Giáo dục
Nhân quả báo ứng hiện đời
Đường Tương Thanh biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính, Đạo Quang dịch
30/10/2554 07:41 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

LẠM SÁT BỊ UNG NHỌT

Vương Thiều là võ tướng đời Tống, xuất binh thảo phạt rợ Khương lần nào cũng thắng lợi, mở rộng bờ cõi hơn 1.800 dặm đất. Chiếm đất rồi, ông ra lệnh đốt phá và giết sạch người Khương trong vùng. Bất luận già trẻ, lớn bé, nam nữ... đều không thoát khỏi sự thảm sát, số người bị giết có đến hơn ngàn người.

Không lâu sau, bỗng nhiên lời nói, hành động của Vương Thiều trở nên bất thường; người ngây dại, thần trí điên cuồng, trước ngực lại mọc ra một nhọt độc càng ngày càng lớn, hôi thối, máu mủ rỉ ra liên tục, làm cho đau nhức thấu tâm can.

Nhọt độc ấy ăn sâu vào tận trong người, ngày đêm hành hạ Vương Thiều không lúc nào không đau đớn, nhức nhối. Do chịu không nổi sự hành hạ đau đớn ấy, Vương Thiều cuối cùng phải chết một cách thê thảm. Người thời ấy ai ai cũng đều cho rằng đó là quả báo xấu ác của việc Vương Thiều lạm sát những người dân vô tội.

(trích Lịch Sử Cảm Ứng Thống Ký)

HỒN MA ÁM ẢNH

Tại một quán trọ nhỏ ven đường, một vị sư già đã bước vào và đứng yên từ lâu nhưng chẳng ai để ý đến ông cả. Đó là một vị sư vóc người mảnh mai, khuôn mặt gầy gò, xương xẩu nhưng luôn nở nụ cười hiền hòa biểu lộ một tấm lòng từ bi, bác ái.

Cách đó không xa là một kiếm khách vừa từ ngoài bước vào, dáng người cao gầy, vẻ mặt khắc khổ, nghiêm nghị. Đó là vẻ khắc khổ của một kiếm khách đã hết thời, không còn đủ sức nuôi thân bằng võ nghệ nên đành mang kiếm phiêu bạt trong chốn giang hồ, rày đây mai đó.

Kiếm khách vừa bước vào quán liền đảo mắt nhìn quanh một lượt rồi cất tiếng sang sảng gọi người hầu bàn. Người hầu bàn chạy ra, đưa mắt lúng túng nhìn kiếm khách và nhà sư, không biết phải phục vụ người nào trước...

Nhà sư ôn tồn bảo người hầu bàn:

– Anh hãy dọn rượu thịt cho vị kiếm khách này trước. Ta nghĩ ông ấy chắc còn nhiều việc gấp.

Nghe vậy, chàng kiếm khách xua tay:

– Không, anh hãy dọn thức ăn cho nhà sư này trước. Chúng ta cần phải biết tôn kính những vị tu hành đạo cao đức trọng, còn kẻ giang hồ như ta đây đã quen lăn lộn, không cần biệt đãi.

Khi ấy, cả hai người liền quay sang chào nhau. Kiếm khách tự giới thiệu:

– Tôi tên là Ta Mã Sum. Nếu đại sư cho phép, chúng ta ngồi cùng bàn nhé!

Vị sư già vui vẻ gật đầu. Mã Sum liền bước đến ngồi xuống cùng bàn. Thức ăn dọn ra chỉ có cơm trắng, măng kho và ngó sen luộc. Qua câu chuyện trao đổi, họ mới biết cả hai đều đang trên đường đến Kyoto. Họ vui vẻ kết bạn cùng đi trên đoạn đường còn lại.

Sau bữa cơm, hai người đã trở nên thân thiết. Hành lý của mỗi người đều chẳng có gì nhiều. Mã Sum chỉ mang theo hai thanh kiếm, còn vị sư già thì vác trên vai một túi vải rất cũ kỹ, trông rất nghèo nàn. Họ cùng nhau lên đường, vừa đi vừa trò chuyện rất tương đắc.

Nhà sư kể về những chuyến đi hành đạo khắp đó đây, còn Mã Sum thì kể lại những chuyện từng trải trên bước đường giang hồ phiêu dạt của mình.

Con đường đi Kyoto thật nhộn nhịp. Hành khách ngược xuôi có đủ các hạng người. Có những khách hành hương viếng các đền chùa, lại có cả những người hát dạo, mãi võ, làm trò ảo thuật và rất nhiều hành khất đầu đội những chiếc nón thật lớn, che kín cả khuôn mặt.

