VEN.
ERNEST HUNT
(1876-1967)
Thượng
Tọa Ernest Hunt sinh ngày 16 tháng 8 năm 1876 tại Hoddesdon, quận Hertford (Anh
Quốc). Ðầu tiên, Hunt theo học trường St. Paul ở
Luân Ðôn (London) và sau tốt nghiệp đại học Eastbourne tại Sus- sex. Ngay lúc nhỏ ông đã thích tìm
hiểu các tôn giáo. Ban đầu ông có ý muốn đi tu theo giáo phái Anh Quốc
(Anglican Orders), nhưng cuối cùng ông đổi ý bỏ Thiên Chúa và theo Phật Giáo.
Hành động này khiến cho song thân ông vô cùng sửng sốt và phiền muộn không ít.
Là chuẩn úy hải quân của một tàu
buôn Anh quốc (British Mercantile Marine), Hunt có dịp quen biết với một Phật
tử thủy thủ Ấn Ðộ và anh này đã giới thiệu đưa cho ông ta đọc mấy tập sách nói
về thuyết Nghiệp Báo và Luân Hồi đã giúp cho Hunt ngưỡng mộ tin theo Phật Giáo.
E. Hunt cảm thấy giáo lý từ bi
và trí tuệ của đức Phật phù hợp với tinh thần hiểu biết của ông ta hơn là những
lời dạy thần quyền nặng phần đức tin cuồng tín và phản khoa học trong thánh
kinh Thiên Chúa Giáo.
Năm 1915, Hunt tới Hawaii làm nhân viên kế toán giữ sổ sách cho đồn điền Waipahu tại Oahu. Sau đó
ông dọn nhà đến ở Kohala. Trong thời gian này ông chú tâm nghiên cứu Phật giáo
và viết cuốn “Outline of Buddhism”
(Phật Giáo Ðại Cương) để làm luận án cho cấp bằng “Doctor of Dharma” (Tiến Sĩ
Phật Học) của ông.
Ðầu năm 1920, E. Hunt cùng với
vợ là Dorothy mở những lớp chủ nhật dạy Phật Pháp ở các trại nhân viên trong
đồn điền và cho những thanh thiếu niên Nhật Bản cư trú tại các làng dọc theo bờ
biển phía đông Hawaii hiểu biết Phật Giáo và kính trọng những lời răn dạy đạo
đức của mọi tôn giáo. Ngày 11 tháng 8 năm 1924, lần đầu tiên tại Hawaii trong
một buổi lễ trang ng- hiêm, Hunt cùng với vợ, bà Dorothy được hòa thượng Imamura
nhận cho xuất gia làm tân Tăng theo Phật Giáo đại thừa của Nhật Bản. Từ đó Hunt
có pháp hiệu là Shinkaku (Tâm Giác).
Sau khi thọ giới, hai vợ chồng
Hunt bắt đầu hoạt động tham gia công tác soạn thảo, thuyết trình những đề tài
Phật Giáo tại các đại hội thường niên của Hội Thanh Niên Phật Tử và phụ trách
lớp dạy giáo lý vào mỗi chủ nhật giúp cho giới trẻ Nhật Bản thấm nhuần những
lời dạy từ bi và trí tuệ của đức Thế Tôn. Cả hai cũng thường xuyên thuyết giảng
tại chùa Bổn Nguyện (Honganji) thuộc phái Tịnh Ðộ Chân Tông ở đảo Hilo về các đề tài như “Phật Giáo là gì?” (What is Buddhism?)
và “Phật Giáo Giải Thích Thế Nào về Thế
Giới Chúng Ta” (What does Buddhism Mean to the World) v.. v.. Ngoài
việc thuyết tháp hướng dẫn quần chúng, Thượng Tọa Shinkaku cũng thường đến
viếng thăm các người đau ốm ở nhà thương, phạm nhân trong nhà tù cũng như an ủi
những kẻ tật nguyền, mù lòa và mắc các chứng bệnh nan y.
Tháng 01 năm 1927, T.T. Shinkaku
được mời làm trưởng ban hoằng pháp bằng Anh ngữ tại chùa Bổn Nguyện (Honganji) ở
Honolulu.
Thượng tọa bắt đầu mở lớp dạy giáo lý vào ngày chủ nhật cho các em thiếu nhi và
phụ trách giảng Phật Pháp hằng tuần bằng tiếng Anh cho những thanh thiếu niên
Phật tử Nhật Bản. Ngoài ra, để giúp các em học sinh hiểu biết giáo lý, thực
hành các đức tính tốt như hiếu thảo, nhẫn nhục, bố thí của đức Phật, T. T.
Shinkaku đã giúp chúng học tập theo cuốn “A
Buddhist Catechism” (Phật Giáo Vấn Ðáp) và đọc các chuyện tiền thân
đức Phật trong tập “Buddhist Stories for
Children” (Những Mẫu Chuyện Ðạo Cho Trẻ Em). Hai cuốn này đều do
Thượng Tọa biên soạn. Nhờ vậy mà các em có được sự hiểu biết căn bản về lịch sử
cuộc đời Ðức Phật. Thượng Tọa cũng soạn cuốn “Nghi Thức Tụng Niệm” bằng Anh ngữ
trong khi vợ ông sáng tác nhiều bài ca Phật Giáo để dùng trong những buổi lễ
tại các chùa Nhật trên khắp đảo Hawaii.
