«Giống như một người thợ dệt đã dệt
đến đoạn cuối cùng của sợi chỉ, đời sống của con người cũng thế» Phật
Ý thức được cái chết là điều hệ
trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái
chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta. Sự sống hàm chứa một
ý nghĩa, nhờ sự sống đó ta mới có thể thực hiện được những gì tiếp nối về sau.
Phân tích cái chết không làm gia
tăng sợ hãi, nhưng chính để giúp ta hiểu được giá trị quý giá của kiếp sống
này, dựa vào sự sống ấy ta mới có thể thực hiện được những điều thiết thực,
thay vì chỉ biết lo âu. Ta phải hiểu rằng khi cái chết đã đến, lúc ấy ta sẽ mất
hết khả năng tu tập. Vì thế, quán nhận một cách ý thức về cái chết sẽ làm gia
tăng sức mạnh giúp ta tu học.
Chấp nhận cái chết như là một quá
trình của sự sống là điều cần thiết. Phật có nói:
Nơi ta có thể sống
để tránh khỏi cái chết
Quả là không có
Nơi đó chẳng có trong không gian, trong đại dương,
Cũng chẳng có trong lòng của một quả núi.
Nếu ta chấp nhận cái chết là một
thành phần của sự sống, ta sẽ đối phó dễ dàng hơn khi cái chết xảy đến. Trong
thâm tâm, ta biết rằng cái chết rồi sẽ mang ta đi, nhưng ta cứ nhất quyết không
nghĩ đến nó, tình trạng như vậy chẳng những không hợp lý chút nào mà còn thật
tai hại. Cũng giống như khi ta không công nhận sự già nua là thành phần bất khả
phân của sự sinh tồn, ta gạt bỏ nó ra và không nghĩ tới nó. Hậu quả ta sẽ trở
nên bất lực trước sự hiện diện của nó. Khi tuổi già đến và lúc đó ta phải chấp
nhận nó thì quả là một điều khó khăn.
Nhiều người dù thân xác đã lớn tuổi
nhưng cứ làm ra vẻ như còn trẻ. Trường hợp của tôi đây, khi gặp lại các bạn hữu
đã quen biết từ lâu, chẳng hạn như một vài thượng nghị sĩ Hoa-Kỳ, tôi đã gọi họ
« Này ông bạn già của tôi » với ý nghĩ họ là một người bạn đã quen biết từ lâu,
chứ không phải là những người bạn lớn tuổi. Nhưng họ đã bắt lỗi tôi: « Chúng ta
không phải là những người già, phải nói chúng ta là những người bạn quen biết
từ lâu! » Nhưng thực tế thì họ đã già – lỗ tai họ đã mọc lông, dấu hiệu của già
nua. Họ đau khổ vì phải chịu già nua, quả thật là ngu xuẩn. Tôi ước chừng đời
người được khoảng một trăm năm, quá ngắn khi so sánh với sự hiện hữu của một
hành tinh. Vì vậy nên sử dụng sự hiện diện ngắn ngủi của ta như thế nào để đừng
gây ra lầm lỗi cho kẻ khác. Không nên dùng nó để gây ra những hành động tàn
phá, nhưng nên hướng vào những sinh hoạt lợi ích – hoặc ít ra cũng không làm
thương tổn đến kẻ khác, không gây ra lo buồn cho kẻ khác. Làm được như thế sẽ
mang đến cho khoảng thời gian du lịch ngắn hạn của ta trên địa cầu này một chút
ý nghĩa. Nếu một người đi du lịch viếng thăm một nơi nào đó trong chốc lát mà
lại tạo ra vô số vấn đề, thì thật là đần độn. Nhưng nếu trong khoảng thời gian
ngắn ngủi đó, với tư cách một người đi du lịch ta lại tạo được hạnh phúc cho kẻ
khác, thì quả ta là một người khôn khéo, và rồi ta sẽ tìm được hạnh phúc trong
chặn đường sắp tới. Nếu ta gây ra khó khăn cho kẻ khác mà không cảm nhận thấy
ngay trong thời gian viếng thăm chăng nữa, ta cũng sẽ tự hỏi cuộc viếng thăm
của ta có ích lợi gì.