Có các vị lãnh chúa, thượng quan ngự trong những chiếc kiệu rất kiêu xa, có quân lính theo hầu. Mỗi lần họ đi qua, dân chúng phải dừng lại kính cẩn cúi mình để bày tỏ sự chào mừng. Nếu có hai vị lãnh chúa cùng đi trên một đường thì vị nào có chức phận cao hơn sẽ được nhường đi trước.

Người ta còn thấy cả những văn nhân, thi sĩ đi ngắm cảnh tìm vần thơ, hoặc những họa sĩ đang say mê ghi lại phong cảnh thiên nhiên hữu tình trên nền lụa.

Ta Mã Sum kể cho nhà sư nghe về dĩ vãng của mình, đã theo học những ai để trở thành kiếm sĩ, đã từng chiến đấu bao nhiêu trận và giết bao nhiêu người. Vị sư già im lặng lắng nghe không chê trách gì, dù ông không tán thành những sự giết chóc như thế. Ông nghĩ, không thể đòi hỏi tất cả người đời đều mẫu mực, đạo đức, suốt đời không làm hại ai, không giết ai, không gây buồn rầu, đau đớn cho ai... Ta Mã Sum là một kiếm khách, bổn phận nghề nghiệp của anh ta là phải đánh nhau, phải giết chóc... Ông không thể chỉ trích anh ta vì những hành động đó, vì xét cho cùng đó cũng do nơi nghiệp duyên hình thành từ nhiều đời trước.

Mặc dù vậy, vị sư cũng không bỏ qua cơ hội dùng lời khéo léo để chia sẻ với chàng kiếm khách những gì ông hiểu biết về nhân quả, về viễn cảnh thọ sinh của mỗi người sau khi chết tùy theo nghiệp nhân đã gây ra trong đời này... Ông nhấn mạnh, bất cứ ai cũng có thể trở nên người tốt nếu chịu đi theo con đường hướng thiện, bởi bản chất mỗi người đều là hiền thiện trước khi chịu sự sai sử của những tâm niệm tham lam, sân hận và si mê.

Vị sư già cũng kể cho kiếm khách Ta Mã Sum nghe nhiều câu chuyện tích Phật giáo rất thú vị, chẳng hạn như chuyện một vị hoàng tử Ấn Độ bị bà hoàng hậu độc ác móc mắt nhưng vẫn từ bi tha thứ, vì chàng biết rất rõ rằng chỉ có tình thương mới xóa bỏ được hận thù...

Sau mấy ngày làm bạn đồng hành, họ đã trở nên vô cùng thân thiết, không giấu nhau bất cứ chuyện gì. Một hôm, nhà sư chỉ vào cái túi vải đang đeo trên vai và hỏi Ta Mã Sum:

– Ông bạn có biết trong cái túi vải này đựng những gì không?

Ta Mã Sum lắc đầu:

– Không biết! Nhưng tôi có thể đoán là chẳng có gì quý giá cả.

Nhà sư cười nói:

– Ông bạn lầm rồi, thật ra trong này là những thứ quý giá lắm.

– Chắc là một tượng Phật.

– Không, nhưng cũng gần đúng như vậy.

– Hay là một cuốn kinh quý ghi chép những lời dạy vàng ngọc của đức Như Lai?

– Không phải.

Ta Mã Sum chịu thua, không đoán được.

Nhà sư thong thả nói:

– Trong cái túi vải cũ kỹ này là 200 nén bạc.

Ta Mã Sum cười lớn:

– Đại sư không đùa tôi đó chứ! Nếu ngài có được số tiền lớn như vậy thì việc gì phải đi lang thang khất thực? Nếu quả thật trong túi này đựng 200 nén bạc thì ngài thừa sức ăn mặc áo đẹp, vào quán trọ sang trọng, mời tôi uống rượu quý... lẽ đâu lại chịu vào cái quán tồi tàn nơi chúng ta gặp nhau?

Gương mặt nhà sư sáng lên, hớn hở:

– Không, bần tăng không nói đùa đâu. Bần tăng mang theo hai trăm nén bạc nhưng không phải để tiêu dùng cho mình. Ông bạn muốn biết để làm gì phải không? Số là trong một chuyến hành hương chiêm bái Phật tích, tôi đã phát nguyện trong đời này nhất định sẽ đúc một tượng Phật bằng đồng thật đẹp để cúng dường Tam bảo. Từ nhiều năm qua, tôi đã đi khắp nước Nhật để quyên góp từng đồng xu lẻ, tích lũy thành 200 nén bạc đựng trong cái túi vải này. Lần này tôi đến Kyoto là để tìm những người thợ giỏi nhất giúp tôi thực hiện tâm nguyện này. Tôi hy vọng số bạc này sẽ đủ để đúc được một tượng Phật bằng đồng.

