Phật Học Online

Tu Tập Niệm Phật
(Trích Thiền Luận, bộ Trung) Luận giả: Thiền Sư Daisetz Teitaro Suzuki Bản dịch của Tuệ Sỹ

Trong một bức thứ gửi cho đồ đệ, hiển nhiên được viết để trả lời cho nghi vấn về lối thực hành Niệm Phật, Không Cốc Long khuyên cứ nói ngay đến Niệm Phật, không cần có khí chất triết học; tức là khỏi có nghi tình.

Điểm cốt yếu ở Niệm Phật là phải có tín tâm và tụng thầm trong miệng, không lo lắng đến các sự việc thế gian.

Không Cốc Long nói:

-- Pháp môn Niệm Phật là con đường thể hiện đạo Phật ngắn nhất. Đừng tin ở hiện hữu sắc thân hư huyễn này, bởi vì tâm trước vào những phù hư của kiếp sống thế gian là cội gốc của luân hồi. Cõi Tịnh Độ là đáng mong cầu nhất và pháp Niệm Phật là đáng trông cậy nhất.

Đừng hỏi Niệm Phật như thế nào, gấp rút hay thư thả.

Đừng hỏi tụng đọc danh hiệu Ngài như thế nào, cao giọng hay thấp giọng.

Đừng để bị gò bó bởi điều luật nào mà hãy một lòng không loạn, tịch tĩnh và trầm mặc niệm tưởng.

Khi chứng đến chỗ chuyên nhất, không bị ngoại cảnh quấy nhiễu, rồi một ngày kia, một biến cố sẽ bất ngờ gây ra trong mình một thứ cải biến tâm lý, và sẽ nhờ đó mà nhận ra rằng cõi Tịch Quang Tịnh Độ là chính cõi đất này, và Phật A-Di-Đà cũng chính là cái Tâm này.

Nhưng hãy cẩn thận, đừng phóng tâm mong chờ một cảnh tượng như thế, vì nó sẽ trở nên chướng ngại sự chứng đắc.

Phật tánh hiển lộ đường đột vì đấy không phải là sản phẩm của tâm suy tư hay lý giải. Nhưng, khi ta nói thế, đừng coi đó là một trạng thái vô tâm vốn cũng là một ngộ nhận lớn lao nữa cần phải tránh.

Nơi đây chỉ có những điều ách yếu là phải có tín tâm và đừng để cho những tư tưởng vô dụng và Thiền nhiễu xen tạp vàọ.."...

Trích Thiền Luận, bộ trung,

Luận giả: Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki;

Bản dịch của Tuệ Sỹ Trang
(Trang 224)

 

Một trong vô số tục gia dệ tử của thiền sư Bạch Ẩn rất phiền muộn về cha già keo lận của mình, ông ta chỉ chạy theo việc kiếm tiền, chẳng chút bận tâm tới đạo Phật.
Y muốn Bạch Ẩn gợi cho một phương pháp nào để chuyển tư tưởng của cha y ra khỏi sự keo lận.

Bạch Ẩn gợi lên đề nghị này:

-- "Bảo ông lão keo lận cứ Niệm Phật mỗi khi ông nhớ đến, và sẽ trả cho ông mỗi lần tụng niệm là một tiền. Nếu trong một ngày ông niệm Phật được một trăm lần, ông sẽ có được một trăm tiền."

Lão già nghĩ rằng đây là một cách bỏ tiền vào túi dễ nhất trên thế gian. Mỗi ngày ông đến Bạch Ẩn để được trả tiền do sự Niệm Phật của mình, vì ông rất siêng năng trong việc này, và cứ tái diễn như vậy rất nhiều lần. Ông bị mê hoặc với những thủ đắc của mình.

Nhưng chẳng bao lâu ông thôi không đến Bạch Ẩn để được trả tiền hằng ngày nữa.

Bạch Ẩn sai người đi tìm hiểu xem ông ta mắc chuyện gì. Thì ra bây giờ ông bị sự Niệm Phật lung lạc đến độ quên cả ghi nhớ. Đấy là điều mà Bạch Ẩn lúc nào cũng chờ đợi nơi ông. Ngài dạy người con cứ để cho cha y ở một mình trong một thời gian thử xem chuyện gì sẽ đến với ông nữa.

