man should critically read it all, he would certainly reject it.

[27] Protestantism dies hard.  What does that prove?  It proves that the people are superstitious and the preachers stupid.

[28] God is very clear here, folks, he doesn't want witches to live. We are supposed to be killing witches! If we don't, we are disobeying God. Jesus would weep tears of joy if He leaned down off His cloud and sniffed up the burning flesh of a witch this Halloween. Wouldn't that ruin Satan's little birthday party! Praise God! It's just a shame that the United States Government has placed restrictions on the Biblically-mandated practice of witch burning.

[29] Our analysis has led us to the conclusion that the experience of conversion is a response to a crisis situation.  It resolves an emotional impasse.

   That is why the Church grows more rapidly in areas where social processes are causing suffering, particularly from anomie and the collapse of meaning-structures...Such areas should be given top priority by the churches, that efforts to build up church life should be concentrated in them...

   I am not saying anything that is news to Protestants.  There is no conversion without crisis, no conversion without suffering.  Conversion is a process whereby one assimilates suffering to a new meaning-structure and thus makes it meaningful...

   Isn’t it curious that Christ cannot be prached to people who feel secure and happy, to people who feel that life is worth living, to people who are not going through a crisis?  Isn’t it odd that Christ can only be proclaimed and made meaningful in morbid situations where people are infected with existential anxiety, guilt feelings, and terror of death?  What really is the task of the evangelists?  His or her task is to give theological names to a crisis that could well be psychosocial in origin.  The evangelist seeks to activate a crisis which might not have been sensed befored, so that then, and only then, he or she can proclaim that “Christ is the answer.”

   We are forced to conclude that the world makes room for Christ only when it feels ill, when it has come down with some sickness.  Is there some theological reason why dread of death and guilt are the privileged sacraments of salvation?  To put it another way, the experience of conversion presupposes that the meeting-point between God and the world is suffering and anguish – the world’s state of pain and sickness.  When there is health and happiness, language about God loses its meaningfulness.  Isn’t there a sadomasochistic vision of reality buried underneath such presupposition?

   Suffering is transformed into a blessing, because it provides an opportunity for the sinner to encounter Christ.  The greater the suffering, the greater the opportunities for evangelists!  Doesn’t that suggest that the Church is being put in the curious position of praying for more human suffering so that human hearts will be more receptive to its message?  That was a question which Dietich Bonhoeffer posed to the Church.

   What do the apologists for the Christian faith, the bearers of the “good news” really do?

   They demonstrate to secure, content, happy mankind that it is really unhappy and desperate, and merely willing to realize that it is in severe traits it knows nothing at all about, from which only they can rescue it.   Wherever there is health, strength, security, simplicity, they spy luscious fruit to gnaw at or to lay their pernicious eggs in.  They make it their object first of all to drive men to inward despair, and then it is all theirs (Bonhoeffer).

   Conversion is a solution to a painful problem.  One starts from conversion to structure a world whose function is to prevent the reappearance of anxiety.  The aim is the exorcism of the terror.  Now if the conversion has proved adequate in exorcising this terror, consciousness will be firmly glued to that conversion-experience and its attendant cognitive worldview.  That is why arguments won’t work at this level.  You may offer all sorts of evidence – logical, scientific, or whatever – to call to convert’s basic experience into question.  It will immediately and flatly rejected by the convert.

[30] The situation of the new converts is akin to that of children going to school for the first time.  They know nothing.  Knowledge will be mediated to them by a person who has knowledge. The learning process is a process of apprenticeship.  The social interaction between two parties involved is not an interaction between equals.  Master and apprentice, teacher and learner, are not the same level.  One is subordinate to the other; hence power is involved in the equation.  The teachers are those who have the power to impose their definition of reality; the learners are those who do not have the power to maintain their definition of reality..

   Even before new converts learn anything about the world, they are taught to view themselves as people who know nothing.  Their own knowledge is placed between parentheses and called into doubt.  It is not permissible for them to appeal to what they think they know in order to criticize the knowledge that the church community wishes to transmit to them.  Why?  Because their knowledge is a heritage from their earlier period of darkness and damnation.  Their minds are reduced to blank pages.  They have nothing to say; their job is to listen.  As apprentices and learners, they must submit silently to the church institution.  They now know that the institution has the monopoly on absolute knowledge, hence a monopoly on the right to talk.

   In the Protestant world, then, the learning process begins with a lesson in a particular kind of social relationship: the teachers speaks, the learners keep quiet; the teachers teach, the learners repeat.  If the learners do not know what they believe, they are not qualified to speak.  It is true that the converts are free to sing their emotions.  But the discourse of knowledge is still impossible.  This is why the proper mode of speech for the learners is repetition, as catechisms clearly illustrate.  Catechisms are primers for apprentice-learners.  They contain questions and ready-made answers.  When do learners know their catechism?  When they can recite by heart the printed answers in it.  The learning of the church community is defined in terms of that knowledge, and the test of learning is the ability to memorize and repeat the catechism questions and answers.  In this way the collective conscience of the community is imprinted as truth on the mind and conscience of the individual member.  What about free inquiry?  What about let the converts break their own ground?  That is nowhere to be found.

[31] Newsweek, p.33: The last lines read:  I do not want anything to do with God.  I am sick of religion.  It is a crutch for the weak.. We make God into what we need for the moment.  I hate God.  I hate all those who try to explain God when they really don’t know.

[32] Freedom of religion is a good thing.  So is freedom from the religion others may wish to impose on those who differ.

daophatngaynay.com


© 2008 -2024  Phật Học Online | Homepage