ANANDA
METTEYYA
(1872-1923)
Đại Ðức
Ananda Metteyya, tục danh là Charles Henry Allan Bennett, sinh ngày 8 tháng 12
năm 1872 tại Luân Ðôn (Anh Quốc). Thân sinh ông là một kỹ sư điện tử, nhưng ông
lại thích học môn hóa học. Ngay từ nhỏ, ông đã chối bỏ không chịu theo đạo
Thiên Chúa là tôn giáo mà thân mẫu ông rất ngưỡng mộ, và tự tuyên bố mình như
người không bao giờ có thể tin tưởng vào những điều phi lý, phản khoa học.
Năm 1890, vừa đúng 18 tuổi, nhờ
đọc thi phẩm nổi tiếng của Edwin Arnold (1832-1904), cuốn “Ánh Sáng Á Châu” (The Light of Asia), ông bắt đầu biết
đến Phật Giáo như một triết lý nhiệm mầu, mở ra trước mắt ông một khung trời
chân lý mới lạ.
Từ đó, ông phát tâm tìm đọc
nghiên cứu các kinh sách Phật Giáo hiện đang phát hành tại Anh quốc lúc bấy
giờ.
Năm 1898, ông qua Tích Lan
(Ceylon) như một Phật tử tự nguyện đi theo con đường của đức Phật. Tại đây, ông
bắt đầu tìm học Phật Pháp với các nhà sư và học giả Phật tử danh tiếng của Tích
Lan. Năm 1901, lần đầu tiên ông thuyết giảng về “Tứ Diệu Ðế” tại Colombo và bài pháp này
về sau đã được in thành sách. Trong thời gian ở Tích Lan, ông nghĩ đến việc sẽ
hướng dẫn một phái đoàn Phật Giáo sang hoằng pháp tại nước Anh, và ông nhận
thấy rằng muốn thành công, người đại diện phái đoàn phải là một vị Tăng.
Do đó, ông quyết định xuất gia.
Ông qua Miến Ðiện đầu tiên đến trú tại Akyab, tỉnh Arakan, sau tới ở thành phố
Ran- goon (Ngưỡng Quang), và tại đây, ông cảm thấy là nơi thích hợp nhất cho
việc tu tập, hành đạo tương lai của ông.
Tháng 12 năm 1901, ông chính
thức xuất gia, thọ 10 giới Sa Di, và năm sau, vào ngày trăng tròn (21-05-1902),
ông thọ đại giới Tỳ Kheo. Ban đầu ông lấy pháp hiệu Ananda Maitriya, sau đổi
theo danh từ Pali là Metteyya. Trong ngày lễ xuất gia đầu tiên tại Miến Ðiện,
Ðại Ðức Ananda Metteyya đã phát biểu:
“Sau khi trở thành Tăng sĩ, công việc cần làm trước nhất mà tôi đã dành
hết thì giờ và hy sinh cuộc sống của tôi để theo đuổi, thực hiện là tìm cách
truyền bá Phật Giáo, chân lý của đạo Từ Bi tại các nước Tây Phương và thành lập
tại đó một giáo hội của Tăng Già”.
Nhằm thực hiện chương trình
hoằng pháp tại các quốc gia Âu Châu, Ðại Ðức Metteyya đã tìm cách liên lạc,
tiếp xúc với nhiều học giả Phật tử tại Anh, Ðức quốc và Hoa Kỳ, với mục đích
tiến tới việc thành lập một “Hội Phật Giáo Quốc Tế” (International Buddhist Society) ban đầu
hoạt động tại Ðông Phương và sau mở rộng truyền qua các nước Tây Phương.
Trong phiên họp đầu tiên của Hội
này, tổ chức vào ngày 15 tháng 3 năm 1903, ban tổ chức cuộc họp đã giúp soạn
thảo, duyệt xét bản nội quy, các điều lệ và bầu cử các thành viên để điều hành
mọi công việc của Hội. Ðại Ðức Ananda Metteyya được bầu giữ chức tổng thư ký và
Dr. E.R. Rost làm thư ký danh dự (Honorary Secretary). Ngoài ra còn có một số
nhân vật được mời làm hội viên danh dự như thi hào Edwin Arnold, ông bà giáo sư
T. W. Rhys Davids (1843-1922) cùng nhiều học giả Phật tử, danh tăng Tích Lan và
Miến Ðiện. Chỉ vài tháng sau khi Hội thành lập, một cuộc hội thảo đã được tổ
chức tại Rangoon với 300 người tham dự, và các tổ chức Phật Giáo khắp nơi trên
thế giới đã gửi thư về bày tỏ sự tán thán, ủng hộ nhiệt tình.