Lời khuyên này được tuân theo. Và trong vòng một tuần lễ, người cha thân hành đến kiếm Bạch Ẩn với cặp mắt ngời sáng, bộc lộ một kinh nghiệm tâm linh cực lạc mà ông đã trải qua.

 

 

KHAI THỊ CỦA ĐẠI SƯ HÁM SƠN
Việt dịch: Thích Hằng Đạt
Bài khai thị về những điểm thiết yếu khi niệm Phật

Pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh cõi tây phương Cực Lạc, vốn là đại sự cắt đứt dòng sanh tử. Vì vậy bảo rằng niệm Phật liễu được sanh tử. Người đời nay phát tâm niệm Phật vì muốn cắt đứt dòng sanh tử. Chỉ cần xưng danh hiệu Phật là có thể cắt đứt dòng sanh tử. 

Song, nếu không biết cội gốc của sanh tử, niệm Phật mãi thì rốt ráo sẽ đi về đâu?
Nếu niệm Phật mà không đoạn được cội gốc của sanh tử thì làm sao cắt đứt dòng sanh tử?

Cội gốc của sanh tử là gì? Cổ nhân nói:" Nghiệp bất trọng bất sanh Ta Bà. Ái bất đoạn bất sanh Tịnh Độ."

Thế nên, biết rõ ái dục là cội gốc của sanh tử. Khiến tất cả chúng sanh thọ khổ sanh tử đều do ái dục. Cội gốc ái dục này không phải chỉ hiện hữu trong một hoặc hai, ba, bốn đời, mà nó đã tự có sẵn từ đời vô thủy cho đến ngày nay. Sanh sanh thế thế, xả thân thọ thân, đều do lưu chuyển theo ái dục.

Ngày nay, suy nghĩ nhìn lại, xem coi lúc nào có một niệm tạm đoạn cội gốc ái dục này đau. Hạt giống ái căn, bao kiếp tích lũy sâu dầy, nên khiến sanh tử không cùng tận.

Ngày nay vừa phát tâm niệm Phật, nếu chỉ vọng không cầu sanh Tây Phương mà danh tự ái dục tức cội gốc của sanh tử lại không biết đến, thì khi nào mới có niệm đoạn được nó?

Không biết cội gốc của sanh tử, nên một bên niệm Phật, một bên cội gốc sanh tử lại càng sanh trưởng nhiều hơn. Cả hai việc niệm Phật và cội gốc sanh tử chẳng quan hệ với nhau. Dẫu niệm cách nào đi nữa, đến lúc lâm chung quý vị chỉ thấy sanh tử ái căn hiện tiền. Khi đó lại cho rằng Phật hoàn toàn không đắc lực, nên liền oán trách niệm Phật không linh nghiệm, dẫu sau này có hối hận cũng không kịp.

Vì vậy, khuyên người niệm Phật thời nay, đầu tiên phải biết ái dục là cội gốc của sanh tử. Ngày nay dốc lòng niệm Phật, thì niệm niệm phải đoạn ái căn nàỵ

Trong cuộc sống hằng ngày, ở nhà niệm Phật; mắt thấy vợ con cháu chắt, gia duyên tài sản, đều không nên đắm trước ái nhiễm, thì làm việc nào và niệm niệm nào cũng đều vì sanh tử, như toàn thân đang đứng trong hầm lửa.

Lúc chưa biết cách chân chánh niệm Phật, thì niệm ái dục trong tâm chưa có thể xả bỏ. Lúc chân chánh niệm Phật, chỉ bảo rằng niệm không thiết tha và chẳng biết ái dục là chủ tể, nên chỉ niệm Phật ngoài da. Nếu như thế thì Phật chỉ nghe niệm, còn ái dục thì lại tăng thêm.

Lúc cảnh tình của vợ con hiển hiện, phải xoay nhìn vào tâm. Nếu một danh hiệu Phật có thể đối địch với ái dục, thì sẽ cắt đoạn được ái căn. Nếu không cắt được ái dục thì làm sao đoạn được sanh tử. Do tập khí của duyên ái trong bao đời đã chín mùi mà nay chỉ mới bắt đầu niệm Phật, lại không thiết thật niệm Phật, thì không thể niệm Phật đắc lực được. Nếu trước mắt không thể kềm chế dược ái cảnh thì khi lâm chung quyết không thể tự làm chủ được.

