Phần 1
ANURUDDHA
ANURUDDHA
(A Nậu Lâu Ðà): Một cái "Tên" tuy ít được "giới thiệu" trong
các kinh sách Phật giáo, nhưng là một cái "Tên" rất đáng cho các hàng
Phật tử, ở thời đại Khoa học không gian "tìm hiểu"! Lý do chỉ vì cái
"Tên" ấy ám chỉ một nhà "Thiên văn huyền bí", một Thiền giả
chuyên phát triển "Thần lực", để có thể nghe, thấy và biết được nhiều
thế giới vô hình lẫn hữu hình khác nhau, trong cái vũ trụ vô biên, cực kỳ phức tạp
này.
Hai danh từ "Thiên Nhãn Thông"
(thấy xa vạn dặm) và "Thiên Nhĩ Thông" ( nghe xa vạn dặm) trong ngôn
ngữ "siêu hình", cho đến nay vẫn còn là một vấn đề "huyền
bí"! Nhưng Thánh nhân A Nậu Lâu Ðà đã "rõ" được sự huyền bí đó, cách
nay hơn hai mươi lăm thế kỷ, nhờ thuần thục Cực Ðịnh trong Thiền pháp Phật giáo!
Muốn biết sử tích của vị Ðại
Thinh Văn, đệ tử Phật, đã luyện thành "thần lực độc đáo" ấy ra sao,
mời quí vị hãy đọc qua những trang sách này.
Dịch giả
[I]
THỜI NIÊN THIẾU VÀ DUYÊN LÀNH XUẤT GIA
Phụ thân
của đức Phật, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) có một em trai là hoàng tử Amitodana.
Vị ngự đệ này sinh năm con và nuôi dưỡng hai cháu là:
1/ Mahànàma, nối dòng thừa
truyền vương tộc Thích Ca (Sakya).
2/ Anuruddha (A Nậu Lâu Ðà), một
Hoàng tử đẹp trai, mảnh khảnh, về sau tu đắc "Thiên Nhãn Thông" cao
nhất.
3/ Ànanda (A Nan Ðà) cũng xuất
gia, rồi làm thị giả đức Phật.
4/ Pandu, Hoàng tử nhút nhát, ít
người biết tên.
5/ Rohini, Công chúa bất hạnh,
bị "phong lở" nên thường ẩn mặt.
6/ Bhagu, Hoàng tử trầm lặng,
làm việc gì cũng kiên nhẫn.
7/ Kimbila, Hoàng tử khoẻ mạnh
và vui tính.
(Hai Hoàng tử sau cùng là cháu).
Nhưng đặc biệt trong "Tôn
Túc Kệ Ngôn" câu số 911 (Theragàthà 11), tác giả là Anuruddha (A Nậu Lâu
Ðà) đã tự mình diễn tả tóm tắt thời niên thiếu như sau:
"Tôi sinh ra trong hoàng cung ánh sáng,
Vương tộc Thích Ca, dòng họ của tôi.
Anuruddha là tên, cuộc sống vui cười,
Giữa nhung lụa và nhạc đời hầu hạ...".
(N. Ð.
thoát dịch ra văn vần).
Từ đó, chúng ta có thể mô tả
rằng thuở thanh xuân, A Nậu Lâu Ðà đã hưởng trọn một cảnh sống cao sang quyền
quí, vây quanh bởi các lạc thú hấp dẫn nhất trần gian, trong kinh đô Ca Tỳ La
Vệ (Kapilavatthu) đầy phong cảnh hữu tình nằm gần chân Hy Mã Lạp Sơn
(Himalaya), một ngọn núi hùng vĩ nhất thế giới.
Cuộc vui hằng ngày của Hoàng tử
Anuruddha (A Nậu Lâu Ðà) đã làm cho ông quên mất khái niệm thời gian, không
thấy rõ sự chóng tàn của các lạc thú nhục dục. Những bản nhạc du dương, và
những niềm tin thần bí về sự vững chắc của giai cấp vua chúa (theo văn minh Bà
la môn giáo) cũng làm cho ông chẳng bao giờ nghĩ đến ý nghĩa cùng mục đích của
kiếp sống làm người. Hoàng tử Anuruddha chỉ biết say sưa với gái đẹp, nhạc hay,
rượu ngon, ăn sung mặc sướng, rồi nhìn cuộc đời như một thiên đường!