Công tác quan trọng của Hội bấy
giờ là cho phát hành tờ tam cá nguyệt san “Buddhism” (Phật Giáo) nhằm phổ biến
rộng rãi những tin tức, sinh hoạt của Hội đến các Phật tử hội viên tại Anh quốc
và nhiều quốc gia khác trên toàn thế giới. Số đầu tiên ấn hành vào tháng 9 năm
1903, dày 200 trang, trong đó có đăng bài thơ của thi hào Edwin Arnold, và chính
ông ta đã hỷ cúng phần lớn tịnh tài để in số báo này. Mặc dù tờ tạp chí “Phật
Giáo” (Buddhism) ấn hành chỉ được có 6 số, nhưng nội dung lẫn hình thức của nó
đã gây ảnh hưởng to lớn, và chiếm một địa vị trọng yếu trong lịch sử văn học
Phật Giáo bấy giờ. Một trong những người viết bài thường xuyên cho tạp chí này
là Tỳ Kheo Silicara (1872-1951), vị Tăng người Anh.
Nhằm chuẩn bị giúp đỡ cho phái
đoàn của Ðại Ðức Metteyya từ Miến Ðiện sang nước Anh hoằng pháp, Hội Phật Giáo
Anh Quốc và Ái Nhĩ Lan (The Buddhist
Society of Great Britain and Ireland) được thành lập với cuộc họp
đầu tiên tổ chức vào ngày 26 tháng 11 năm 1907. Dr. Rhys Davids được bầu làm
hội trưởng, giáo sư T. Mills phó hội trưởng và đạo hữu J. E. Ellam giữ chức
tổng thư ký Ban Trị Sự của Hội. Hội này hoạt động đến năm 1923, và được thay
thế tiếp tục bởi Hội Phật Giáo (The Buddhist Society) tại Luân Ðôn (London)
hiện nay. Sau khi thành lập, Hội rất vui mừng đón nhận tin về phái đoàn của Ðại
Ðức Metteyya chuẩn bị sẽ sang Anh quốc truyền bá chánh pháp.
Tháng 12 năm 1907, trong phiên
họp thường niên của Hội Phật Giáo Quốc Tế (International
Buddhist Society) tại Rangoon, Ðại Ðức Metteyya thông báo về việc
thành lập một chi nhánh của Hội này tại nước Anh, và quyết định gửi một phái
đoàn sang Luân Ðôn hoằng pháp trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1908.
Tháng 4 năm 1908, với tư cách tổng thư ký của “Hội Phật Giáo Quốc Tế” tại
Rangoon, Ð. Ð. Ananda Metteyya hướng dẫn một phái đoàn gồm có nữ Phật tử Hla
Oung, thủ quỹ, và người con trai của bà là đạo hữu Ba Hla Oung cùng với vợ của
ông ta sang Anh Quốc. Vé tàu thủy khứ hồi của Ð. Ð. Metteyya từ Miến qua Anh do
bà Hla Oung hỷ cúng. Chương trình hoằng pháp của phái đoàn tại Anh quốc đã được
thông báo trước.
Ngày 23 tháng 4 năm 1908, các
thành viên trong Hội Phật Giáo Anh Quốc cùng với phóng viên nhà báo đã ra bến
cảng Luân Ðôn để tiếp đón phái đoàn của Ðại Ðức Metteyya. Ngay khi phái đoàn
vừa đến Anh Quốc, Hội Phật Giáo tại đây đã phải gặp vài khó khăn cần giải
quyết. Trước hết, theo luật Phật chế, nhà Sư không đuợc phép ở cùng chỗ với
phái nữ, cho nên Dr. Rost đã phải thuê hai căn nhà nhỏ tại Barnes gần Luân Ðôn
để một cái dành riêng cho Ð. Ð. Metteyya cư trú. Nhà Sư Nam tông cũng không
được dùng bữa quá ngọ và nằm ngồi giường cao nên Hội đã phải dọn giường ngủ cho
đại đức ngay trên sàn nhà.
Hơn nữa, nhà Sư lại không được
phép giữ tiền, do đó Ðại Ðức Metteyya khi cần đi hoằng hóa ở đâu, phải có thiện
nam tháp tùng chứ không thể đi một mình, để có ai cúng dường tịnh tài hay đại
đức muốn mua sắm vật dụng gì thì phật tử đó sẽ tiếp nhận giùm hoặc trả tiền
giúp thay cho ngài.
Chưa hết, thêm điều rắc rối khác
là dân chúng tại Anh quốc thời ấy rất ngạc nhiên, nghĩ như điều quái gỡ dị kỳ
trong một xã hội vật chất Tây Phương, khi nhìn thấy chiếc y vàng bằng vải thô
sơ của Ð. Ð. Metteyya đang mặc, nên họ đã xầm xì phê bình chỉ trích, bàn ra tán
vào, thêm thắt lời nọ tiếng kia. Bởi vậy mà để tránh sự tò mò dòm ngó của dân
chúng, Hội Phật Giáo phải sắp xếp cho Ð. Ð. Metteyya dùng xe ngựa hoặc tắc-xi
(taxi) làm phương tiện di chuyển khi cần đến dự các phiên họp Phật giáo hay
thuyết giảng tại bất cứ nơi nào trong thành phố Luân Ðôn bấy giờ.