Trong một trăm năm hiện hữu, giai đoạn đầu dành cho tuổi thiếu thời, giai đoạn
chót cho tuổi già nua, trong hai quá trình đó ta giống như một sinh vật chỉ
biết ăn và ngủ. Trong giai đoạn trung gian, khoảng chừng sáu mươi hay bảy mươi
năm, ta mới thật sự sống một cuộc sống có ý nghĩa. Vì thế mà Phật đã nói:
Nửa đời người chỉ dùng để ngủ, mười
năm làm trẻ nhỏ, hai mươi năm làm người già. Trong hai mươi năm còn lại thì lo
buồn, than vãn, đau đớn, bất an làm phí phạm rất nhiều thì giờ, chưa kể hàng
trăm lần bệnh tật làm tiêu hũy thời gian nhiều hơn nữa.
Để có thể đem đến cho sự sống một ý
nghĩa, chúng ta cần phải chấp nhận sự già nua và cái chết như những thành phần
bất khả phân trong sự hiện hữu của chúng ta. Xem cái chết là một chuyện hão
huyền sẽ tạo thêm dục vọng và vô số vấn đề, đôi khi còn cố tình tạo ra những
điều không hay cho kẻ khác. Ta cứ xét hành vi của những người được xem là những
nhân vật vĩ đại – chẳng hạn như các vị đế vương, vua chúa, v. v. – họ xây dựng
lâu đài khổng lồ có tường cao vây kín, điều ấy cho thấy trong thâm tâm họ có
cái ý muốn sống bất tận trong thế giới này. Đấy là cách họ tự dối gạt và đem
đến đau khổ cũng như khó khăn cho biết bao nhiêu người chung quanh.
Dù không tin vào kiếp sau đi nữa,
nhưng nếu biết nhìn thẳng vào thực tế cũng là một điều tốt, hữu ích và khoa
học. Con người, tâm thức và mọi hiện tượng đều dính liền với một nguyên nhân và
chúng biến đổi trong từng giây phút một, và cũng nhờ thế một sự thăng tiến nào
đó mới có thể xảy ra được. Nếu mọi cảnh huống không biến đổi liên tục, chúng sẽ
mãi mãi nằm trong khổ đau. Kẻ nào ý thức được những gì mang tính cách giai đoạn
đều sẽ phải đổi thay, thì họ có thể tự an ủi khi phải trải qua một chuổi dài
thử thách, họ nghĩ rằng cảnh huống đó sẽ không kéo dài vô tận. Vì thế tại sao
phải lo buồn? Sự may mắn lại rất mong manh. Tốt nhất không nên quá trông cậy
vào may mắn. Dựa vào sự bất di dịch của sự sống là một thái độ lầm lạc. Ngay cả
khi ta chấp nhận giả thuyết có những kiếp sau đi nữa, thì ta vẫn phải sống với
hiện tại, tương lai không hệ trọng nhiều. Nếu đời ta chỉ dựa vào sự vui chơi và
buông thả, ta sẽ bỏ mất dịp may tu tập tinh thần trong chiều hướng tích cực. Nguyên
lý vô thường thật hữu hiệu.