Vì vậy khuyên người niệm Phật, việc thứ nhất là phải biết vì sanh tử mà thiết tha niệm Phật, phải có tâm thiết tha đoạn sanh tử, phải dùng niệm niệm mà đốn đoạn cội gốc sanh tử.

Lúc niệm niệm đều liễu được sanh tử thì cần gì đợi đến ngày ba mươi tháng chạp!

Nếu đợi đến lúc đó thì đã trễ lắm rồi! 

Do đó bảo rằng trước mắt luôn nghĩ đến sanh tử đại sự. Trước mắt liễu được sanh tử vốn không. Niệm niệm thiết thật, thì đao đao đều chặt đứt. Dụng tâm như thế, nếu không vượt khỏi sanh tử thì chư Phật bị đọa vì tội vọng ngữ! 

Do đó người xuất gia kẻ tại gia, biết rõ tâm sanh tử tức là biết rõ thời tiết xuất ly sanh tử, sao còn diệu pháp nào khác nữa!

http://www.thuvienhoasen.org/hamsonkhaithi-04.htm

 

Hòa thượng Tịnh Không khai thị:

Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn hiện bày bốn chữ " Tiện lợi- dễ dàng" một cách rõ rệt.

Nếu quý vị không hiểu được những lý luận trong kinh cũng không thành vấn đề, cũng vẫn có thể thành tựụ

Nếu bảo không cần hiểu nghĩa lý trong kinh, chỉ một lòng thành tâm niệm Phật mà có thể thành tựu, vậy thì tôi vẫn phải giảng kinh thuyết pháp nữa để làm gì?

Sở dĩ tôi vẫn phải mỗi ngày thuyết giảng không ngừng, đem những lời hay ý đẹp của đức Thế Tôn ra nói là mong quý vị hiểu, mong quý vị giác ngộ.

Bởi quý vị đây không đủ phước báu nên suốt ngày vọng tưởng, suy nghĩ lung tung. Vậy thì ai là người có đủ phước báu.

Là những người thật thà, chất phác, suốt ngày chỉ ôm giữ một câu A Di Đà Phật, việc gì cũng không nghĩ tưởng. Do đó, công phu niệm Phật của quý vị khi đã đến mức không còn mảy may vọng niệm, chỉ còn một câu A Di Đà Phật, thì lúc đó Tam tạng mười hai bộ Kinh điển, mà Thế Tôn suốt 49 năm thuyết pháp đều là dư thừạ

Quý vị cũng không cần đến nghe tôi giảng giải nữạ

Cho nên Phật độ chúng sanh, có hai hạng người dễ độ nhất:

-- Một là những người thượng căn lợi trí, vừa nghe qua liền thông đạt, liễu ngộ, dứt sạch vọng niệm.

-- Hai là những người thật thà ngu dốt, họ không cần tìm hiểu nhiều, bảo họ niệm Phật là họ cứ ngoan ngoãn, thật tình chấp trì, không nghỉ tưởng điều gì ngoài niệm Phật.
Hạng thứ ba là những người lưng chừng, thích " khiêng vác" ôm đồm, tìm hiểu suy nghĩ lung tung.

Quý vị biết không, chúng ta thuộc loại người thứ ba này đó, loại người nhiều rắc rốị
Cho nên đức Thế Tôn suốt 49 năm khó nhọc, mỗi ngày không ngừng nói pháp cũng vì những người nhiều rắc rối như chúng tạ Ngài phải đem pháp ly ác giảng nói tỉ mỉ ra cho chúng tạ

Mong rằng sau khi quý vị đã hiểu rõ rồi thì phải biết buông xả, không còn vọng niệm.
Người có đại phước báu, tuyệt đối không phải có nhiều tiền tài, có địa vị cao.
Người có địa vị, tiền tài tuy được hưởng thụ đời sống vật chất, hưởng độ vài ba năm, sau khi chết rồi sẽ ra saỏ Tam đồ, lục đạo phải chịu luân hồi, như thế có phải là phước đâu.

Nếu tâm không chút vọng tưởng, suốt ngày chỉ câu A Di Đà Phật, người này chỉ vài năm sau là đã thành Phật được rồi.