Vào lúc ấy Ðại Ðức Ananda
Metteyya 36 tuổi, có hình dáng cao, mảnh khảnh, hiền lành và đạo mạo. Cặp mắt
sâu thẳm, đầu cạo tóc, nói lên sự tu hành khắc khổ, nghiêm trì giới luật của
ngài. Ðặc biệt với giọng nói từ hòa khiến mọi người đều có cảm tình khi lần đầu
tiên mới gặp Ðại Ðức Ananda.
Ngoài sự thông bác giáo lý đức
Phật, Ðại Ðức còn rất am tường các bộ môn khoa học hiện đại với óc suy luận sắc
bén, tất cả được kết hợp để tạo ra cho đại đức trở thành một nhân vật rất đặc
biệt. Một ký giả, sau khi tiếp xúc với đại đức đã viết: “Con người có một bộ óc toán học toàn hảo, là một
trong những người hiểu biết nhiều về khoa học mà tôi chưa từng gặp từ trước đến
nay”.
Nhưng điều rất tiếc không may
bởi đại đức là con người hay đau ốm. Lúc 18 tuổi, đại đức đã mắc bịnh suyễn
kinh niên. Cơn bệnh này đã dày vò, hành hạ làm suy yếu thân thể trong suốt cuộc
đời của Ðại Ðức. Khi còn trẻ, để làm giảm bớt những cơn ho kéo dài khổ sở, đại
đức đã dùng thuốc hê- rô-in (heroin) bào chế bằng mọt-phin. Loại thuốc này đã
tàn phá rất nhiều đến cơ thể của đại đức.
Những lúc không bị cơn suyễn
hành hạ, đại đức rất hăng say tham gia mọi công tác hoằng pháp lợi sanh. Qua
thư từ hoặc bằng những cuộc tiếp xúc trực tiếp, đại đức đã quy tụ được nhiều
Phật tử trí thức, và học giả có nhiệt tâm ủng hộ việc phát triển Phật Giáo tại
Anh quốc.
Những Phật tử đầu tiên tham gia,
giúp đỡ phái đoàn truyền bá chánh pháp của đại đức Ananda là gia đình ông
Francis J. Payne cùng với vợ và các con. Ngoài ra còn có Dr. Edward Greenly
cũng đã góp phần to lớn vào công việc hoằng pháp của đại đức Metteyya.
Sau hơn năm tháng ở lại Anh Quốc
giảng truyền Phật giáo cho đủ mọi tầng lớp dân chúng, ngày 2 tháng 10 năm 1908,
Ðại Ðức Ananda Metteyya cùng với Dr. Rost, từ bến cảng Liverpool đã đi tàu thủy
trở về Rangoon. Ký giả một tờ báo ấn hành tại Rangoon đã đến phỏng vấn ít lâu
sau khi đại đức về tới Miến Ðiện, và ký giả bài báo đã viết: “Tỳ Kheo Ananda bày tỏ rất hài lòng về mọi công tác
hoằng pháp mà đại đức đã thực hiện”.
Tuy nhiên, hài lòng thì có,
nhưng hoàn toàn thỏa mãn như nguyện ước thì chưa. Lý do bở sức khỏe của đại đức
ngày càng yếu kém vì bệnh suyễn hành hạ; còn tài chánh thì kiệt quệ, và số Phật
tử tại Anh quốc bấy giờ thực tâm muốn tìm hiểu giáo lý đức Phật cũng bị giới
hạn.
Mặc dù vậy, đại đức vẫn không
nản chí. Trong bức thư ngõ gửi cho Phật tử tại Anh Quốc (Open letter to the Bud- dhists of England)
vào tháng 12 năm 1908, Ðại Ðức đã kêu gọi tất cả những người hâm mộ giáo lý đức
Phật nên tích cực ủng hộ cho Hội Phật Giáo Quốc Tế tại Luân Ðôn (London). Ðại
Ðức cũng nhiệt tâm bày tỏ cho thấy rằng giáo lý cao siêu và giải thoát của đức
Phật thực sự rất cần thiết cho dân chúng Tây Phương lúc bấy giờ.
Ðại Ðức vẫn nuôi ý định có dịp
sẽ trở sang Anh Quốc hoằng pháp lần nữa, nhưng nỗ lực muốn thực hiện điều đó
không dễ dàng vì lý do sức khỏe suy yếu và tài chánh eo hẹp của đại đức.