Tháng 07 năm 1928 có khoảng 60
người Caucasians (quê ở miền nam nước Nga) bắt đầu muốn tìm hiểu Phật Giáo và
do sự khuyến khích của T. T. Shinkaku, họ thành lập một tổ chức nhằm truyền bá
giáo lý đức Phật cho những người Tây Phương. Họ cũng cho ấn hành một bản tin
trình bày lý do tại sao họ quay trở về theo đạo Phật. Ðại khái họ bày tỏ rằng
Phật Giáo là tôn giáo của lý trí, lòng từ bi, sự khoan dung độ lượng và rất phù
hợp với tinh thần khoa học. Phần cuối bản tin họ khuyến khích kêu gọi những ai
ngưỡng mộ Phật Giáo nên đến nghe thuyết giảng và dự khóa lễ bằng Anh ngữ mỗi
cuối tuần tại chùa Bổn Nguyện (Honganji). Trước sự kiện Phật Giáo ngày càng
phát triển mạnh mẽ tại các đảo ở Hawaii đã khiến những mục sư Tinh Lành bấy giờ
phải than thở bảo rằng sau 108 năm cố gắng truyền giáo của họ tại đây, số người
theo đạo Tinh Lành chỉ chiếm được 3 phần 100 tổng số dân trên đảo trong khi
Phật Giáo có khoảng 125.000 tín đồ trên tổng số 330.000 dân chúng.
Sau khi nhận làm trưởng ban
hoằng pháp bằng biếng Anh tại chùa Bổn Nguyện (Honganji), T. T. Shinkaku đã
khuyến khích các nhà lãnh đạo Phật và Thiên Chúa Giáo nên hợp tác làm việc với
nhau và nhiều vị Tăng Nhật Bản bấy giờ đã cố gắng thuyết phục những người Nhật
và Mỹ nên cùng nhau hợp tác trong việc duy trì các truyền thống tín ngưỡng tốt
đẹp của hai dân tộc. Năm 1932, T. T. Shinkaku thành lập Viện Phật Học Quốc Tế
tại Hawaii (International Buddhist Insti- tude
of Hawaii) và
giáo Hội Phật Giáo Tây Phương (Western Buddhist Order) do Thượng Tọa làm chủ
tịch.
Trong thời gian xảy ra cuộc thế
chiến thứ hai, khi các nhà sư Nhật phần đông bị giam giữ hay cô lập bởi nhà cầm
quyền địa phương, T. T. Shinkaku một mình tại Hawaii đã can đảm đứng ra tìm mọi
cách để bảo vệ các chùa và nhiều Phật tử Nhật thoát khỏi sự kỳ thị, đàn áp, phá
hủy của quân đội Hoa Kỳ cũng như các thường dân Mỹ địa phương yêu nước. Thượng
Tọa vẫn thường nói với dân chúng và các nhân viên chính quyền trên đảo rằng: “Phật Giáo chúng tôi không có dính dấp gì đến cuộc chiến
tranh này” (Buddhism had nothing to do with this war).
Năm 1952, sau khi hòa thượng
Imamura viên tịch, Thượng Tọa Shinkaku rời chùa Bổn Nguyện (Honganji) đến tu
tập làm đệ tử và kế nghiệp hòa thượng Komagata ở chùa Thiền Tào Ðộng, Honolulu.
Tại đây, T. T. Shinkaku đảm trách việc thuyết giảng Phật Pháp bằng tiếng Anh
cho các du khách đến viếng Hawaii từ Anh Quốc và Hoa Kỳ. Thượng Tọa cũng soạn
và xuất bản cuốn “Gleanings from Soto Zen” (Những
Kiến Thúc về Thiền Tào Ðộng) và “Buddhist Ser- mons” (Những Bài Giảng Phật Pháp).
Năm 1962, T. T. Shinkaku đúng 86
tuổi, được ngài Phó Viện Chủ chùa Tổng Trì (Soji) tấn phong lên hàng “Trưởng
Lão” (Choro) và năm 1963 được hòa thượng Rosen Takushi- ma, giáo trưởng phái
Thiền Tào Ðộng hết lòng tán dương về sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh của Thượng
Tọa trong nhiều năm qua. Uy tín và đức độ của T. T. Shinkaku không những chỉ
được các tổ chức, tông phái Phật Giáo Nhật Bản ngưỡng mộ, kính nể mà ảnh hưởng
của Thượng Tọa còn lan rộng đến nhiều quốc gia theo Phật Giáo tại Á và Âu Châu.
Về mặt văn hóa, ngoài các sách
đã kể trên, T. T. Shinkaku còn là bút giả của nhiều tác phẩm Phật giáo Anh văn
giá trị khác gồm những cuốn dưới đây:
1. The Buddha and His Teachings
(Ðức Phật và Giáo Pháp của Ngài).
2. How to Meditate (Thiền Ðịnh Như Thế Nào).
3. Essentials and Symbols of
Buddhist Faith (Những Ðiểm Quan Yếu và
Biểu Tượng của Phật Giáo).
Thượng Tọa cũng làm chủ biên tạp
chí “Phật Giáo tại Hawaii”
xuất bản hằng năm (The Buddhist Annual of Ha- waii) trong đó có đăng nhiều bài
khảo cứu Phật Giáo giá trị của các học giả: Bà Rhys Davids, ông Hari Singh Gour
và thiền sư Komagata v.. v.. T. T. Shinkaku (Tâm Giác) viên tịch vào tháng 2
năm 1967 tại Hawaii, hưởng thọ 91 tuổi.