Hiểu được như thế, quý vị mới biết công đức niệm Phật thật vô cùng thù thắng, không gì sánh bằng. Đức Thế Tôn sở dĩ phải bày ra phương tiện nói ba thừa, chỉ vì muốn dẫn độ chúng sanh mà thôi. Mục đích duy nhất của Ngài là mong chúng ta một đời có thể thành Phật.

Trích từ: http://www.thuvienhoasen.org/thkh-khaithiphathat.htm

 

Trích Thiền Luận, bộ trung;
Luận giả: Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki;
Bản dịch của Tuệ Sỹ (Trang 259)

Đại sư Pháp Nhiên nói trong bản sớ giải của ngài về Quán kinh rằng hành giả phải như một người mất hết các cảm quan, như một người câm và điếc, hay như một tên khờ, khi y chuyên tâm thực hành Niệm Phật, ngày đêm xưng tụng danh hiệu của Phật, dù đi đứng hay nằm ngồi, chẳng kể bao lâu, một ngày, hai ngày, một tuần, một tháng, một năm, nhẫn đến hai, ba năm.

Nếu sự tu tập được theo đuổi như vậy, một mai chắc chắn hành giả sẽ chứng được Tam Muội và mở rộng Pháp nhãn, rồi y sẽ thấy một thế giới vượt hẳn ngoài tâm tưởng.
Đây là "một cảnh giới huyền vi nơi đó mọi tâm hành đều chấm dứt và mọi hư tưởng đều bị tiêu trừ, hoàn toàn phù hợp với trạng thái Tam Muội".

Trong Tam Muội này, trong đó hành giả có đủ tín tâm, theo tác giả của An Tâm Quyết Định Sao, "thân trở thành Nam Mô A Di Đà Phật và Tâm trở thành Nam Mô A Di Đà Phật".

Nếu thế, đây há không phải là một trạng thái thần bí của ý thức phù hợp với những gì được thể hiện bằng lối thực tập công án.

 


Trích Thiền Luận, bộ trung;
Luận giả: Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki;
Bản dịch của Tuệ Sỹ
(Trang 262)


Phái Tịnh Độ Chân Tông chú trọng đức tin, coi như là điều kiện duy nhất để vãng sinh cõi Phật Di Đà.

Tin tưởng tuyệt đối được đặt vào trí tuệ của Phật vốn siêu việt hẳn tư nghị của loài người. Vì vậy, hãy đặt niềm tin của bạn vào trí bất khả tư nghị này của Phật Di Đà, rồi bạn sẽ được Ngài duỗi tay tế độ.

Bạn khỏi cần đợi chờ phút chót, lúc mà một hàng chư Phật ân cần từ trên kia bước xuống.
Bạn khỏi phải ôm ấp những sợ hãi lo lắng về số phận của mình sau khi chết, nhất là nghĩ không biết mình có bị trôi vào địa ngục hay không.

Bạn chỉ cần vứt bỏ những ý nghĩ về mình và đặt niềm tin tuyệt đối vào đức Phật, Ngài vốn biết làm thế nào để hộ trì phước lợi của bạn cho trọn vẹn.

Bạn chẳng cần lo lắng chút gì về giờ phút lâm chung, lúc bạn phải vĩnh biệt cõi đời này.
Nếu sinh tiền bạn đã được thiện tri thức khuyến hóa và đã phát khởi tín tâm đối với Phật, lúc phát khởi ấy chính là giây phút cuối cùng của bạn trên trần gian.

Nếu do tin tưởng bản nguyện của Phật A Di Đà mà xướng lên Nam Mô A Di Đà Phật, chắc chắn bạn sẽ vãng sanh Tịnh Độ, vì tín tâm này tức vãng sanh.

Nhưng làm sao người ta thực sự có thể có tín tâm này nó vốn nâng hẳn kẻ nào sở đắc lên hàng viên mãn Giác, dẫn y đến làm bạn lữ với cả bồ tát Di Lặc?

Chỉ nghe các vị sư phó thôi sẽ không thực hiện được điều đó.

Chỉ Niệm Phật không thôi cũng sẽ không thực hiện được.

Làm sao để người ta có niềm tin tuyệt đối này -- vốn dĩ cùng tự tính với giác ngộ?

