F. L.
WOODWARD
(1871-1952)
Frank Lee
Woodward sinh ngày 13 tháng 3 năm 1871, con thứ ba của mục sư W. Woodward ở
Saham, Nor- folk (miền đông nước Anh). Lúc 8 tuổi, ông đã giỏi cổ ngữ La Tinh
(Latin) và bắt đầu học các tiếng Hy Lạp, Pháp và Ðức. Năm 1879, Woodward nhập
học trường Christ Hospi- tal, tại đây ông đã đoạt giải xuất sắc về tiếng La
Tinh và Pháp ngữ. Ngoài ra, ông còn có biệt tài về các môn thể thao.
Năm 18 tuổi, Woodward ghi tên
vào học ở Sidney Sussex College (thành lập năm 1588) thuộc trường đại học Cam-
bridge (Anh quốc), tại đây ông được cấp học bổng đứng đầu môn cổ ngữ. Năm 19
tuổi, ông được thưởng huy chương vàng (Gold Medal) về thơ tiếng La Tinh.
Năm 20 tuổi, ông đỗ đầu hạng
danh dự xuất sắc nhất trường về môn cổ điển và đoạt giải thưởng về các bài luận
tiếng La Tinh. Ông cũng có khiếu chơi đại phong cầm và từng giữ các chức vụ như
đội trưởng đội túc cầu và thư ký hội bóng đá.
Về sau, Woodward được mời dạy
môn cổ điển trong 3 năm đến năm 1879 tại trường Royal Grammar ở Worchester
(miền đông nước Anh). Tiếp đến, ông dạy cổ ngữ tại trường Stanford ở Lincolnshire (miền đông
Anh quốc) trong thời gian 5 năm từ năm 1895. Một trong các học trò của Wood-
ward bấy giờ sau này trở thành học giả nổi tiếng về thánh ngữ Pali là ông E. M.
Hare (1893-1955), một thương gia người Anh chuyên buôn bán trà ở Tích Lan.
Chính Wood- ward đã khuyến khích Hare nghiên cứu về cổ ngữ Pali và hai người về
sau đã kết bạn chơi với nhau rất thân.
Trong thời gian dạy ở Standford,
Woodward đã dành hết thì giờ vào việc nghiên cứu các tôn giáo, triết học Ðông
lẫn Tây Phương, văn chương Anh, tiếng Phạn (Sanskrit) và cổ ngữ Pali. Năm 1902,
Woodward gia nhập Hội Thông Thiên Học (Theosophical Society) lúc bấy giờ do ông
H.S. Olcott (1832-1907), một học giả Hoa Kỳ làm hội trưởng. Wood- ward xem đây
như là “một biến cố trọng đại nhất trong
đời mình” vì chính Hội này đã hướng dẫn ông trở về, tin theo giáo
lý của đức Phật.
Công Tác Giáo Dục Tại Tích Lan
F. L. Woodward đến Tích Lan năm
1903 và cùng hoạt động với ông H. S. Olcott trong phong trào phục hưng Phật
Giáo tại xứ này. Woodward đã đứng ra thành lập và làm hiệu trưởng trường trung
học Phật giáo Mahinda tọa lạc ở một ngôi nhà cũ xây cất theo kiểu Hòa Lan giữa
khu đông dân cư tại Galle,
miền tây nam Tích Lan. Vào lúc ấy trường có khoảng 60 học sinh. Với kinh nghiệm
nhiều năm dạy học tại nước Anh, Woodward nhanh chóng trở thành một giáo sư nổi
tiếng khắp Tích Lan bấy giờ khiến nhiều phụ huynh đã phải rút con em họ đang
theo học ở các trường khác về để gửi vào học trường Mahinda. Và không lâu sau
đó, số học sinh của trường đã tăng lên đến 300. Woodward không những chỉ là
nhân vật sáng lập mà còn là người đã giúp xây cất trường. Người ta thường thấy
ông trên tay cầm bay làm việc với các thợ nề khác hoặc đứng trên giàn phụ trách
việc đo đạc v.. v..