Nhưng cũng chính vào lúc Anuruddha
(A Nậu Lâu Ðà) đang say đắm trong Ngũ trần khoái cảm đó, thì một "biến
cố" đã làm cho đời sống hạnh kiểm của ông hoàn toàn chuyển hướng.
Số là người anh Anuruddha, Hoàng
tử Mahànàma một hôm nghĩ rằng: "Nhiều hoàng thân trong gia đình
"Vương Bá" (ám chỉ vua Tịnh Phạn: Suddhodana) đã theo chân đức Phật
xuất gia. Trong khi đó, chưa có một người nào thuộc gia đình ông (tức giòng ngự
đệ Amitodana) góp mặt trong đời sống cao thượng Tăng Già. Nhất là ngoài ông ra,
gia đình còn đến bốn Hoàng tử thông minh khỏe mạnh".
Mahànàma tự xét mình thì cảm
thấy chưa đủ tịnh duyên để trở thành một Sa-môn gương mẫu cho cả năm anh em,
nên sau cùng ông đến bày tỏ ý nghĩ ấy với Anuruddha. Qua một hồi "tâm
sự" Mahànàma đã kết luận với em rằng:
- Này Anuruddha, giữa thân huynh
và hiền đệ, một trong hai người nên xuất gia để gây phúc lành cho gia đình.
Thoạt đầu Anuruddha có vẻ không
bằng lòng. Cậu viện cớ thân mình mảnh khảnh, bản chất thư sinh, không chịu nổi
cuộc sống vất vả của một "khổ hạnh khất sĩ".
Tuy lý do về thể xác, được
Anuruddha nêu ra khá hiển nhiên, nhưng Mahànàma vẫn kiên nhẫn phân tích để em
thấy rằng: Làm người thừa tự cho vương tộc Sakya (Thích Ca) là một trách nhiệm
còn nặng nề hơn nữa!
Mahànàma nói:
- Này Anuruddha! Thừa tự một đại
tộc không phải là chuyện đơn giản. Gánh nặng này anh không muốn để cho em phải
chịu! Làm một hoàng thân càng nhiều của cải ruộng đất thì đời sống càng vướng mắc,
và càng bị bao vây! Quanh năm suốt tháng, hết trông coi việc đồng áng, ruộng
nương, thì đến việc quản đốc đất đai, trồng tỉa cây trái, thúc hối gia nhân bón
phân tưới nước cho các hoa màu. Rồi mùa gặt hái lại đến. Số thu hoạch nếu dồi
dào sẽ làm cho những đại tộc khác ganh ghét, tìm cách phá hoại. Còn nếu lợi tức
thất bát thì chi phí đè nặng trên vai! Một hoàng thân khó sống theo kiểu có
nhiều xài nhiều, có ít xài ít, như các hàng dân dã.
Nhưng Anuruddha còn say mê trong
sự hưởng thụ vật chất, chưa hiểu được ý nghĩa sâu xa của những lời phân tích
đó, liền nói:
- Quản trị tài sản tuy có khó
khăn, nguy hiểm thật, song mình lại được đền bù, còn đi tu thì không còn làm
chủ bất cứ một cái gì hết!
Mahànàma bình tĩnh giải rõ hơn:
- Này Anuruddha! Nhưng trong vai
trò cai quản tài sản, trọn đời bị quay cuồng với những nghiệp trần, em sẽ không
có thời giờ để mà hưởng thụ! Vả nếu em lo hưởng thụ, không làm tròn các phận sự
duy trì gia sản, thì của cải kia chẳng mấy chốc phải tiêu tan! Các quí tộc khác
nhân đó, sẽ gạt dòng họ Thích Ca ra ngoài giai cấp lãnh đạo.