Đôi mắt nhà sư rực sáng lên khi nghĩ đến lúc thực hiện được tâm nguyện của mình. Hình như ông đang hình dung pho tượng Phật bằng đồng uy nghiêm và đẹp đẽ đang hiện lên, là kết quả của bao nhiêu năm ông vất vả lạc quyên khắp chốn. Ông say sưa nói tiếp:

– Đức Phật sẽ ngự trên tòa sen trong tư thế ngồi kiết già, trên trán Ngài có dấu chấm hiện toàn trí, toàn năng và nụ cười của Ngài là một nụ cười từ bi vô lượng... Đó, ông bạn đã biết vì sao tôi giữ gìn rất cẩn thận cái túi vải này.

Nhà sư lại cười và nói đùa:

– Người ta nói rằng ai mang theo vàng bạc là mang theo một mối nguy hiểm, nhưng với một người anh hùng cao thượng như ông bạn, tôi không thấy có gì phải lo ngại cả.

Ta Mã Sum nghiêng đầu một cách cung kính, tỏ lòng cảm tạ ý nghĩ tốt của nhà sư về mình, nhưng trong lòng anh ta đã bắt đầu ngổn ngang trăm mối. Vầng trán anh ta nhăn lại, cử chỉ có phần mất tự nhiên. Anh ta tự nghĩ:

– Suốt đời ta ngang dọc chiến đấu, vào sinh ra tử nhưng chưa từng có được chỉ một phần mười số bạc mà lão già đang giữ. Ta đang đói rách khốn khổ, trong khi lão có đến 200 nén bạc mà chỉ nghĩ đến việc đúc tượng Phật, không tiêu dùng đến dù chỉ một xu lẻ!

Nghĩ đến đây, anh ta chợt thở dài. “Than ôi! Ta đã già thật rồi! Một kiếm khách vào độ tuổi 40 như ta thì còn làm gì được nữa? Chẳng còn ai thu dụng ta. Ta sẽ phải sống cuộc sống lang thang vô định này cho đến hết cuộc đời mình mà chẳng bao giờ có được một ngôi nhà ấm cúng.”

Rồi anh ta lại nghĩ: “Nếu có được 200 nén bạc, chắc chắn ta sẽ được sống một cuộc đời sung sướng, không còn phải lang thang trôi dạt khắp đó đây... Hừ! Thế mà lão già này lại chỉ nghĩ đến việc dùng số bạc lớn lao đó vào việc đúc một cái tượng Phật vô tri vô giác...”

Lòng tham và lý trí bắt đầu xung đột lẫn nhau, giày vò tâm trí Ta Mã Sum. Đôi lúc anh ta cầu mong cho vị sư già để quên đâu đó cái túi bạc và anh ta sẽ chiếm lấy rồi trốn đi. Nhưng làm gì có thể có chuyện đó? Lão ta lúc nào cũng không rời cái túi, khi ăn khi ngủ đều giữ bên mình. Một ý nghĩ táo bạo chợt đến với anh ta. Anh ta lắc đầu, cố xua tan đi ý nghĩ đen tối đó. Nhưng rồi nó lại trở về, và dường như càng lúc càng ám ảnh anh ta nhiều hơn.

Dần dần, lòng tham đã che mờ lý trí của anh ta. Giờ đây trong đầu anh ta luôn suy nghĩ cách làm sao để đoạt cho được số bạc của vị sư già. Nhưng vị sư già chẳng hề nhận ra sự thay đổi của Ta Mã Sum. Ông vẫn luôn tin tưởng vào người bạn đồng hành.

Khi đi đến một thị trấn, con đường bị cắt ngang bởi một dòng sông, mọi người phải đi thuyền sang bờ bên kia. Người lái thuyền chờ cho đủ khách mới cho thuyền rời bờ. Lúc bước xuống thuyền, vị sư già loạng choạng thế nào suýt ngã xuống nước. Vừa thấy vậy, trong lòng Ta Mã Sum lập tức nghĩ ra ngay một gian kế. Hắn đưa nhà sư đến ngồi sau lái ở một chỗ vắng người, gói bạc để ở giữa. Đợi một lúc thuận tiện không ai để ý, hắn vờ trỏ cho nhà sư một con cá đang nhảy lên khỏi mặt nước. Đợi nhà sư vừa nghiêng mình quay sang nhìn, Ta Mã Sum thẳng tay xô mạnh. Nhà sư bất ngờ không chút phòng bị, té nhào ngay xuống sông. Đợi cho thuyền chạy được một quãng xa, tên sát nhân mới giả vờ la lớn:

– Trời ơi! Bạn tôi ngã xuống sông rồi, ngừng lại mau! Ngừng lại mau!

Gió lúc đó đang thổi mạnh, cánh buồm căng và con thuyền lướt đi vùn vụt. Khi người lái thuyền cố sức neo con thuyền lại được thì không còn thấy dấu vết nhà sư đâu nữa cả.