Tháng 12 năm 1913, Dr. Rost thực
hiện cuộc giải phẫu lấy sạn trong mật cho đại đức, và vài tháng sau tin từ Ran-
goon cho biết sức khỏe của đại đức có khá hơn đôi chút.
Tháng 5 năm 1914, một biến cố
đau buồn nhất đã xảy ra là tin tức cho biết sức khỏe của đại đức ngày càng
xuống dốc thê thảm. Nguồn hy vọng duy nhất để cứu vãn là đại đức cần tìm đến
nơi nào có khí hậu tốt hơn Rangoon
để tỉnh dưỡng một thời gian lâu dài.
Các Phật tử sau đó nhận thấy cần
thu xếp sớm càng tốt để đại đức có thể qua sống chung với bà chị của đại đức
bấy giờ đang ở California, Hoa Kỳ. Hay tin người chị sắp sang Anh Quốc, cho nên
các đạo hữu đã sắp đặt cho đại đức gặp bà chị tại Liverpool để cả hai sẽ cùng
đi California.
Các Phật tử tại Rangoon
đã vận động quyên tiền cúng vé tàu thủy cho đại đức từ Rangoon sang Anh Quốc. Nhưng vì đại đức phải đi
một mình, không ai có thể đi theo để giữ tiền cho đại đức theo đúng luật Phật
chế, cho nên đại đức buộc lòng phải hoàn tục mặc Âu phục để qua Anh quốc, sau
mười hai năm xuất gia sống đời Tăng sĩ. Sau khi đến Liverpool
vào tháng 5 năm 1914 (vừa đúng 42 tuổi), đại đức sống chung với các đạo hữu
trong Hội Phật giáo địa phương.
Ngày 12 tháng 9 năm 1914, khi
tàu của bà chị từ Cali- fornia đến Anh quốc, các phật tử đã tiễn đưa đại đức ra
bến tàu để gặp mặt và cùng với người chị đi Hoa Kỳ. Nhưng rất tiếc vì đang đau
bệnh nặng, cho nên đại đức không được sở di trú Mỹ cho phép đến New York trong
tình trạng sức khỏe tồi tệ như thế.
Cuối cùng, bà chị đã rời phòng
ngủ ra ngoài để gặp thăm đại đức lần đầu tiên sau nhiều năm xa cách. Rồi người
chị buộc lòng trở lên tàu để một mình đi Hoa Kỳ, còn đại đức Ananda đành phải ở
lại. Vài tháng sau, đệ nhất thế chiến bùng nổ tạo thêm nhiều khó khăn cho mọi
sinh hoạt Phật sự địa phương.
Không rời Anh Quốc được, các
Phật tử đã giúp đỡ sắp xếp cho đại đức cư trú tại Battersea. Trong thời gian
này, mặc dù bệnh tình của đại đức ngày càng tăng thêm, nhưng đại đức vẫn cố
gắng hoạt động, góp phần vào sự phát triển Phật Giáo tại Luân Ðôn.
Ðại Ðức viết bài thường xuyên
cho tờ “The Buddhist Re- view” của Hội Phật Giáo ở đây và sau đó làm chủ bút
cho tạp chí này. Nhưng rất tiếc đến năm 1923, hội đã ngưng hoạt động và tờ báo
cũng đình bản.
Ðầu tháng 3 năm 1923, bệnh tình
của đại đức sắp tiến đến giai đoạn kết thúc, hết phương chạy chữa. Vào ngày 9
tháng 3 năm 1923, đại đức đã viên tịch, hưởng thọ 50 tuổi. Hiện diện trong giờ
phút từ trần vĩnh viễn ra đi, bên cạnh đại đức có đạo hữu Francis Payne và một
số các Phật tử khác.
Cố bác sĩ C. A. Hewavitarane đã
phát tâm cúng tiền mua phần mộ trên lô đất rộng 15 feet vuông tại Modern
Cemetery làm nơi an nghỉ cuối cùng của đại đức. Tham dự lễ an táng có rất đông
thân hữu và các Phật tử trong Hội Phật giáo địa phương. Nhiều vòng hoa và hương
thơm được mọi người mang đến đặt trên mộ của đại đức để tri ân, tưởng nhớ vị
tăng sĩ đầu tiên đã góp phần to lớn vào công cuộc truyền bá chánh pháp của đức
Thế Tôn tại Anh quốc.
Ðại Ðức Ananda Metteyya là bút
giả của các tác phẩm:
1. An Outline of Buddhism (Phật Giáo Ðại Cương) ấn hành đầu tiên
năm 1910 và được in lại trong tạp chí “The Theosophist” số tháng 4-5 năm 1911.
2. The Wisdom of the Aryas (Trí Tuệ của dân tộc Aryas) xuất bản
tháng 01 năm 1923.