- Này Anuruddha! Chính ông cha
của chúng ta, từ nhiều đời, cũng bị cột chặt trong cái vòng danh dự truyền kiếp
đó, mà từ khi khôn lớn cho đến phút nhắm mắt, họ đã không thoát khỏi những
xiềng xích dây chuyền là gìn giữ gia sản để giao lại cho con cháu. Và họ đã
không nghĩ đến bản thân thụ hưởng, vì biết rằng sự thụ hưởng vốn dẫn đến phá
sản, rồi không còn gì lưu lại cho đời sau.
- Này Anuruddha! May mắn thay
trong hoàng tộc Thích Ca (Sakya) đã có một người đại trí, tự bước ra khỏi cái
vòng cương tỏa ấy để thực sự giải thoát là đức Phật Cồ Ðàm. Và hiền đệ ngày nay
lại có anh gánh vác lấy phiền nghiệp thế gian, tại sao em còn chần chờ?
Anuruddha nghe mấy lời ấy, bèn
kinh cảm nghĩ rằng: "Quả thật hiền huynh ta đã mô tả đúng đời sống của cha
ông ta. Họ đã chỉ tỏ ra cho người ngoài tưởng là họ có uy quyền và hưởng thụ, nhưng
thực tế bên trong, họ vốn nối tiếp nhau vướng chặt trong cái vòng danh vị thế
gian, và chắc chắn sẽ bị luân hồi theo một chiều tư duy không thể tránh
được".
Mahànàma nhận thấy em mình có vẻ
lĩnh hội chân ý, liền ôn tồn từ giã, lui về tư thất.
Ðêm hôm đó, Anuruddha suy nghĩ
rất nhiều. Những thắc mắc về sự chết, và mục đích của kiếp người hiện tại, đã
làm cho Hoàng tử cảm thấy đời sống thật vô nghĩa nếu không muốn nói là giả tạo.
Nghĩ đoạn Anuruddha quyết định
noi gương đức Phật, tìm cách bẻ gãy cái vòng thế nghiệp lẩn quẩn triền miên.
Hoàng tử Anuruddha vội đến ra
mắt thân mẫu để xin phép xuất gia thì bị bà từ chối, viện cớ rằng: "Bà
không muốn sống xa bất cứ một đứa con nào hết!"
Nhưng Anuruddha cứ năn nỉ hoài
khiến thân mẫu đâm ra lúng túng. Sau cùng bà nêu điều kiện, nếu Anuruddha
thuyết phục được Hoàng tử Bhaddiya, một người bạn thân vừa là viên phụ chính
chờ nối ngôi Vương tộc Sakya, cùng đi tu với Anuruddha thì bà sẽ ưng thuận. Sở
dĩ bà làm vậy bởi tin tưởng rằng: "Hoàng tử Bhaddiya khó dám bỏ rơi ngôi
báu". Nhờ đó bà sẽ cản được Anuraddha xuất gia theo Phật!
Nhưng bà đã lầm vì đánh giá sai
tình bạn giữa hai Hoàng tử trẻ tuổi: Bhaddiya có thể rất thích ngôi vua, song
tình bạn cậu dành cho Anurudha cũng không phải nhỏ, nhất là Bhaddiya chẳng muốn
làm Anuruddha buồn lòng.
Bởi thế khi Anuruddha đến gặp
Bhaddiya và thố lộ rằng: "Sự giải thoát của tôi tùy thuộc hoàn toàn vào
quyết định của bạn! Nếu bạn cùng tôi noi gương Phật, thì tôi sẽ được hân hạnh
thân mẫu cho xuất gia. Còn ngược lại, tôi phải chịu tiếp tục sống trong cuộc
đời đầy sơn phết, giả tạo này!
Nghe mấy lời tâm sự tha thiết
đó, Bhaddiya lập tức thốt, không suy nghĩ:
- Này Anuruddha! Tình bạn giữa
hai chúng ta xưa nay không bao giờ bất đồng ý kiến, hay ai phải tùy thuộc ai
cả! Hễ cái gì làm cho bạn sung sướng là tôi sẽ chấp thuận. Ngay cả việc xuất
gia cũng...