Ta Mã Sum gào lên, nước mắt hắn giàn giụa:

– Nhà sư đó là người bạn thân thiết nhất của tôi. Trời ơi, bây giờ ông chết rồi, bỏ lại tôi một mình, khổ sở thân tôi!

Mọi người trên thuyền thấy vậy đều xúc động. Ta Mã Sum lau nước mắt đoạn nói với mọi người:

– Chúng ta phải báo việc này lên quan địa phương, nhưng tôi nghĩ làm thế sẽ mất nhiều thời gian khai báo, phiền cho quý vị chậm trễ công việc. Tôi cũng vậy, tôi cũng có việc gấp cần đi ngay. Vả lại, nếu khai báo còn sợ liên lụy đến bác lái thuyền, không khéo bị nghi oan tội nghệp. Chi bằng ta cứ tiếp tục cuộc hành trình, khi đến Kyoto tôi sẽ tự đứng ra khai báo việc này, khỏi phiền đến quý vị.

Mọi người, kể cả bác lái thuyền, đều thấy là có lý. Hơn nữa ai cũng sợ phiền phức, liên lụy nên đồng ý giữ kín chuyện này và cứ tiếp tục cuộc hành trình.

Khi thuyền cập bến, Ta Mã Sum cầm túi bạc nhảy phóc ngay lên bờ. Trong thoáng chốc đã không còn ai thấy hắn đâu nữa cả!

Tối hôm đó, trong một căn phòng riêng tại quán trọ, hắn run run mở túi bạc ra xem. Hắn thật sự lóa mắt khi đếm được đúng 200 nén bạc nằm trong chiếc túi vải cũ kĩ, rách rưới!

Bây giờ số bạc đã thuộc về hắn. Hắn bắt đầu vạch ra trong đầu kế hoạch sử dụng số bạc đó như thế nào để ngày càng có thể sinh thêm nhiều lợi nhuận hơn nữa. Từ đây hắn sẽ không còn phải sống trong cảnh nghèo túng nữa!

Tại Kyoto, hắn thay tên đổi họ, cũng không còn làm kiếm khách nữa mà trở thành một thương gia giàu có chuyên kinh doanh lúa gạo. Mọi người ở đây chỉ biết hắn dưới cái tên mới là Tô Cự Bi.

Hai thanh kiếm năm xưa được hắn bọc vào một túi gấm và cất kỹ dưới đáy một chiếc hòm. Hắn không muốn bất cứ ai biết được quá khứ trước đây của hắn. Bây giờ, công việc hằng ngày của hắn là giao dịch buôn bán.

Việc làm ăn của Tô Cự Bi ngày càng phát đạt. Hắn cưới vợ, sinh con. Hắn thành đạt và trở nên giàu có ngoài sức tưởng tượng. Tuy nhiên, điều rất lạ là hắn chưa bao giờ có được một giây phút nào thực sự an ổn để tận hưởng những gì đã có trong tay. Hắn không hề cảm thấy thỏa mãn với cuộc sống vật chất sung túc mà trước đây hắn từng mơ ước. Thay vì vậy, lúc nào hắn cũng sống trong sự cắn rứt của lương tâm, luôn cảm thấy hối tiếc, ân hận về việc đã làm. Hắn biết rõ cái sự nghiệp đồ sộ của hắn hôm nay là do tội ác mà có. Hắn luôn tự nghĩ, nếu năm xưa hắn có thể dằn lòng và suy nghĩ chín chắn hơn, chắc chắn hắn đã không phạm vào tội ác tày trời đó. Hắn nhớ lại, cuộc sống lang thang khốn khó tuy lúc nào cũng phải chịu đựng sự thiếu thốn đói khổ nhưng vẫn có không ít những phút giây hạnh phúc thanh thản, nhất là khi hắn được ngắm nhìn cảnh đẹp thiên nhiên trên con đường thiên lý với một tâm hồn trong sạch không gợn chút bợn dơ. Còn bây giờ, tuy sống trong sự giàu sang sung sướng nhưng lúc nào hắn cũng phải chịu sự giằn vặt của mặc cảm tội lỗi và một nỗi ám ảnh không ngừng.

Để cố quên đi câu chuyện xấu xa ngày cũ và những nỗi ám ảnh đáng sợ, hắn phải lao đầu vào công việc làm ăn, mong rằng những bận rộn hằng ngày sẽ xua tan đi những ý nghĩ giày vò trong tâm trí hắn.

Thời gian thấm thoát trôi qua, đã đến lúc Tô Cự Bi cảm thấy cần phải nghỉ ngơi sau những tháng ngày lăn lộn trong công việc kinh doanh. Hắn mua một biệt thự xinh đẹp, có một vườn hoa anh đào rộng lớn bao quanh và có cả những cây tùng xanh thẫm xen trong đó.