Làm sao chúng ta có thể quyết chắc về sự vãng sinh của mình?

Làm sao để chúng ta không còn ấp ủ những nghi hoặc đối với số phận ngày mai của mình?

Phải thức tỉnh một trạng thái ý thức nào đó trong lòng mình, nhờ đó chúng ta có thể đứng vững trong niềm tin của mình.

Suy luận, học hỏi các kinh điển, hay nghe các minh sư giảng pháp sẽ không khơi dậy ý thức này.

Lịch sử của các tôn giáo cho chúng ta hay rằng phải có một thị kiến trực giác nhìn vào chân lý, chân lý đó là quên mình mà phó thác vào bản nguyện của Phật A Di Đà.

Và đây há không phải là lúc mà câu "Nam Mô A Di Đà Phật" tuôn ra từ chính thâm tâm của mình?

Đây há không phải là điều mà các vị sư Tổ của Chân Tông muốn nói khi họ bảo:" Chỉ một lần xưng danh là được tế độ"?

 


Trích Thiền Luận, bộ trung;
Luận giả: Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki;
Bản dịch của Tuệ Sỹ
(Trang 264)

Khi diễn giải pháp môn Niệm Phật như trên, chúng ta có thể hiểu bài pháp của Nhất Biến (Ippen):

-- "Vãng sinh tức là sơ phát tâm, đấy là tin có một hiện hữu, tức kẻ mà tâm đã phát khởi trong y.

"Nam Mô A Di Đà Phật" tức vãng sinh, và vãng sinh tức vô sinh. Khi thể hiện được như thế, ta tạm gọi là sơ phát tâm.

Khi người ta thâm nhập Phật hiệu, vốn vượt trên thời gian, thì sự vãng sinh lại là vô thủy vô chung.

Có lúc phân biệt giữa giờ phút lâm chung và đời sống thường nhật, nhưng đấy là một thứ giáo thuyết y cứ trên tư tưởng mê lầm.

Chính trong câu "Nam Mô A Di Đà Phật" không có giờ phút lâm chung, không có đời sống thường nhật. Đó là một thực tại thường trụ khắp mọi thời.

Dối với nhân sinh, đấy là một chuỗi những khoảnh khắc chỉ kéo dài giữa hơi thở ra và thở vào, và vì vậy, mỗi một sát na tâm là giờ phút tối hậu của sự sống. Nếu thế, mỗi sát na tâm là giây phút tối hậu và mỗi giây phút là vãng sinh.".

Ý nghĩa của sự phát biểu có tính cách thần bí trên đây của Nhất Biến sẽ được thấy rõ hơn nếu đọc luôn những dẫn chứng dưới đây:

-- " Khi tâm (hay ý ) hoàn toàn phó mặc cho câu Nam Mô A Di Đà Phật, đấy là tư tưởng chân chính dành cho những phút tối hậu".

Chỉ có Phật hiệu, ngoài ra không có người niệm, không có cái được niệm.

Chỉ có Phật hiệu, ngoài ra không có vãng sinh.

Hết thảy vạn hữu đều là các công đức hàm tàng trong bản thân Phật hiệu

Nếu thế, khi các ngươi chứng tri vạn pháp vô sinh, ở đấy, mọi tâm ý đều biến mất, đọc câu Nam Mô A Di Đà Phật tức thì cái sơ tâm được phát khởi gọi là chánh tư duy của giờ phút tối hậu của mình, bởi vì đấy chính là tâm giác ngộ, vốn là Nam Mô A Di Đà Phật"...."...

 

 

Trích Thiền Luận, bộ trung;
Luận giả: Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki;
Bản dịch của Tuệ Sỹ
(Trang 272)


Nói theo mặt tâm lý, mục tiêu của trì danh Niệm Phật là trừ khử óc phân hai tự nền tảng, nó vốn là một điều kiện của ý thức thường nghiệm của chúng ta.

Do thành tựu điều đó, hành giả vượt lên những trở ngại và mâu thuẫn trong lý thuyết đã từng làm y bối rối.

Bằng tất cả sự phấn phát của tâm trí, y đã buông mình rơi xuống những vùng sâu thẳm của tự tính.