Hoàng tử Bhaddiya bỗng dừng lại,
không nói hết câu, vì cậu chợt cảm thấy có cái gì không ổn, nhất là câu chuyện
vốn liên quan đến địa vị kế nghiệp của mình làm vua sau này.
Nhưng trước ánh mắt cầu khẩn và
trước những lời lẽ chân thành, được lập đi lập lại của Anuruddha, nên thay vì
Bhaddiya đủ can đảm bộc bạch thật lòng, chẳng hạn như: "Bạn có thể xuất
gia một mình đi, tôi vô cùng hoan nghênh, không dám cản. Chứ tôi, tôi cần tính
lại v.v..." thì cậu phải bỏ lửng nói ở đó, rồi ngồi im.
Hơn nữa, nét buồn trên khuôn mặt
của Anuruddha mỗi lúc một rõ rệt, càng làm mềm lòng người bạn thân hơn. Cuối
cùng Hoàng tử Bhaddiya liền an ủi:
- Này Anuruddha! Vâng, tôi sẽ
cùng xuất gia tu Phật với bạn. Nhưng để cho mọi việc chuẩn bị vẹn toàn, bạn có
thể chờ tôi khoảng bảy năm được không?
Anuruddha lập tức tỏ vẻ thất
vọng, than rằng:
- Bảy năm nữa thì thật.. lâu
quá! Này Bhaddiya! Nếu trong vòng bảy năm ấy, mà tuổi thọ của chúng ta hết, thì
chúng ta sẽ mất duyên lành giải thoát và phải bị luân hồi.
Rồi chàng tiếp tục năn nỉ
Bhaddiya.
Cứ như thế mà Anuruddha đã làm
xiêu lòng người bạn, giảm dần sự chờ đợi xuống còn bảy ngày, cái thời gian tối
thiểu để Bhaddiya có thể sắp đặt việc nhà, tìm người kế nghiệp.
Lúc bấy giờ Anuruddha mới yên
tâm ra về, bởi chàng biết rõ bạn mình là người luôn luôn tôn trọng lời hứa.
Quyết định này đã làm đảo lộn
truyền thống thừa tự của hoàng tộc Thích Ca (Sakya) rất nhiều. Vì số vương tử
sau đó noi gương đức Phật sẽ không chỉ là Anuruddha và Bhaddiya, mà còn những
người khác nữa.
Kết quả đã có sáu Hoàng tử Thích
Ca (Sakya) cùng nhau rời kinh đô Ca Tỳ La Vệ tìm đến đức Phật, mang theo một
vương bộc (Sách khác gọi là người thợ hớt tóc trong cung vua) tên Upàli.
Sáu hoàng tử đó là: Bhaddiya,
Anuruddha, Ànanda, Bhagu, Kimbila và Devadatta (theo Tôn Túc Kệ Ngôn các số
271-274 và 118, 155-156: The-ragàthà numbers 118, 155-156, 271-274).
Và để tránh sự chú ý của các
giới quí tộc cùng dân dã, có thể gây trở ngại cho công cuộc "lên
đường" lịch sử, sáu vị Hoàng tử ấy đã tổ chức một đoàn tùy tùng có binh mã
hộ tống, giống như thường lệ họ đi ngoạn cảnh hay đi săn bắn vậy.
Khi đã cách kinh đô một khoảng
thật xa, sáu vị Hoàng tử bèn ra lệnh cho quân lính quay về, rồi họ tiến thẳng
vào một địa phận lân cận, để cởi hết y phục sang trọng và đồ trang sức, giao
cho vương bộc Upàli, bảo rằng giá trị của tất cả những thứ này, có thể giúp cho
ông sống mãn đời, mà không cần đến chủ cũ nữa.