Muốn ý thức được vô thường phải biết giữ một kỷ cương nào đó: tức phải khắc
phục được tâm thức. Điều ấy không có nghĩa là phải đè nén hay khắc phục một
điều gì bên ngoài. Kỷ cương không có nghĩa là cấm đoán mà chính là một sự lựa
chọn, phải gạt bỏ những lợi ích ngắn hạn để chọn những lợi ích lâu dài. Đó
chính là kỷ luật của cái « tôi », phát sinh từ luật nhân quả của nghiệp. Ví dụ
như sau một cơn bệnh gần đây, tôi tránh không dùng những thức ăn chua và nước
uống ướp lạnh, những thứ ấy trước đây đối với tôi là những thực phẩm vừa ngon
lại dễ chịu. Giữ kỷ cương như thế tức là tự che chở lấy mình. Cũng giống như
vậy, suy tư về cái chết chính là một kỷ cương trong mục đích cứu vớt, không
phải là một hình phạt. Con người có khả năng làm được điều thiện, sự kiện ấy có
vẻ hàm chứa một chút tự do nào đó, trong khi sự độc đoán chỉ kiềm hãm việc làm
phải mà thôi. Chủ trương cá nhân buộc ta không chờ đợi bất cứ gì bên ngoài hay
phát xuất từ những kẻ khác, mà chỉ trông cậy vào chính mình. Do đó Phật thường
kêu gọi hãy « giải thoát cá nhân », có nghĩa là tôn trọng sự tự do của mỗi
người, không dựa vào một tổ chức nào từ bên ngoài. Mỗi con người phải nắm lấy
trách nhiệm tương lai của chính mình. Sự tự do và chủ trương cá nhân đòi hỏi
mỗi người phải biết giữ kỷ cương. Kẻ nào tự biến mình thành một món đồ chơi của
xúc cảm sẽ gặt hái những hậu quả đau buồn. Vì thế, sự tự do phải đi đôi với một
kỷ cương cá nhân mới trở nên hữu hiệu được.
MỞ RỘNG TẦM NHÌN
Trong phối cảnh tu tập Phật giáo,
mục đích là đạt được Phật tính để có thể giúp đỡ thật nhiều người khác. Dù chỉ
đạt được một phần nhỏ mục tiêu đó cũng có thể giúp ta tự giải thoát khỏi vòng
khổ đau của sinh, già, bệnh và tử. Trong một mức độ thấp hơn nữa, thì cũng vẫn
hữu ích để cải thiện các kiếp sống của ta sau này. Dần dần ta cũng sẽ được giải
thoát, và đạt được Phật tính. Trước hết, phải nhìn phối cảnh đó thật rộng, bao
gồm cả các kiếp sống tương lai. Kế tiếp, phải hiểu rõ trình độ của ta mới có
thể biến cải được khổ đau, dai dẵng từ kiếp này sang kiếp khác trong chu kỳ
sinh tử, tức luân hồi (Samsara). Nhờ vào lòng từ bi, ta có thể mở rộng tầm nhìn
trên đây để cùng chia xẻ với những người khác, lòng từ bi chính là để giúp tất
cả mọi chúng sinh thoát vòng đau khổ và những nguyên nhân gây ra đau khổ. Từ bi
giúp ta hướng về Phật tính.
Trước khi thấu triệt được bản chất
của khổ đau và luân hồi, ta phải cẩn thận chọn lựa những gì thiết yếu trong
cuộc sống này, vì chúng sẽ quyết định cho những kiếp sống tương lai. Biết nhìn
vào khổ đau thật là điều cần thiết để mở rộng lòng từ bi. Là những người Tây
tạng, chúng tôi cố gắng tạo lập một hình thức tự trị cho xứ sở chúng tôi để
phục vụ cho người dân trên quê hương của chúng tôi. Đồng thời chúng tôi cũng cố
gắng thiết lập vị trí tạm của chúng tôi trên đất Ấn độ. Thực hiện được mục đích
thứ nhất là việc chính, nhưng cũng phải dựa vào mục đích sau với tính cách giai
đoạn.