Tuy nhiên, y không chỉ là một kẻ lạc đường không có gì hướng dẫn mình, bởi vì y có danh hiệu trong tay. Y nắm lấy danh hiệu mà rảo bước; nắm lấy danh hiệu mà đi xuống hố thẳm; dù y nhận thấy mình cứ bị ly dị với nó, nhưng luôn luôn hồi tưởng nó và đồng hành với nhau.

Một ngày kia, y không còn là mình nữa, và không cùng với danh hiệu nữa, thế mà chẳng hay biết gì cả. Duy nhất chỉ có danh hiệu, và y là danh hiệu, danh hiệu là y.

Đột nhiên, sự thể này biến mất, nhưng đấy không phải là một tâm trạng trống rỗng, cũng không phải là một trạng thái vô thức.

Tất cả những ý chỉ tâm lý này khó mà diễn tả nổi cái tâm trạng của y lúc bấy giờ. Nhưng y không dừng lại trong đây, vì y cũng đột nhiên thức tỉnh khỏi tâm trạng trước kia. Khi thức tỉnh, y thức tỉnh cùng với một niệm, một niệm ấy là danh hiệu và tín tâm đối với bản nguyện của Phật A Di Đà và sự vãng sinh...."...

 

Đại sư Triệt Ngộ khai thị:
..."...

Chơn pháp vốn không tự tánh, nhiễm tịnh do nơi duyên sanh, mà đã nơi lý nhất chơn thì toàn thể có đủ thập giới.

Cho nên những người đã thạo bàn về tâm tánh thì chẳng bao giờ rời bỏ nhơn qủa, mà những kẻ đã sâu tin về nhân qủa thì sau khi đó lại càng hiểu rõ tâm tánh. Đó là lý thể tất nhiên như vậy.

Cái tâm năng niệm hiện tiền của chúng ta tuy toàn chơn mà thành vọng, tuy toàn vọng mà tức chơn. Trọn ngày tùy duyên, trọn ngày bất biến.

Một câu Phật sở niệm ấy là thế đức mà lập danh với đức. ngoài danh ra không có đức riêng. Cho nên lià cái tâm năng niệm thì không có ông Phật sở niệm và lià ông Phật sở niệm thì không có cái tâm năng niệm, năng sở vẫn một, sanh Phật không hai.

Nguyên lai lìa tứ cú và tuyệt cả bách phi, mà cùng khắp hết thảy và trùm hết thảỵ

Thiệt là tuyệt đải viên dung không thể nghĩ bàn. Vậy ai là người tu Tịnh Độ tông nên do trong chỗ đó mà tín nhập.

Vả lại người tu cần phải giữ giới sát, vì hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, thì loài súc sanh cũng có. Vậy chẳng lẽ nên giết hay sao.

Cho nên người mà tạo nghiệp nặng, buông lòng giết kết oán sâu, cảm qủa khổ, đều là do một cái giết mà gây rạ Từ đó tâm giết lần lần mạnh, nghiệp giết lần lần sâu. Ban đầu giết loài vật, rồi lần lần giết tới loài người, rồi lần giết đến hàng lục thân quyến thuộc.

Thế lực của cái giết cứ đi đến mãi thì sẽ dồn chứa làm đạo binh giặc cướp tàn hại sanh linh mà diễn thành một tấn bi kịch. Đó cũng bởi cái hại không biết giới sát mà gây ra vậy.

Nếu biết giới sát thì loài trâu heo còn không nỡ giết, đến người, thì chắc rằng khó giết thân bằng quyến thuộc.

Vậy trâu heo đã chẳng nỡ giết thì cái lý giặc cướp, chiến tranh do đâu mà có được.

Người mà không giới sát là do chẳng đạt tới cái lý nhân qủa.

Nhơn quả nghĩa là cảm ứng, tức như ta lấy cái ác tâm cảm người, thì người cũng lấy cái ác tâm ứng lại tạ Bằng như ta lấy thiện tâm cảm người, thì người cũng lấy thiện tâm ứng lại ta, ấy kêu là nhân qủa.

Nhưng có một điều là người chỉ biết sự cảm ứng trong lúc hiện thế mà không biết sự cảm ứng thông cả ba đời.