Nhưng Upàli, trên đường về nhà
chợt suy nghĩ: "Những hoàng thân trong vương tộc Thích Ca, ai xu hướng
theo đạo Phật thì thôi, còn ai chưa tin tưởng Phật giáo, lại rất đa nghi. Nếu
họ hiểu lầm ta đã sát hại sáu vị Hoàng tử kia, để đoạt hết những tư trang này,
họ chắc chắn sẽ giết ta. Tốt hơn ta hãy chạy theo sáu Hoàng tử ấy để chủ tớ
chung đường, tu hành có nhau, và mạng sống của ta cũng được bảo đảm".
Nghĩ đoạn, Upàli liền cột tất cả
y phục và tư trang của sáu Hoàng tử thành một bó, treo lên cành cây, rồi nỗ lực
đuổi theo sáu viên thiếu chủ.
Khi Upàli bắt kịp họ, vội nói:
- Này các Hoàng tử! Upàli nầy
không thể trở về kinh đô một mình với những tư trang vương giả mà không có mặt
quí vị! Các quan quân trong thành sẽ nghi lầm và gia tội hạ thần rất nặng nề!
Chi bằng các Ngài hãy cho Upàli này đi theo, để noi gương đức Phật, sống đời
Sa-môn phạm hạnh!
Những Hoàng tử dòng họ Thích Ca
(Sakya) khi nghe mấy lời ấy, cũng nghĩ: "Upàli quyết định nối gót chúng ta
là một điều hợp lý. Vì con đường dẫn đến đức Phật chắc chắn sẽ bình an, còn y trở
về hoàng cung không chừng gặp phải nguy hiểm!". Nghĩ đoạn họ bèn cho phép
Upàli vầy đoàn, rồi nhắm hướng đức Phật cư ngụ thẳng tiến.
Khi tất cả đã ra mắt đức Phật,
và được Phật chấp thuận cho gia nhập Tăng chúng, thì các Hoàng tử chợt tư duy
rằng: "Hoàng tộc Thích Ca xưa nay vốn rất tự phụ. Nếu các vương tử được
thụ giới trước thường dân Upàli, thì tánh xấu ngã mạn kia sẽ khó tẩy trừ. Vậy
yêu cầu đức Phật ban phép xuất gia đến vương bộc Upàli trước, rồi sau đó mới
thế phát cho sáu Hoàng tử Thích Ca! Như thế Tỳ kheo Upàli sẽ là vị Tăng sĩ niên
trưởng để chúng ta phải kính trọng và làm bổn phận của những sư đệ".
Tâm tưởng cao thượng ấy thúc đẩy
sáu vị Hoàng tử thể hiện bằng hành động. Họ lần lượt yêu cầu đức Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Lâu nay
Upàli đã phục vụ hết lòng cho vương tộc Thích Ca, và để trả ơn cũng như để cho
sự tu hành của chúng tôi được tiến triển tốt đẹp, ngưỡng mong đức Thế Tôn cho
phép Upàli xuất gia trước.
Ðức Phật thấu rõ điều suy nghĩ
đáng khen của sáu hoàng thân, liền nhận lời. Kết quả, cộng đồng Tăng Già
(Saígha) dưới sự hướng dẫn của đức Phật sau đó đã tăng thêm bảy vị. Trong số
ấy, vị niên trưởng chính là Tỳ kheo Upàli vậy! (theo Tiểu Phẩm, chương VII,
trong Tạng Luật: Vinaya, Cullavagga, Chương VII).