Ðời sống của Woodward rất có kỹ
luật và tích cực hoạt động, nhờ vậy, dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của ông,
trường Mahinda đã phát triển nhanh chóng. Woodward được mọi người hết lòng kính
mến vì sự hy sinh tận tụy, tính tình khoan dung, rộng lượng và tài đức của ông.
Một trong những nỗ lực đáng kể của Woodward là đã vận động cho việc công nhận
tiếng Sinhalese (Tích Lan) trở thành một môn thi tại các kỳ thi lấy bằng Cambridge tổ chức tại
Tích Lan bấy giờ. Ông cũng là nhân vật tiên phong trong phong trào vận động
thành lập trường đại học Tích Lan (Ceylon
University).
Woodward thường dùng y phục đơn
giản áo quần vải trắng như người bản xứ Tích Lan. Vào ngày Rằm, ông thọ bát
quan trai giới, nêu gương tốt cho các học sinh và thân hữu láng giềng. Woodward
thường để bát cúng dường thức ăn cho chư Tăng tại phòng họp lớn của trường và
chính ông đích thân phục vụ chăm sóc rửa chân cho các nhà Sư Tích Lan với lòng
hết sức thành kính. Woodward phụ trách dạy nhiều giờ và nhiều lớp cho trường
Mahinda mỗi ngày; ngoài ra ông còn tham dự vào những công tác quản trị điều
khiển, xây dựng trường v.. v.. Ông biết và nhớ rõ từng khuôn mặt cùng tên tuổi
của mỗi học sinh trong trường.
Những Ðóng Góp Của F. L.
Woodward Cho Nền Phật Học Tây Phương
Woodward là một con người đặc
biệt. Học hỏi, nghiên cứu tiếng Pali chỉ trong thời gian ngắn sau khi đến Tích
Lan, ông đã có thể dịch ra Anh văn một số kinh điển Phật Giáo Nam Tông chép
bằng cổ ngữ Pali. Năm 1913, Woodward bắt đầu dịch từ Pali ra tiếng Anh những
kinh trong Tăng Chi Bộ Kinh (Angut- tara
Nikaya). Năm 1915, ông dịch kinh Pháp Cú (Dhamma- pada) dưới tựa đề: “The
Buddha’s Path of Virtue” (Con đường đạo
đức của đức Phật). Woodward hợp tác với nữ học giả Pali, bà Rhys
Davids (1858-1942) vào năm 1915 và Hội Phiên Dịch Kinh Tạng Pali (The Pali Text Society) tại Luân Ðôn
(Anh quốc) rất lâu mãi cho đến năm ông qua đời (1952).
Woodward rời Galle (Tích Lan)
ngày 7-10-1919 và sang cư trú tại hải đảo Tasmania, một tiểu bang thuộc Úc Ðại
Lợi (Australia), nằm ở phía nam Thái Bình Dương. Tại đây, ông trồng táo (apple)
để sinh sống và dành hết thì giờ cho công tác phiên âm, dịch thuật kinh tạng
Pali. Ngoài ra, Woodward vẫn thường xuyên liên lạc và gửi tài chánh qua Anh
giúp đỡ Hội Pali Text Society.
Ðề cập đến công trình nghiên
cứu, dịch thuật của Wood- ward, bà Rhys Davids đã hết lời ca ngợi, tán thán khi
viết về ông như sau: “Trong những ngày
đen tối của trận thế chiến thứ nhất, tại Tasmania, sau khi hoàn tất phần đầu
bản dịch từ Pali ra Anh văn Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya); với tâm hồn trong sáng, không vụ lợi và trí tuệ như
Ngài Xá Lợi Phất (Sariputta), Woodward
đã hoan hỷ gửi tiếp cho chúng tôi bản thảo dịch thuật phần hai của bộ kinh
trên... Trong vài tháng, bản đánh máy đã được thực hiện đầy đủ, cả đến phần chú
thích... Chúng tôi thực vô cùng biết ơn bàn tay thân hữu của ông ta đã giúp Hội
chúng tôi tiến bước. Thật hiếm có những người như Woodward từ nửa vòng trái đất
bên kia, đã dùng hết thì giờ rảnh rỗi để đóng góp vào công việc hoằng pháp lợi
ích như thế...”