NHỮNG BẤT LỢI KHI CHE DẤU CÁI CHẾT
Ý thức được cái chết của ta là một
điều tốt. Tại sao? Kẻ nào không ý thức được cái chết sẽ không tập trung hữu
hiệu được những hành vi của chính mình. Họ sống một cuộc sống không có ý nghĩa
gì cả, họ không phân biệt thái độ nào, hành vi nào sẽ gây ra đau khổ hoặc tạo
ra hạnh phúc.
Không nhìn thấy cái chết gần kề, sẽ
giống như một người ngủ mê và tưởng mình là vĩnh cửu:
«Ta chưa chết đâu, còn lâu ta mới
chết ». Khi giây phút đó đến gần, ta không còn sức để phản ứng nữa. Ngay cả
nhiều người Tây tạng lúc còn trẻ vào tu viện nghiên cứu kinh sách và tu tập,
nhưng khi phải thực hiện những điều đã học thì họ lại bất lực, chỉ vì họ không
đạt được sự hiểu biết thật sự của vô thường.
Nếu sau khi suy nghĩ kỹ về việc tu
học, ta quyết tâm vào tu viện vài tháng hay vài năm, ấy là sự cảm nhận về vô
thường đã ảnh hưởng đến ta. Nhưng nếu nhu cầu khẩn thiết đó không đủ sức đứng
vững trước sức tàn phá của vô thường, thì những gì ta tu học rồi cũng sẽ sụp
đổ. Một số người vào tu viện nhiều năm nhưng không thăng tiến một chút nào. Suy
tư về vô thường không những thúc đẩy ta quyết định tu tập mà còn tiếp tục nuôi
dưỡng nó. Kẻ nào thấm nhuần trong thâm tâm rằng cái chết là chắc chắn, chỉ lúc
nào chết là chưa biết mà thôi, kẻ đó rất tích cực, giống như có một người bạn
bên cạnh nhắc nhở họ: «Cẩn thận, hãy nhìn cho kỹ: lại thêm một ngày vừa hết rồi
đó!».
Ta có thể rời bỏ gia đình và chọn
cuộc sống nơi tu viện. Tu viện sẽ cho ta một tên mới, quần áo mới. Ta sẽ bớt
bận rộn hơn. Nhưng cần phải thay đổi thái độ, hãy hướng sự chú tâm của ta vào
những đối tượng cao cả hơn. Nếu ta vẫn tiếp tục nhạy cảm với cuộc sống hời hợt:
thức ăn ngon, quần áo sang trọng, nhà đẹp, thích kẻ khác ăn nói tâng bốc, thích
có nhiều bạn hữu, nhiều giao du, hoặc ngay cả việc bạn bè khích động, thì chẳng
những ta không gặt hái được kết quả nào cả mà còn có thể rơi xuống thấp hơn
trước nữa. Không phải chỉ từ bỏ những sinh hoạt phù phiếm để che mắt bạn bè
cùng tu học: sự biến đổi phải phát xuất từ bên trong. Điều này không phải chỉ
áp dụng cho các nhà sư và các ni cô mà cho bất cứ ai muốn thực sự tu học.
Có thể ta cũng bị ám ảnh bởi cảm giác là cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào,
nhưng đồng thời ta cũng cứ nghĩ rằng cái chết chưa phải ngay bây giờ, ta vẫn
còn đang sống, phải cần những thức ăn ngon, những giao du thích thú. Kẻ nào sẵn
sàng thụ hưởng hiện tại, mặc dù là một hiện tại hời hợt và lệ thuộc vào dục
vọng, sẽ sẵn sàng sử dụng tối đa mọi phương tiện trong mục đích làm thỏa mãn
những thèm khát của mình: cho vay nặng lãi, khinh miệt bạn hữu, kiện thưa để
làm giàu thêm. Tiền bạc thu hút họ hơn là sự tu học, ngay cả khi họ thử noi
theo giáo lý nhà Phật thì họ cũng chẳng chú tâm được. Nếu có một tờ tài liệu
lọt ra từ một quyển sách, họ do dự trước khi nhặt lên, nhưng nếu là một tờ giấy
bạc rơi xuống đất, tức thời họ khom xuống để nhặt lấy. Nếu may mắn, ta có dịp
gặp những người tu hành hy sinh đời mình cho những mục đích cao cả, nhưng biết
đâu ta cũng chỉ vỏn vẹn ngưỡng mộ đức tính mộ đạo của họ, thế thôi. Trong khi
ấy, nếu ta thấy một người nào đó thật sang trọng đang khoe khoan của cải, biết
đâu ta cũng muốn được như vậy. Và rồi, ta sẳn sàng đánh mất thăng bằng của chính
ta để nghiêng về phía những giá trị vật chất.