Và chỉ trong vòng một năm sau,
hầu hết bảy Sa-môn ấy đã đạt được những thành tích tâm linh vượt bậc. Chẳng hạn
như Ðại Ðức Bhaddiya, vị thứ nhất đắc quả A-la-hán với Tam thông (Tevijjà) có
trí tuệ đặc biệt, loại trừ mọi phiền não một cách dễ dàng (Panna Vimutta). Tam
thông là Túc Mạng Thông (biết hết tiền kiếp của mình), Thiên Nhãn Thông (thấy
rõ mọi loài, vô hình lẫn hữu hình), và Lậu Tận Thông (tẩy sạch phiền não). Còn Anuruddha
(A Nậu Lâu Ðà) thì đắc Thiên Nhãn Thông. A Nan Ðà (Ànanda) đạt thánh quả Nhập
Lưu ( Sotapanno). Devadatta (Ðề Bà Ðạt Ða) luyện thành nhiều quyền thuật siêu
nhiên. Riêng Bhagu, Kimbila và Upàli thì về sau mới đắc quả A-la-hán. (Giống như
A Nan Ðà và A Nậu Lâu Ðà). Chỉ có một điều đáng tiếc là Ðề Bà Ðạt Ða, vì luyện
thành nhiều quyền lực siêu phàm, mà trở nên ỷ lại, rồi ngã mạn và tham lam lại
phát sinh, đến nỗi ông trở nên tăm tối, đi vào con đường chống Phật, phải bị sa
đọa vào địa ngục Vô gián.
[II]
ÐẮC THIÊN NHÃN THÔNG
Trong số
những người đắc các thần thông hiếm có, thì A Nậu Lâu Ðà (Anuruddha) là một cao
thủ. Chính đức Phật cũng đã xác nhận dữ kiện ấy trước các hàng Tăng chúng. Phật
nói:
- Này chư Tỳ-khưu! A Nậu Lâu Ðà
là một đại Sa-môn đạt Thiên Nhãn Thông cao nhất (theo Tăng Chi A Hàm 1, chương
19: Anguttara Nikàya 1, chương 19).
Một lần nọ, khi một nhóm đệ tử
ưu tú của đức Phật an cư kiết hạ, tụ tập với nhau trong rừng Gosinga ( xiêm
gai), một vấn đề đã được nêu lên là: "Ai sẽ là bậc xứng đáng lấy khả năng
độc đáo của mình, để làm cho ngôi rừng Gosinga này trở nên rạng rỡ, trang
nghiêm và thanh thoát, khiến cho Phật tử mười phương mỗi khi nghe đến là hân
hoan ngưỡng mộ?"
A Nậu Lâu Ðà (Anuruddha) liền
trả lời:
- Sa-môn nào là người có Thiên
Nhãn Thông tuyệt diệu nhất, là bậc quan sát và nhìn thấy thật dễ dàng muôn ức
triệu thế giới và vũ trụ, phân biệt từng tinh tú hệ riêng rẽ..., như một người
đứng trên tháp cao nhìn xuống những ranh giới nhà nông. (theo Trung A Hàm số
32: Majjhima Nikàya No. 32).
Rồi một dịp khác, A Nậu Lâu Ðà
lại bày tỏ rằng:
- Ông nhờ tinh tấn phát triển
thiền pháp định tâm (Samàdhi kammatthàna) mà đạt được Thiên Nhãn Thông cao
nhất. (theo Tạp A Hàm 52/23: Samyutta Nikàya 52/23).
Và ông cũng đã hướng dẫn cho
nhiều đệ tử của mình thực hành thiền pháp ấy, để khai mở "Tịnh nhãn",
tích tụ công lực, làm nền tảng cho một sự thụ đắc Thiên Nhãn Thông sau này.
Và để cho người đời dễ nhớ hơn,
Thiền sư A Nậu Lâu Ðà còn lưu lại những câu kệ ngôn rằng:
"Tu Ðịnh chắc vào năm căn [1] minh sát
Ý và tâm thanh tịnh với Ngũ trần
Thần trí an rồi, nhãn lực không phân
Công phu ấy là thần thông trong mắt.
Nhãn căn có thì nhãn linh phải ắt
Qua Ngũ thiền [2] tự khắc hiển hiện ra
Như vầng Thái dương quang lực chói lòa
Soi rõ hết muôn vạn chiều sinh diệt.
Vượt quá khứ, phi tương lai biền biệt
Hội về tâm, hiện tại Một Pháp Thiền
Diệu đế thấy rồi nhãn lực vô biên
Trong nhãn thức, một thần thông giải thoát".
(NÐ. thoát dịch ra văn vần, theo
Tôn Túc Kệ ngôn, các câu số 916, 917: Theragàthà 916-917).