Lại nữa con người chỉ biết sự cảm ứng trong nhân thú mà không biết sự cảm ứng thông cả sáu thú vậỵ

Nếu biết sự cảm ứng thông cả ba đời sáu thú, thì trong sáu thú ấy đều là hàng phụ huynh trong nhiều kiếp của mình, lẽ nào lại giết sát.

Huống chi sự cảm ứng chẳng những thông cả sáu thú, mà lại thông cả thế gian và xuất thế gian nữa.

Cho nên nói về xuất thế gian, thì ta dùng cái tâm vô ngã mà cảm, tức là có cái ngã Thinh Văn, Duyên Giác ứng lại.

Ta dùng cái tâm Bồ Đề, lục độ vạn hạnh mà cảm, thì có cái qủa bồ tát pháp giới ứng lại.
Cho đến ta dùng cái tâm: bình đẳng đại tư, đồng thể đại bi mà cảm, thì có cái qủa Phật pháp.

Thế là biết sự cảm ứng rất rộng, rất lớn không thể nói cho cùng.

Trích từ: http://www.thuvienhoasen.org/khaithi-trietngo-1.htm

 

 

Đại sư Hám Sơn khai thị:
..."...

 

Những kẻ thường gieo mười điều ác, thì lúc lâm chung sẽ bị nghiệp lôi kéo, và bao việc khổ trong địa ngục hiện ra trước mắt.

Vì khổ quá bức bách, nên mới có tâm thiết tha muốn thoát khổ. Tâm này cộng với ý cùng cực khổ não mà thành niệm lực, nên khởi tâm thiết tha sám hốị Tâm sám hối đã thiết tha, thì ngay nơi ấy toàn thể ý niệm chuyển biến, nên trong một niệm, bèn tương ưng với chư Phật.

Nhờ Phật lực gia trì, cảm ứng, khiến núi đao hoá thành rừng châu báu, và vạc lửa biến thành ao sen, nên những kẻ ác này cũng được vãng sanh.

Cảnh Tịnh Độ do toàn thể công lực của tự tâm chuyển biến, chứ chẳng do từ ngoài mà được.

Vì vậy quán thấy, vạn pháp trong ba cõi, chẳng có pháp nào mà không xuất sanh từ tâm.

Cảnh tịnh uế, chẳng có cảnh nào là không do tâm hiện.

Thế nên, pháp môn Tịnh Độ, không luận là người đã ngộ hay chưa ngộ, bậc thượng trí hay kẻ hạ ngu, nếu tu thì tất định sẽ được vãng sanh ; tất cả đều do tự tâm, tức là ý chỉ duy tâm tịnh độ, trắng đen rõ ràng.

Thể tánh của chư Phật như hư không. Tự tâm lặng lẽ thanh tịnh, thì ứng hợp với chư Phật.
Tuy giả lập khởi một niệm nguyện lực trang nghiêm, mà cảnh giới Tịnh Độ liền hiện, chứ không cần vay mượn công huân.

Đó là bậc thượng thượng, chẳng phải là việc mà kẻ trí hẹp hay lòng tin cạn cợt có thể đạt đến.

Các vị trung căn hạ căn, hãy nên liên tục quán xét tâm niệm, chớ để duyên ái hay tập nghiệp làm khuynh đảo.

Căn tuy khiếm khuyết, mà chí thật thượng thượng. Việc tu khó, chỉ vì khó đoạn ái căn.
Những kẻ ác được vãng sanh lại còn khó hơn.

Tuy bảo rằng đới nghiệp vãng sanh, nhưng thật ra do tập khí của thiện căn trong bao đời đã huân tập mà phát khởi.

Tuy căn tánh xấu xa thấp kém, nhưng nếu phát khởi một tâm niệm dũng mãnh, thì siêu vượt lên bậc thượng thượng.

Vừa bỏ dao đồ tể, bèn làm Phật sự, còn gì thù thắng bằng!

Song, chúng sanh mỗi mỗi không giống nhau.

Thế nhân nếu mong đợi cầu vãng sanh thì là sai lầm.

Căn tánh không lớn nhỏ ; cứu cánh chỉ do một niệm hướng thượng mà thành tựụ
Vì vậy pháp môn này, há chẳng phải đặc biệt quyền thiết cho trung hạ căn thôi sao!

 


© 2008 -2024  Phật Học Online | Homepage