Kẻ nào chỉ nghĩ đến bon chen trong
thế giới này sẽ sống trong đam mê và đi đến chỗ tạo ra những hành động xấu.
Những vướng mắc đó chỉ đem đến khó khăn và đau buồn cho họ và cả những người
chung quanh. Trên đường tu học tuần tự từng giai đoạn hướng về Giác ngộ, cũng
có kẻ biết gom góp tiền của để chia sẻ với kẻ khác, nhưng nếu họ gặp những
người chỉ thích có vàng nén, có lẽ họ khó tránh khỏi sự phân vân phải chọn lựa
giữa một thứ tình cảm thân thiện giả tạo và lòng oán hận trước một kẻ thù. Ngay
khi ta nghe nói đến việc tu học sẽ đem đến lợi ích, nhưng ta vẫn thốt lên:
«Đồng ý, nhưng mà...», một chuổi dài những tiếng «nhưng mà» tiếp nối nhau. Biết
đâu qua những chu kỳ liên tiếp của nhiều kiếp sống đã làm ta quen dần với những
xúc cảm bấn loạn. Nhưng nếu ta lại ghép thêm vào đó một cuộc sống phù phiếm thì
tình trạng sẽ trở nên trầm trọng hơn và làm cho ta lạc hướng, không còn nhìn
thấy những gì thật sự có thể mang đến lợi ích cho ta.
Thúc đẩy bởi sự thèm khát, ta đâu
tìm được an vui. Ta cũng chẳng làm cho kẻ khác hạnh phúc hơn. Ta chỉ thấy chính
bản thân ta: «Cái này của tôi, cái kia của tôi, thân thể của tôi, gia sản của
tôi». Ai chen vào những thứ ấy sẽ làm cho ta khó chịu ngay. Kể cả khi ta xem
trọng và bám víu vào «bạn bè của ta» và «gia đình của ta», những người này cũng
không giúp cho ta sinh hay tử được. Chúng ta tự đến đây một mình và chúng ta sẽ
ra đi một mình. Nếu giả sử có một người bạn nào muốn theo ta lúc ta chết, thì
chuyên đó cũng không thực hiện được, dù ta có bám víu vào chuyện đó cũng vô
ích. Khi ta tái sinh trong một hoàn cảnh hoàn toàn mới lạ, khi ấy người bạn từ
kiếp trước may ra có thể giúp ta, chuyện này cũng đáng suy nghĩ, nhưng không
phải là hoàn cảnh hiện nay. Mặc dù vậy, giữa khoảng thời gian ta sinh và chết,
kéo dài nhiều chục năm, ta vẫn gọi họ là «bạn của tôi», «chị của tôi», «anh của
tô ». Dù ta quyết tâm duy trì như thế cũng chẳng ích lợi gì, chỉ gây thêm hoang
mang, dục vọng và hận thù.
Khi ta đặt quá lố tầm quan trọng
nơi bè bạn, ta sẽ rơi vào một vị thế tương tợ như khi ta đối xử với kẻ thù.