Vào năm 1927, khi nói đến công
trình dịch thuật của Wood- ward về những phần khác của Tương Ưng Bộ Kinh nữ học
giả Rhys Davids một lần nữa đã phát biểu: “Tôi
tìm thấy nơi dịch bản của Woodward vừa chính xác và linh động. Chúng tôi đã
mang ơn rất nhiều nơi ông ta như món qua pháp bảo của sự ân cần, kiên nhẫn,
trong sáng và thành thực”.
Dưới đây là những bộ chú giải do
F. L. Woodward đã dày công phiên âm tiếng Pali theo mẫu tự La Tinh (Romanized
Pali):
- 1921: Tập I, Sàratthappakàsini (tái bản băm 1977).
Ðây là tập chú giải về Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta
Nikàya) của ngài Phật Minh (Buddhaghosa),
nhà đại luận sư ra đời tại miền bắc Ấn Ðộ và đầu thế kỷ thứ 5 sau tây lịch và
sang Tích Lan hoằng pháp khoảng vào năm 430 sau tây lịch.
- 1926: Udana Commentary: Tập chú giải về Kinh
Phật Tự Thuyết (Udana) thuộc
Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya)
của nhà đại luận sư Dhammapàla sinh tại miền nam Ấn Ðộ vào thời kỳ sau ngài
Buddhaghosa (Phật Minh).
- 1932: Tập II, Sàratthappakàsini (tái bản năm 1977),
chú giải về Tương Ưng Bộ Kinh của ngài Phật Minh.
- 1937: Tập III, Sàratthappakàsini (tái bản năm 1977),
chú giải về Tương Ưng Bộ Kinh của ngài Phật Minh.
- 1940: Tập I, Theragàthà Commentary: chú giải về
Trưởng Lão Tăng Kệ (Theragàthà)
thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya)
của nhà đại luận sư Dhammapàla sinh tại miền nam Ấn Ðộ .
- 1952: Tập II, Theragàthà Commentary: chú giải về
Trưởng Lão Tăng Kệ của ngài Dhammapàla.
- 1959: Tập III, Theragàthà Commentary: chú giải về
Trưởng Lão Tăng Kệ của ngài Dhammapàla.
Ngoài ra, F. L. Woodward còn
dịch từ nguyên bản Pali ra Anh văn các bộ kinh sau đây:
- 1924: Tập IIII, The Book of
the Kindred Sayings (Sa- myutta Nikàya),
Tương Ưng Bộ Kinh thuộc Kinh Tạng, tái bản năm 1975.
- 1927: Tập IV, The Book of the
Kindred Sayings (Tương Ưng Bộ Kinh)
tái bản năm 1980.
- 1930: Tập V, The Book of the
Kindred Sayings (Tương Ưng Bộ Kinh)
tái bản năm 1979.
- 1932: Tập I, The Book of the
Gradual Sayings (Angut- tara Nikàya),
Tăng Chi Bộ Kinh thuộc Kinh Tạng, tái bản năm 1979.
- 1933: Tập II, The Book of the
Gradual Sayings (Tăng Chi Bộ Kinh),
tái bản năm 1982.
- 1936: Tập V, The Book of the
Gradual Sayings (Tăng Chi Bộ Kinh),
tái bản năm 1972.
- 1935: Tập II, Verses of Uplift
(Udàna), Kinh Phật Tự Thuyết
và “As It Was Said” (Itivuttaka),
Kinh Phật Thuyết Như Vậy; cả hai đều thuộc Tiểu Bộ Kinh, tái bản năm 1948.
Sau gần 40 năm (1913-1952) đóng
góp cho sự truyền bá, phát triển Phật Giáo tại các nước Tây Phương qua công
trình nghiên cứu, dịch thuật kinh tạng Pali ra Anh ngữ, F. L. Woodward đã qua
đời tại Tasmania (Úc Ðại Lợi) vào ngày 3
tháng 11 năm 1952 hưởng thọ 81
tuổi. Sự vĩnh viễn ra đi của học giả Woodward không những là một mất mát lớn
lao cho hàng Phật tử hậu thế tại các nước Âu Mỹ mà còn chung cho cả thế giới
Phật Giáo chúng ta ngày nay và mãi mãi sau này.