Khi nào ta nhìn như không
nhìn, nghe như không nghe, thấy như không thấy – lúc đó ta mới có sự
sáng suốt toàn diện.
Khi ta còn nhìn,
nghe, thấy với nhận xét, thấy hay thấy dở, thấy sai thấy đúng, là đầu óc
còn suy luận, so đo, cân nhắc, thương ghét còn, và chính những điều này
đã làm tâm ta náo loạn, tạo ra những cử chỉ, hành động và lời nói tạo
nhân quả và nghiệp lực.
Khi mà cặn bã của thành kiến chủ quan
và nhận thức chủ quan còn thì con đường tiến đến giải thoát trong tâm
thức ta vẫn còn trì trệ khó khăn tiến hóa.
Con người và sự vật quanh
ta là muôn ngàn tấm gương cho ta soi từng khía cạnh của tâm thức mình.
Khi ta va chạm với con người và hoàn cảnh xung quanh thì ta nên xét
nghiệm lại chính bản thân mình ở khía cạnh va chạm đó.
Có rất nhiều lý do để cho
các sự va chạm bắt nguồn. Tại sao ta va chạm với người này mà không va
chạm với người kia. Tại sao có lúc ta tưởng đã tha thứ người kia rồi gặp
hoàn cảnh thì việc cũ lại bùng vỡ, khiến ta giận dữ. Có những sự va
chạm do ta muốn giúp họ, sửa họ, cố gắng nói làm cho họ, để rồi tạo sự
buồn phiền cho chính mình vì những phản ứng không thuận lợi của họ đối
với mình.
Sự va chạm còn cho ta
thấy tâm ta chưa bình đẳng cho nên ta chú tâm giúp đỡ, cải sửa người
này, bỏ quên người kia hay lơ là người nọ. Khi tâm chưa đạt được mức
bình đẳng thì ta chưa đạt được không tính, còn phân nhân ngã, tình
thương nhân loại chưa thật sự phát triển đúng mức.
Ngày nào mà tâm bình đẳng
chưa đạt được, thì sự phục vụ đạo pháp giống như ta đứng dưới chân núi
mà nhìn lên đỉnh núi. Muốn bước lên đỉnh núi ta phải trút bỏ những cục
đá đang đeo trên người. Những tham sân si hỉ nộ ái ố. Núi non hiểm trở
cao vòi vọi, muốn tiến lên thân tâm ta phải nhẹ nhàng thì ta mới không
trèo lên té xuống. Đá càng nhiều càng nặng, ta càng té nặng té đau. Có
khi rớt vào vực sâu thẳm khó vượt lên trở lại chân núi.
Những cú sốc bất ngờ luôn
giúp ta dừng chân tự xét ta đã nghĩ gì, nói gì, và làm gì? Vì sao ta
nhận phản ứng của người? Vì sao có sự khác biệt, bất đồng ý kiến?
Trên con đường tu học nên
nhớ kỹ là ta chia sẻ cho người những gì ta thu nhặt được, nhưng tránh
tuyệt đối bắt người phải nghe, phải theo ý mình, hay con đường mình. Khi
đã chia sẻ những phương tiện để đi tìm giác ngộ, đi tìm tự do, đi tìm
giải thoát, thì không bao giờ kiềm chế ai dù là người lạ hay quen, thân
bằng hay quyến thuộc.
Mỗi một con người đều có
quyền bình đẳng tự do lựa chọn con đường của mình. Đó là quyền năng của
Thượng đế đã ban cho họ. Họ có quyền hưởng và ta không nên tước đoạt
quyền tự do của họ dù bất cứ hình thức hay dạng thức nào. Nếu dùng quyền
năng của Thượng đế để kìm kẹp con người thì ta sẽ rơi vào hố thẳm thay
vì tiến lên đỉnh núi để phục vụ cho lý tưởng mà mình đã chọn, đã phát
nguyện hành đạo giúp đời, giúp tha nhân.
Hành đạo sai lầm là hại
đạo, hại tha nhân.
Tân Thiên Niên Kỷ là Niên
Kỷ của ánh sáng giác ngộ, con người tiến hóa rất nhanh nhờ phương tiện
truyền thông qua mạng lưới điện toán toàn cầu.
Phía sau bức màn của các
xung đột chiến tranh là một khối người trầm lặng tu tập học hỏi. Đó là
khối tri thức, nguồn năng lực mạnh mẽ đang nuôi dưỡng các mầm non siêu
nhân của thế giới đại đồng trong tương lai.
Khối người im lặng trong
lành này có nhiệt lượng và năng lượng tình thương bất phân tôn giáo,
chủng tộc, màu da. Khối người im lặng nhưng cùng lúc làm việc không ngơi
nghỉ ở mọi ngành nghề. Họ không cầu danh lợi tiền tài. Bốn thứ danh lợi
tiền tài đều không làm họ xiêu lòng, đổi dạ.
Khối người yên lặng cùng
sống tại mặt đất, nhưng không bị nhiễm trần. Họ cùng gặp nhau, truyền
dạy lẫn nhau, chia sẻ với nhau các kinh nghiệm qua quá trình tu học
trong đời sống. Họ là một khối bất phân được phóng quang ra từng thế kỷ
để cùng phục vụ cho sự trường tồn của con người và trái đất.
Họ được di chuyển trên
mặt đất tùy theo nhu cầu học hỏi, hành đạo để phục vụ theo từng thế kỷ.
Nhờ vậy kiến thức tâm thức họ được phát triển và khai triển luôn luôn
cho phù hợp với từng quốc gia chủng tộc của từng thế kỷ.
Họ là những
kẻ rung chuông cho đại chúng khi bước vào Tân Thiên Niên Kỷ này.
Theo: Hoằng Pháp