Sinh ra trong cõi đời này, ta không quen ai cả, cũng chẳng ai biết ta. Mặc dù
mỗi người trong chúng ta đều giống như nhau, đều muốn hướng về hạnh phúc và
chối bỏ khổ đau như nhau, nhưng ta vẫn có thể gặp trường hợp có thiện cảm với
gương mặt của vài người nào đó và ta nghĩ rằng: «Tôi thích những ngưới này
lắm», đồng thời ta lại không thấy thiện cảm với gương mặt của số người khác và
ta thốt lên: «Người gì mà có bản mặt kỳ khôi». Ta gán cho mỗi người một cá tính
nhận diện nào đó, đặt thêm cho họ một biệt danh, sau cùng ta biểu lộ tình cảm
gắn bó với nhóm người kể trước và tình cảm ruồng bỏ đối với nhóm người kể
sau.
Những chuyện đó thử hỏi có giá trị gì đâu? Hoàn toàn không. Dù vậy, giữa thời
gian sinh và tử suốt mấy chục năm, ta vẫn gọi họ là «bạn của tôi», «anh của tôi».
Tại sao phải hao phí bao nhiêu sinh lực cho một việc có tính cách hời hợt như
vậy mà không hướng nó vào những gì sâu sắc hơn trong các hành vi của ta?
Nếu ta chưa bao giờ có dịp tu tập
tinh thần, đến ngày chết, chỉ có những người thân vây quanh ta than khóc, dây
dưa với những chuyện làm ăn còn dính líu, bên cạnh không có một người tu hành
nào đưa tiễn ta bằng cách nhắc nhở những điều đạo đức, để rồi ta sẽ gặp thật
nhiều khó khăn mà chính ta là nguyên nhân gây ra những khó khăn đó. Sự sai lầm
ấy là do đâu? Do ta không hiểu biết gì cả về vô thường.
NHỮNG ĐIỀU LỢI KHI Ý THỨC ĐƯỢC VÔ
THƯỜNG
Nếu ta không muốn chờ đến ngày cuối
cùng để biết rằng ta sắp chết, và ngay từ bây giờ ta biết thẩm định tình huống
của ta một cách thực tế, ta sẽ không vướng mắc vào những chuyện phù phiếm. Ta
không xao lãng những gì chính yếu.
Tốt hơn phải hiểu là ta có thể sắp
chết đến nơi, và ta nên xác định những gì thật thiết yếu. Nếu lúc nào ta cũng
nhớ trong thâm tâm sự phù du của kiếp sống này, ta sẽ ý thức được giá trị của
thời gian còn lại và từ đó ta có thể cân nhắc hậu quả từng hành vi của ta. Khi
cảm nghĩ mảnh liệt về cái chết không còn xa nữa, lúc đó ta sẽ cảm thấy con
đường tu tập tinh thần để phát triển tâm linh là việc cần thiết. Như thế ta sẽ
không bị phân tâm và xao lãng bởi những bửa ăn ngon, rượu chè say khướt và
những câu chuyện thảo luận bất tận về chiến tranh, tình yêu hoặc những chuyện
nói xấu lẫn nhau.
Mỗi người đều cố tìm hạnh phúc và
lẫn tránh khổ đau. Chúng ta đều tìm mọi phương cách để vượt lên trên những khổ
đau đang phải gánh chịu, dù rằng những khổ đau đó có tính cách cơ bản hay chỉ
hời hợt bên ngoài. Nhiều người lúc còn trẻ đã biết nghĩ đến việc tìm phương
cách để lẩn tránh khổ đau về sau. Nhiều người nhờ vào tôn giáo, nhiều người
không cần, nhưng tất cả đều tìm đủ cách để giới hạn những khó khăn này, loại bỏ
những khó khăn khác, đôi khi họ cũng dùng cả khổ đau để vượt lên những khổ đau
khác lớn hơn, trong mục đích tìm lấy một chút nhẹ nhỏm. Con người thường tìm
cách loại bỏ những khổ đau bên ngoài, nhưng cũng có một thứ kỹ thuật khác nhắm
vào việc loại bỏ khổ đau trên một bình diện sâu xa hơn, cho đến mãi kiếp sau
nữa.