[1] Năm căn là: Nhãn căn, nhĩ
căn, tỵ căn, thiệt căn, và thân căn.
[2] Ngũ thiền: Là bậc cao nhất trong thành quả tu thiền, gồm nhất thiền, nhị
thiền, tam thiền, tứ thiền, và ngũ thiền.
Thiên Nhãn Thông hay Thần Nhãn
(Dibba Cakkhu) là một trình độ kiến nhận vượt khỏi khả năng của đôi mắt phàm
tình, dù cho đôi mắt ấy nhìn xuyên qua một dụng cụ khoa học tối tân.
Nhưng "Thần Nhãn" của
Anuruddha, theo kinh Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhimagga sutta) còn kỳ diệu hơn nữa,
có thể tỏa rộng tới ngàn vạn chiều tinh thể, tức là tương đương với sự thấy rõ
hàng ngàn "dãy Ngân Hà" (Galaxie) trong Thiên Văn Học ngày nay!
(Lời thêm của dịch giả:
"Dãy Ngân Hà" là một tập hợp của vô số tinh tú. Mỗi tinh tú vận
chuyển tạo ra một hệ thống riêng biệt. Chẳng hạn như mặt trời là một tinh tú,
có những hành tinh quay xung quanh nó, gọi là Thái Dương hệ, mà đôi "mắt
thánh" của Thiền sư Anuruddha có thể nhìn thấy hàng ngàn dãy Ngân Hà như
thế, tức là Ngài đã thông thấu tới ngàn vạn chiều thiên thể vậy).
Cũng theo kinh Thanh Tịnh Ðạo
(Visuddhimagga) thì thần thông (Thiên Nhãn) này chỉ đạt được khi hành giả đã
thành công vững chắc từ Tứ Thiền trở lên (Catuttha Jhàna) và đang phát triển
mạnh các "Thiền Tâm Vô Sắc", như "Không Vô Biên" hay "Thức
Vô Biên" chẳng hạn! (Kinh Visuddhimagga: Thanh Tịnh Ðạo, đã được học
giả Nànamolika dịch Pàli sang Anh Ngữ, do Buddhist Publication, Kandy xuất bản
năm 1979, chương XIII, các đoạn 95-101, xem những trang từ 469 đến 471. Chúng
tôi xin ghi vào đây để quí vị độc giả rộng đường nghiên cứu).
Ngoài ra, điều cần lưu ý thêm là
"Thiên Nhãn" này là một thần thông nằm trong Tam Thế Pháp
(Tilokiyadhamma). Do đó có thể có một số rất ít phàm nhân (Puthujjana) đạt được
(tuy rất hiếm) chỉ cần họ đắc định từ đệ Tứ thiền trở lên, hay các Thánh Tăng
có Tĩnh lực lưu lại từ tiền kiếp. Và Thiền sư A Nậu Lâu Ðà (Anuruddha) đã đắc
thần thông này trước khi chứng quả A-la-hán (Arahatta).
Chính đức Phật lúc còn tại tiền
cũng đã hằng ngày dùng thần thông ấy mỗi buổi sáng (vào rạng đông) để quan sát
khắp ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới, xem có ai hữu duyên với chánh
pháp, rồi Ngài tùy nghi tiếp độ! Lắm khi nhờ Thiên Nhãn Thông mà đức Phật đã
thấy được nhiều đệ tử đang ở rất xa Bổn Sư, bị những "ma chướng pháp"
quấy nhiễu trong khi hành thiền, để Ngài hiện đến dạy cho pháp giải trừ.
Nói chung, đặc điểm của Thiên
Nhãn Thông là "thấy" được một chúng sanh hết tuổi thọ (chết) ở một
cảnh giới này, rồi luân hồi (tái sinh) vào một cảnh giới khác, có thể là cõi
cao hơn, hay cũng có thể là cảnh thấp kém, đày đọa hơn. Ðặc điểm ấy chữ Pàli
trong kinh gọi là Cutùpapàta Nàna (Tạm dịch là Nhãn Thông Sinh Tử Ðồ).