Nhưng rồi Tô Cự Bi cũng không thể an hưởng tuổi già như dự định. Rời khỏi công việc kinh doanh, mặc cảm tội lỗi như càng lớn lên nhiều hơn trong lòng hắn. Mỗi khi nhìn thấy những đồ vật quý giá trong nhà hay dạo chơi trong khu vườn xinh đẹp hắn đều không khỏi khởi lên ý nghĩ rằng tất cả những thứ đó đều có được từ việc phạm vào tội ác ngày xưa của hắn. Rồi hắn ngày càng nghĩ nhiều hơn đến vị sư già đã bị hắn hại chết. Hình dáng của ông như sống lại trong lòng hắn với dáng người mảnh mai, khuôn mặt gầy gò nhưng ánh mắt và nụ cười luôn biểu lộ rõ một tấm lòng từ bi độ lượng. Hắn càng hối hận hơn nữa khi nghĩ đến việc làm tàn nhẫn của mình. Nhà sư càng từ bi, đức độ bao nhiêu thì hắn càng độc ác, xấu xa, đáng khinh bỉ bấy nhiêu!

Rồi một đêm trăng sáng, Tô Cự Bi nằm trằn trọc mãi không ngủ được với những ý nghĩ dằn vặt ngổn ngang trong lòng. Hắn vùng dậy bước ra đi dạo một lát trong vườn hoa cho khuây khỏa. Bỗng nhiên hắn dừng lại, dán mắt vào một cây tùng. Thật kinh ngạc làm sao, hình như có một bóng người mờ ảo đang hiện ra từ thân và cành của cây tùng. Thân cây tùng là thân người, cành cây là tay chân! Hình ảnh đó ban đầu mờ mờ ảo ảo, nhưng càng lúc càng hiện rõ hơn. Rõ ràng đó là một hình người với vóc dáng mảnh mai, gầy gò và cái đầu trọc lóc, hai hố mắt sâu đen ngòm, má hóp, da tái nhợt như một người chết trôi sông. Không còn nghi ngờ gì nữa, hắn đã nhận ra người đó là ai rồi. Hắn hét lên một tiếng kinh hoàng và đứng sững người ra, không còn cử động gì được nữa.

Mồ hôi hắn vã ra như tắm. Sau một lúc lâu, hắn mới hoàn hồn được đôi chút, hốt hoảng kêu thét lên:

– Là ông đó sao!

Hình bóng nhà sư hiện ra mờ ảo dưới ánh trăng, từ từ đi về phía Tô Cự Bi, càng lúc càng gần hơn khiến cho hắn vô cùng hoảng sợ, đứng chôn chân một chỗ như trời trồng, không còn đủ sức để chạy trốn.

Nhưng rồi một lát sau, bản năng sinh tồn trong hắn chợt trỗi dậy. Hắn hét lên một tiếng lớn rồi vùng quay người bỏ chạy thục mạng vào nhà, bên tai vẫn nghe văng vẳng như có tiếng chân người đuổi theo dồn dập...

Chạy vào nhà rồi, hắn đóng sầm cửa lại, lao nhanh vào phòng và nhảy lên giường kéo chăn trùm kín cả người. Nhưng sau khi nằm yên trên giường một lúc, cơn sợ hãi lắng xuống và dòng máu ngang tàng của một kiếm khách trước đây bỗng trỗi dậy trong hắn. Hắn tung chăn bước xuống giường, mở khóa chiếc hòm gỗ đã từ lâu cất giữ hai thanh kiếm ngày xưa.

Nắm chặt hai thanh kiếm trong tay rồi, hắn cảm thấy can đảm hơn nhiều. Hắn thầm nghĩ: “Nếu đúng là oan hồn lão ấy đã về đây thì ta cũng không thể trốn chạy đâu cho khỏi. Chi bằng đối mặt đánh đuổi lão đi thì mới có thể sống yên được.”

Nghĩ vậy, hắn liền mở cửa mang kiếm đi thẳng ra vườn. Đến khoảng đất trống khi nãy vừa nhìn thấy hồn ma, hắn dừng lại đảo mắt nhìn quanh.

Không phải đợi lâu, hắn đã bắt đầu nhìn thấy ngay một bóng đen mờ ảo ngay phía sau một cây tùng... Không, bóng đen ấy chính là cây tùng, nhưng đang từ từ chuyển dần sang thành hình người... Vẫn là cái hình dáng quen thuộc mà đã bao năm qua hắn không một phút nào quên đi được. Chính là vị sư già đã bị hắn đẩy xuống dòng nước sông ngày trước.

Trước hình ảnh khiếp đảm đó, dầu là một kiếm khách gan dạ cũng không khỏi rùng mình khiếp hãi. Nhưng vì nghĩ đến mối nguy hiểm có thể sẽ theo đuổi mình không sao tránh được nên Tô Cự Bi cố xua đuổi nỗi sợ hãi, nắm chặt chuôi kiếm và đứng vững lại thay vì bỏ chạy.