Tu tập tinh thần thuộc về loại kỹ
thuật đó, nó đòi hỏi ta phải thay đổi thái độ. Tu tập tinh thần là tổ chức lại
tư tưởng từ căn bản. Điều này tiếng Phạn gọi là dharma: «sự nắm giữ». Khi loại
bỏ những hành vi vô bổ, ta sẽ đạt được một cấp bậc tâm thức khác, giúp ta tránh
khỏi khổ đau. Tu tập tinh thần sẽ che chở và bảo vệ ta, cả cho ta và những
người khác nữa, khỏi rơi vào sự nghèo nàn về đạo đức. Khi ý thức được vị trí
của chính mình trong chu kỷ sinh tử, ta sẽ ảnh hưởng được người khác đồng thời
cũng giúp ta phát lộ được lòng từ bi. Vì thế ta sẽ xả thân để giúp kẻ khác bớt
khổ đau. Ta sẽ cảm thấy việc chăm lo cho thật nhiều người là một việc tự nhiên.
Tìm cách giúp kẻ khác, ta sẽ đạt được hạnh phúc. Từ bi làm giảm bớt sợ hãi
trước những âu lo và tăng cường sức mạnh trong ta. Từ bi giúp ta cảm thấy có đủ
khả năng để hoàn thành một nhiệm vụ, đấy là một sự khích lệ.
Gần đây, ở Bodgaya[1], tôi ngã bệnh
vì bị nhiễm trùng dai dẵng ở ruột. Trên đường vào bệnh viện, tôi đau bụng rất
nhiều, mồ hôi đầm đìa. Chiếc xe đưa tôi vào bệnh viện đi ngang nơi gọi là «Đỉnh
Kên Kên» [2] nơi Phật đã từng thuyết pháp, dân chúng ở đây là những nông dân
hết sức nghèo. Nói chung tiểu ban Bihar đã
nghèo, riêng nơi đây lại còn nghèo hơn nữa. Tôi chẳng thấy đứa trẻ con nào đến
trường. Chỉ toàn là cơ hàn và bệnh tật. Tôi vẫn còn nhớ một đứa bé bị polio hai
chân mang nạng bằng sắt đã hoen rĩ. Không ai để ý đến em. Tôi hết sức xúc động.
Chập sau, tôi lại thấy có một cụ già nằm trên đất, trước một quán nước trà,
trên người chỉ có một mảnh vải dơ bẩn, không một người nào dòm ngó đến cụ. Lúc
đến bệnh viện tôi cứ nghiền ngẫm về những hình ảnh đó, tôi biết rằng tôi được
chăm sóc thuốc men, trong khi những người đó chẳng có gì cả. Mặc dù đang đau
đớn, nhưng tôi chỉ nghĩ đến họ mà thôi. Thân thể tôi tuy ướt sũng mồ hôi, nhưng
sự quan tâm của tôi là nơi khác.
Cơn đau thật dữ dội (ruột tôi bị
lủng vì lở loét) làm tôi không ngủ được, nhưng tâm tôi không chút gì sợ hãi hay
bất an. Tình trạng của tôi biết đâu sẽ trầm trọng hơn nếu tôi tập trung suy
nghĩ vào sự đau đớn. Đó là một kinh nghiệm nhỏ về lòng từ bi có thể trợ lực làm
bớt đau đớn trên thân xác, và tránh khỏi lo âu, mặc dù những kẻ bất hạnh mà tôi
đang nghĩ tới chẳng được chăm sóc gì.
Lòng từ bi giúp ta sức mạnh, đem
đến can đảm, làm cho ta thư giản. Khi ta thấy được cái đau khổ của vô số chúng
sinh, sự đau khổ của chính ta nếu đem ra so sánh sẽ chẳng nghĩa lý gì.