Trong chốc lát, hắn lấy lại tinh thần của một kiếm khách xông ra trận và lao vút tới, vung kiếm chém loạn xạ vào bóng ma của vị sư già... Những nhát kiếm chính xác và mạnh mẽ, nhưng lạ thay chỉ như chạm vào sương khói, làm cho bóng ma ấy cứ tan ra rồi tụ lại, cuối cùng vẫn cứ quanh quẩn bên gốc cây tùng như không có gì xảy ra cả. Sốt ruột, Tô Cự Bi dùng hết sức lao đến định vung kiếm chém mạnh một nhát, nhưng hắn chưa kịp vung tay lên thì cả thân hình hắn đã đâm sầm vào gốc cây tùng. Hắn dội ngược trở ra và đổ gục xuống mặt đất như một xác chết...

Sáng hôm sau, người làm vườn tìm thấy Tô Cự Bi nằm bất động gần gốc cây tùng, hai thanh kiếm vẫn còn nắm chặt trong tay. Ông ta hốt hoảng vội gọi người đến đưa chủ nhân vào nhà, mời thầy thuốc đến chăm sóc. Tô Cự Bi nằm liệt giường suốt mấy ngày sau đó...

Khi đã tạm bình phục, việc đầu tiên hắn nghĩ đến là lập tức ra lệnh đốn ngã cây tùng nơi xuất hiện bóng ma. Rồi đêm hôm ấy, hắn không sao cưỡng lại được ý nghĩ phải kiểm tra lại xem hồn ma của nhà sư đã bị xua đuổi đi nơi khác hay chưa. Hắn nấp sau một khóm hoa rậm gần nhà và dõi mắt về phía cây tùng đã bị đốn hạ. Nhưng thật quái lạ thay, rõ ràng hắn nhìn thấy bóng ma hôm trước lại hiện ra từ một cây tùng khác... Hắn thét lên một tiếng kinh hoàng rồi ù té chạy bay vào nhà, phóng ngay lên giường ngủ và trùm chăn kín mít suốt đêm hôm đó.

Hôm sau, Tô Cự Bi cho người mua về thật nhiều đèn lồng và treo khắp nơi trong vườn. Đêm đến, hắn thắp đèn gần như sáng rực cả khu vườn. Hắn nghĩ là như vậy thì hồn ma sẽ không còn có thể hiện ra được nữa. Mặc dù vậy, hắn vẫn ở lì trong nhà mỗi khi đêm xuống chứ không dám đi ra vườn nữa. Dù vậy, thỉnh thoảng hắn như vẫn nhìn thấy qua khung cửa sổ dáng dấp của nhà sư già khắc khổ như đang rình rập hắn từ đâu đó...

Từ đó hắn đâm ra sợ sệt đêm tối và rất thường giật mình hốt hoảng vì những chuyện rất nhỏ nhặt. Cuối cùng thì hắn đóng chặt cửa phòng và giam mình trong nhà suốt ngày, không dám đi ra ngoài ngay cả lúc ban ngày. Nhưng lạ thay, mỗi khi đêm xuống hắn như vẫn nhìn thấy bóng dáng nhà sư hiện ra trong nhà, khi thì từ ngoài cửa phòng bước vào, có lúc lại đứng ngay nơi đầu giường của hắn, hoặc có lúc lại từ bên ngoài cửa sổ đã đóng kín mà thò đầu vào bên trong rồi nhìn hắn mỉm cười...

Tô Cự Bi phát bệnh nặng, suốt ngày vùi đầu trong chăn, miệng luôn nói sảng. Vợ hắn mời tất cả các lương y nổi tiếng trong vùng để nhờ chữa trị nhưng bệnh tình của Tô Cự Bi vẫn không mảy may thuyên giảm. Tin đồn về việc đại phú thương Tô Cự Bi bị ma ám sinh bệnh nặng được loan truyền đi khắp vùng, ai nghe cũng lấy làm kỳ lạ.

Rồi một hôm, người vợ của Tô Cự Bi được nghe nói rằng có vị sư đạo cao đức trọng hiện đang ở gần Kyoto, trong một ngôi chùa nhỏ. Ngài thường giúp đỡ tất cả những ai gặp khó khăn. Bà nghĩ: “Bệnh của chồng mình vốn có liên quan đến tà ma ám ảnh, sao mình không thử đến nhờ đại sư giúp đỡ xua đuổi hồn ma này đi?”

Nghĩ là làm, bà lập tức sắm sửa lễ vật tìm đến ngôi chùa ấy dâng hương lễ Phật và đồng thời thưa rõ mọi việc với đại sư.

Sau khi hỏi rõ mọi việc, nhà sư ấy suy nghĩ một lát rồi nói:

– Bệnh ấy không thể dùng thuốc mà trị được, ắt là do nghiệp duyên xấu trước đây gây ra. Vậy phải thành tâm lễ bái chư Phật, phát nguyện làm lành lánh dữ, sám hối những việc xấu ác trước đây thì may ra sẽ được thuyên giảm.

Người vợ Tô Cự Bi ghi nhớ lời dạy của đại sư, khi về nhà liền thuật lại cho chồng nghe. Tô Cự Bi vừa nghe xong thì mồ hôi toát ra như tắm, run rẩy nói: “Thánh tăng, thánh tăng! Quả thật ông ấy là thánh tăng, có thể biết được những việc ta đã làm trước kia.”

Ông ta liền hối thúc bà vợ ngay lập tức lên chùa thỉnh đại sư đến nhà cho ông gặp mặt, dự tính nói rõ và sám hối mọi tội lỗi với ngài và nhất định sẽ nghe theo lời dạy của ngài để hóa giải nghiệp chướng.

Vị sư nhận lời thỉnh mời của người vợ Tô Cự Bi, lập tức theo bà về nhà. Vì Tô Cự Bi vẫn đang nằm liệt trên giường, người vợ liền đưa nhà sư đi thẳng vào phòng của Tô Cự Bi.

Vừa nhìn thấy thấy nhà sư, Tô Cự Bi bỗng hét lên một tiếng kinh hãi. Hắn chỉ tay vào nhà sư và la lên, giọng lắp bắp:

– Có ma... có ma... mau gọi người đến giúp đuổi đi. Có ma... có ma...

Rồi ông ta kéo chăn trùm kín cả đầu, toàn thân run lên bần bật biểu lộ một sự khiếp sợ vô cùng. Người vợ kinh hoảng trước sự việc đó, đưa mắt nhìn vị sư già cầu cứu vì bà thật sự không biết phải làm thế nào.

Vị sư già nhoẻn miệng cười thật hiền hòa rồi nói với bà:

– Không sao đâu, mọi việc rồi sẽ ổn ngay thôi mà.

Và ông bước đến đứng ngay cạnh bên giường nằm của Tô Cự Bi, cất giọng trầm ấm:

– Thôi nào, Ta Mã Sum! Anh hãy kéo chăn ra và nhìn kỹ lại xem. Là tôi đây chứ nào có ma quỷ gì đâu!

Giọng nói của nhà sư như có một phép lạ thần kỳ. Người bệnh từ từ hé tấm chăn ra và giương mắt trừng trừng nhìn vị sư già như một vật lạ xưa nay chưa từng thấy. Rồi ông ta lắp bắp:

– Là... ông... đó sao! Đúng... đúng là ông... rồi! Làm sao lại có thể... là... ông được chứ. Có phải tôi đang mơ... hay tôi đã chết rồi...

Nhà sư bật cười:

– Anh chưa chết đâu và cũng không mơ màng gì cả. Đây là sự thật, chính là tôi đây, người bạn đường ngày xưa của anh đây mà.

Tô Cự Bi – không, có lẽ phải gọi anh ta là Ta Mã Sum, vì dưới mắt nhà sư khi ấy anh ta vẫn là chàng kiếm khách lang bạt năm xưa – đã qua cơn kinh hoàng và bắt đầu lấy lại bình tĩnh. Anh ta thu hết sức lực để gượng ngồi dậy nhìn nhà sư cho được rõ ràng hơn. Rồi anh ta thở ra một hơi dài và nói:

– Quả thật là ông rồi! Đội ơn trời Phật, ông vẫn chưa chết. Bao năm qua tôi chưa một lúc nào có thể tự tha thứ cho mình về sự việc xấu xa ngày ấy.

Nhà sư chớp chớp mắt cảm động và nói:

– Tôi biết, tôi biết... Tôi vẫn tin tưởng rằng anh không phải người xấu. Chỉ là trong một phút giây không tự chế được mình đó thôi. Nào, bây giờ thì mọi việc đã ổn cả rồi, anh không cần phải tự trách mình thêm nữa.

Ông bước tới thân mật ngồi xuống giường và đưa tay nắm lấy bàn tay gầy gò của Ta Mã Sum:

– Tôi từ nhỏ vốn đã học bơi lội rất giỏi nên hôm ấy đã có đủ sức để bơi vào bờ. Tuy nhiên, anh cũng thật ác, báo hại tôi phải đói và lạnh suốt một đêm hôm đó.

Ta Mã Sum lại thở dài não nuột. Hắn thì thào như chỉ nói với chính mình:

– Tôi sai rồi, tôi sai rồi... Lẽ ra tôi không nên hành động xấu xa như thế.

Nhà sư cười to như để phá tan đi nét sầu thảm và hối hận đang bao phủ trên gương mặt người kiếm khách già:

– Không sao, không sao! Chỉ sáng hôm sau đó tôi đã gặp được một nhà nông dân tốt bụng. Họ đãi tôi một bữa no nê và còn tặng cho tôi cả một bộ quần áo mới nữa... Chỉ có điều là tôi lại phải bắt đầu mọi việc từ đầu vì tiền đúc tượng Phật không còn nữa...

Ta Mã Sum nói với tất cả sự thành khẩn:

– Bạch sư phụ! Tôi thật sự ân hận về việc đó. Nếu cho tôi một cơ hội khác, chắc chắn tôi sẽ không bao giờ làm như thế.

Nhà sư nhoẻn miệng cười:

– Tôi cũng tin là như thế. Thật ra thì những năm qua tôi cũng chưa từng có ý nghĩ oán hận gì anh. Tôi chỉ tự trách mình chưa đủ phước đức để hoàn tất việc đúc tượng Phật theo đúng như dự tính. Vì thế, tôi vừa tiếp tục đi quyên góp vừa nỗ lực tu tỉnh bản thân, hy vọng nhờ đó mới có thể thành tựu được tâm nguyện.

Ta Mã Sum ngần ngừ một lát rồi mới hỏi:

– Thế bây giờ sư phụ đã quyên góp đủ số tiền ấy chưa?

Nhà sư cười vui vẻ:

– Đủ rồi, đủ rồi... Tôi cũng đã đúc xong tượng Phật rồi. Hy vọng sẽ có dịp mời anh đến chùa chiêm ngưỡng.

Ta Mã Sum lúng túng:

– Tôi... tôi... tôi muốn trả lại số bạc ngày trước, ồ không, tôi muốn trả lại gấp đôi số bạc ấy... mong sư phụ nhận cho.

Nhà sư bật cười khanh khách:

– Anh lại đùa tôi nữa rồi! Một nhà sư như tôi thì nhận tiền làm gì kia chứ? Tượng Phật cũng đã đúc xong rồi, giờ tôi chỉ có mỗi một việc là lo tu tập mà thôi. Anh không cần phải nhắc lại chuyện đó nữa.

Ta Mã Sum lại thở dài:

– Bạch sư phụ! Trong suốt mấy năm qua con rất ân hận về việc này, không biết phải làm như thế nào để chuộc lại lỗi lầm đã qua. Nay được gặp lại sư phụ còn sống, lòng con cũng thấy nhẹ bớt đi phần nào, nhưng con vẫn cảm thấy không thể nào tự tha thứ cho mình về hành vi xấu xa đó. Xin sư phụ hãy nhận lại số bạc và dùng nó để giúp đỡ những người khốn khó, may ra nhờ đó mà con sẽ cảm thấy thanh thản phần nào.

Nhà sư bỗng nghiêm giọng nói:

– Thôi được, xem như tôi giúp anh việc này vì tình bạn cũ của chúng ta. Tuy nhiên, qua bài học này thì anh phải ghi nhớ rằng: Khi ta làm một việc xấu thì cho dù không ai biết đến nhưng chính lương tâm ta sẽ không tự tha thứ cho mình, vì thế mà ta sẽ chẳng bao giờ được yên ổn cả.

Ta Mã Sum cúi đầu xuống, nói nhỏ như chỉ để chính mình nghe:

– Vâng, đúng vậy... đúng là như vậy.

Hôm đó, nhà sư ở lại ngôi biệt thự và cả hai người cùng thức đến tận khuya. Họ lại trao đổi chuyện trò như ngày nào khi cùng đi trên con đường đến Kyoto. Khi chia tay và đưa nhà sư vào phòng nghỉ, Ta Mã Sum cảm thấy như nhẹ hẳn cả người. Đêm đó, anh ta ngủ một giấc say ngon như chưa từng được ngủ!

Hôm sau, nhà sư từ biệt trở về chùa. Mấy hôm sau, Ta Mã Sum vừa hồi phục sức khỏe đã lập tức đích thân mang 400 nén bạc đến chùa để giao cho nhà sư lo việc cứu tế. Anh ta còn nói rất thành khẩn:

– Từ nay con phát nguyện ăn chay, làm lành lánh dữ. Nếu thấy có việc gì con có thể làm được, mong sư phụ từ bi chỉ dạy.

Chỉ mấy hôm sau đó, người dân khắp một vùng rộng lớn quanh Kyoto đều biết chuyện nhà cự phú Tô Cự Bi được một vị sư già chữa lành bệnh. Không những thế, từ đó về sau ông còn trở nên một người nhân đức, luôn sẵn sàng ra tay cứu giúp mọi người.

(Trích Truyện cổ Phật giáo Nhật Bản)


Các tin đã đăng: