CHRISTMAS
HUMPHREYS
(1901-1983)
Christmas
Humphreys sinh ngày 15-2-1901 tại London
(Anh quốc), con của ông Travers Hum- phreys và bà Zoe Marguerite Humphreys.
Thân sinh và cả gia đình ông phần lớn đều hành nghề luật sư và Christmas
Humphreys cũng vậy. Lúc nhỏ năm 1907 ông được gửi vào học chung với 150 em bé
gái của một trường nữ mẫu giáo gần nhà. Năm 1911 ông bắt đầu vào học trường
tiểu học Ascham St. Vincents. Ðây là một trường tư và sau này trở thành trường
dự bị của Eastbourne
College. Năm 1916, ông
rời Ascham đến học trường Malvern
College vào lúc cuộc thế
chiến thứ nhất (1914-1918) bùng nổ.
Năm 16 tuổi, ngày 01-10-1917 một
chuyện buồn xảy đến khi ông hay tin người anh của ông bị tử thương vì một quả
đạn trái phá nổ tại trận chiến ở nước Bỉ (Châu Âu).
Biến cố này là một khúc quanh
trong cuộc đời, ảnh hưởng đến ý hướng tìm hiểu Phật Giáo của ông sau này. Sự ra
đi vĩnh viễn của người anh thân yêu khiến ông bắt đầu nghĩ đến kiếp người thực
mong manh, cuộc sống là vô thường và sau khi chết con người đi về đâu là những
thắc mắc lớn lao hiện trong đầu mà ông ước mong muốn tìm câu giải đáp. Vào lúc
ấy, Humphreys đang là một tín đồ Thiên Chúa ngoan đạo rất kính yêu Chúa Giê-Su.
Nhưng Sau cái chết bất ngờ của người anh, ông tự hỏi phải chăng đó là ý muốn
của đức Chúa Trời toàn năng. Humphreys không tin như vậy, ông đâm nghi ngờ
những lời Chúa dạy trong Thánh Kinh. Từ đó, ông quyết tâm nghiên cứu các sách
tôn giáo để tìm câu hỏi đáp.
Tình cờ, một hôm ghé vào một
tiệm sách trên đường Great Russell ở Luân Ðôn (London), ông tìm thấy cuốn
“Buddha and the Gospel of Buddhism” (Ðức
Phật và Triết Lý Phật Giáo) của tác giả Ananda Coomaraswamy, xuất
bản năm 1916 tại Anh quốc. Ðây là cuốn sách viết về giáo lý đức Phật và so sánh
Phật Giáo với Bà La Môn và Thiên Chúa Giáo. Humphreys đã thích thú say sưa đọc
tác phẩm Phật Giáo đầu tiên ông tìm thấy này. Từ đó về sau ông bắt đầu chú tâm
nghiên cứu nhiều hơn về giáo pháp của đức Thế Tôn như tứ diệu đế, bát chánh
đạo, vô ngã; đặc biệt ông thích nhất lịch sử truyền bá Phật Giáo không có chiến
tranh hay sự kỳ thị ngược đãi, đàn áp bắt người khác phải theo tôn giáo của
mình trước họng súng, lưỡi lê v.. v..
Năm 1919, Humphreys đến Cambridge, tại đây ông
viếng thăm trụ sở của Hội Thông Thiên Học (Lodge
of the Theosophi-cal Society). Thời gian này ông được đọc tác phẩm
“The Secret Doctrine” (Giáo Pháp Huyền Bí)
của bà H.P. Blavatsky (người Nga). Cuốn sách dã giúp ông hiểu rõ về các thuyết
nhân quả, nghiệp báo, luân hồi của Phật Giáo. Tâm ông cảm thấy phần nào an lạc
khi nghĩ rằng bởi do nghiệp nhân gây ra trong quá khứ mà hiện tại anh của ông
đã phải nhận chịu cái quả như vậy và ông hy vọng sẽ được gặp lại anh của ông
trong kiếp tương lai vì theo Phật Giáo chết không phải là hết mà thần thức con
người sẽ luân hồi tái sinh trở lại.
Tháng 4 năm 1923, cùng với vài
người bạn, Humphreys thành lập tại Luân Ðôn (London) cư xá thanh niên của Hội
Thông Thiên Học (Youth Lodge of the
Theosophical Society) làm nơi hội họp của giới trẻ ham thích nghiên
cứu thông thiên học và Phật Giáo. Hè năm 1924, ông xây dựng trung tâm Phật giáo
(Buddhist Centre) của Hội Thông Thiên Học và đổi sang Niệm Phật Ðường (Buddhist Lodge) của hội này vào mùa thu
năm ấy. Ngày 19 tháng 11 năm 1924, Hum- phreys được các Phật tử bầu làm hội
trưởng, tổng thư ký là cô Aileen Faulkner (có biệt danh là Puck) và ông
Jinarajada- sa, một Phật tử Tích Lan, giữ chức phó hội trưởng.
Trong thời gian này, có nhiều
học giả Phật tử đến giúp Hum- phreys. Họ là những thành viên cũ của “Hội Phật
Giáo tại Anh quốc và Ái Nhĩ Lan” (Buddhist
Society of Great Britain
and Ire- land) thành lập năm 1907 nhưng ngừng hoạt động từ năm 1924.
Ðó là bà Rhys Davids, người mà ít lâu sau đã kế vị chồng giữ chức hội trưởng
Hội Phiên Dịch Kinh Tạng Pali (The Pali
Text Society) tại Luân Ðôn và Dr. Ernest Rost là nhân vật đã giúp
Ðại Ðức Ananda Metteyya năm 1908 từ Rangoon (Miến Ðiện) truyền bá Phật Giáo vào
Anh quốc v.. v.. Tin tức sinh hoạt của Niệm Phật Ðường (Buddhist Lodge) bấy giờ được loan
truyền đến nhiều quốc gia Phật Giáo trên thế giới.
Tháng 10 năm 1925 Hội cho ấn
hành tờ “Niệm Phật Ðường Nguyệt San” (The
Buddhist Lodge Monthly Bullen- tin) gồm 24 trang. Sau khi phát hành
được sáu số, tờ báo này đổi thành tập san “Phật Giáo Anh Quốc” (Buddhism in England). Tháng 12 năm
1927, Humphreys làm lễ thành hôn với Puck (cô Aileen Faulkner) và kể từ đó, cả
hai cùng chung tham gia tích cực đóng góp cho Phật sự địa phương. Gần 20 năm
qua, ông bà Humphreys đã phát tâm dùng căn nhà đang ở để làm trụ sở sinh hoạt
của Niệm Phật Ðường này. Năm
1943, Humphreys mua được một cơ
sở gồm có nhiều phòng xây cất từ thế kỷ 18 tọa lạc trên đường Great Russell gần
Viện Bảo Tàng (British Museum) và ông ta đã dời trụ sở cũ về địa điểm mới. Từ
đó, Niệm Phật Ðường (Buddhist Lodge)
đổi thành Hội Phật Giáo (The Buddhist Society) và tờ “Phật Giáo Anh Quốc” (Buddhism in England) cải đổi thành tạp
chí “Trung Ðạo” (The Middle Way)
với cái bìa mới do Puck trình bày, ấn hành 3 tháng một lần và tiếp tục ra đều
đặn cho đến ngày nay.
Sau khi cuộc thế chiến thứ hai
(1939-1945) chấm dứt, quân đội Nhật đầu hàng phe đồng minh, tháng 01 năm 1946
Humphreys được mời tháp tùng trong phái đoàn luật sư của Anh quốc sang Nhật để
tham dự phiên tòa án quốc tế xét xử các tội phạm chiến tranh. Chuyến đi này
giúp ông có dịp tìm hiểu nghiên cứu sự phát triển Phật Giáo tại Nhật và các
quốc gia Á Châu, đồng thời ông cũng trình bày cho thế giới biết về sinh hoạt
Phật Giáo tại Anh quốc và Châu Âu. Hum- phreys mang theo tập sách nhỏ “The
Twelve Principles of Buddhism” (Mười Hai
Nguyên Tắc Sống Hòa Hợp giữa các Tông Phái Phật Giáo) do chính ông
soạn thảo và đã được hội Phật Giáo tại Luân Ðôn chấp thuận trong kỳ đại hội năm
trước đó.
Một tháng sau khi tới Nhật,
Humphreys đến gặp thiền sư Dr. D. T. Suzuki tại chùa Ðan Giác (Engakuji) ở Kamakura và đưa cho ông ta đọc tập “Mười Hai Nguyên Tắc”. Dr. Su- zuki liền
dịch tài liệu đó ra tiếng Nhật và gửi đi phổ biến khắp các chùa tại Nhật. Sau
đó, các tiểu ban gồm chư Tăng Nhật Bản được thành lập ở Tokyo
và Kyoto để
nghiên cứu về bản “Mười Hai Nguyên Tắc” nói trên. Ngày 22-06-1946 tại hội
trường chùa Tây Bổn Nguyện (Nishi-Hong-wanji)
ở Kyoto, 32 đại biểu đại diện cho 17 tông phái Phật Giáo khắp nước Nhật sau khi
thảo luận, toàn thể đã nhất trí thông qua và chấp thuận bản “Mười Hai Nguyên
Tắc” của Hum- phreys, và đây là một thành công to lớn mà ông đã gặt hái được
trong chuyến đi qua thăm Nhật lần đầu tiên này. Vào ngày thứ hai tuần kế tiếp,
Humphreys được mời nói chuyện ở đại học Otani về “Phật Giáo tại Anh Quốc” (Buddhism in England) qua sự
thông dịch của Dr. Suzuki. Vài tuần sau, trước đại hội gồm nững nhà lãnh đạo,
thiền sư và viện chủ các chùa thuộc phái thiền Lâm Tế (Rinzai) khắp nước Nhật, Humphreys
thuyết trình một tiếng đồng hồ về đề tài “Phật
Giáo Tây Phương và Khả Năng Ðóng Góp của Phật Giáo cho Tương Lai Nhân Loại”
(Buddhism in the West and the Potential Place of Buddhism in the Future of
Mankind). Bài giảng của Humphreys rất hấp dẫn và được hàng nghìn thính giả hoan
nghinh nhiệt liệt.
Tháng 9 năm 1946 trên đường về
Anh quốc, Humphreys viếng Thái Lan một tuần lễ và đệ trình bản “Mười Hai Nguyên
Tắc” lên cho Vua Sải (Tăng Thống) duyệt xét trong đại hội gồm các nhà lãnh đạo
Tăng Già Thái Lan tại chùa Bovornives ở Bangkok. Sau khi thảo luận nó được toàn
thể đại hội chấp thuận. Tuy nhiên, tại Miến Ðiện, Ấn Ðộ và Tích Lan bản “Mười
Hai Nguyên Tắc” của Humphreys không được Hội Ðồng Tăng Già các quốc gia đó chấp
nhận liền mà một vài nơi họ cho biết là sẽ nghiên cứu và trả lời sau. Năm 1956,
Humphreys hướng dẫn một phái đoàn đại diện Hội Phật Giáo tại Anh qua tham dự
đại hội Phật Giáo Liên Hữu Thế Giới (The
World Fellowship of Buddhists) lần thứ tư tổ chức tại Kathmandu (Nepal)
và sau đó sang Delhi (Ấn Ðộ) tham dự lễ kỷ niệm 2500 năm đức Phật Thành Ðạo (Buddha Jayanti) do lời mời của chính
phủ Ấn Ðộ.
Năm 1959, Trung Quốc vào Tây
Tạng. Ðức Ðạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama) cùng với 75.000 chư Tăng và dân chúng Tây
Tạng sang tị nạn tại Ấn Ðộ, Nepal và Sikkim. Ít lâu sau, Humphreys cùng với các
vị Lạt Ma đứng ra thành lập Hội Phật Giáo Tây Tạng (Tibet Society) tại Luân Ðôn
(Anh Quốc). Năm 1961, đức Ðạt Lai Lạt Ma gửi thư yêu cầu Hum- phreys giúp đỡ.
Năm 1962, Humphreys với tư cách phó hội trưởng Hội Phật Giáo Tây Tạng và hội
trưởng Hội Phật Giáo tại Anh sang New Delhi (Ấn Ðộ) viếng thăm Dr. Radhakrish-
nan, đương kim tổng thống Ấn Ðộ, nhờ ông cho biết ý kiến về lời yêu cầu của Ðức
Ðạt Lai Lạt Ma. Nhân dịp này Hum- phreys đã đến thăm các trại tị nạn của dân
chúng Tây Tạng tại Ấn Ðộ và Sikkim.
Năm 1972, nữ tiến sĩ Irmgard
Schloegl, sau 12 năm tu học tại một ngôi chùa thiền Lâm Tế ở Tokyo (Nhật Bản)
trở về Luân Ðôn (London), Humphryes đã khuyến khích giúp đỡ bà ta mở lớp thiền
hướng dẫn cho các hội viên của Hội Phật Giáo Anh Quốc. Năm 1975, Puck (vợ của
Humphreys) qua đời và tám năm sau (1983), Humphreys cũng theo vợ, từ giã cõi
trần, hưởng thọ 82 tuổi.
Sự vĩnh viễn ra đi của nhà Phật
Học Humphreys là một mất mát to lớn không riêng cho Hội Phật Giáo tại Luân Ðôn
mà còn chung cho nền Phật Giáo tại Anh Quốc. Dưới đây là cảm nghĩ của một số
nhân vật Phật Giáo tên tuổi đã bày tỏ sự tiếc thương sau khi nghe tin học giả
Humphryes từ trần.
Lama Anagarika Govinda đã phát
biểu: “Ðạo hữu Hum- phreys là một trong
những người đầu tiên truyền bá Phật Giáo ở thế giới Tây Phương và không ai thực
hiện Phật sự này có kết quả và thành công hơn người bạn đạo đã qua đời của
chúng ta. Bởi nhờ công đức của ông mà ngôi nhà Phật Giáo đã được xây dựng ở thế
giới dùng ngôn ngữ tiếng Anh. Tôi rất tiếc đạo hữu Humphreys đã từ giã cõi đời,
nhưng tôi hy vọng tấm gương sáng của ông sẽ khích lệ cho những người còn sống
tham gia tích cực phục vụ cho lý tưởng Phật Giáo” (Mr. Humphreys
was one of the first people to propa- gate Buddhism in the Western World and
nobody dedicated himself to this task more thoroughtly and succcessfully than
our departed friend. It was mainly due to him that Buddhism has found a home in
the English speaking world. I deeply regret his passing away but I hope that
his example will in- spire all those whom he leaves behind with a new zeal for
the ideals of Buddhism).
Thượng Tọa Sumedho đã bày tỏ: “Ðạo hữu Humphreys là một nhân vật rất nổi tiếng...
Tôi nghe danh ông ta từ lâu trước khi tôi đến Anh Quốc. Những tác phẩm của ông
thường được liệt kê trong thư mục cùng với thiền sư D. T. Suzuki, Dr. Edward
Conze và nhiều văn nhân, học giả cũng như các nhà thông bác khác về Phật Giáo”
(Mr. Christmas Humphreys was a very famous man... I had heard of him long before
I came to England. His books were always listed in bibliog- raphies along with
D. T. Suzuki, Dr. Edward Conze and the great galaxy of writers, scholars and
experts on Buddhism).
Nữ học giả Imrgard Schloegl
viết: “Nên luôn luôn ngay thẳng, thành
thật, đó là châm ngôn của gia đình đạo hữu Christmas Humphreys và chính ông ta
đã thể hiện đức tính đó. Ðạo hữu đem lòng thương yêu, giúp đỡ mọi người vì ông
nghĩ rằng tất cả nhân loại đều là anh em... Ðạo hữu biết quên mình, hy sinh cho
kẻ khác, và với lòng từ bi hiếm có này của ông, đã cảm hóa hướng dẫn nhiều
người quay về với Phật Giáo. Ông không bao giờ biết nói xấu ai. Thử hỏi có bao
nhiêu người làm được như thế? Cho nên đạo hữu Humphreys thực sự là một con
người cao cả. Ông qua đời là sự mất mát to lớn đối với chúng ta, và chúng ta
cũng khó mà quên ơn của ông. Cầu mong lòng thương nhớ và sự biết ơn của mọi
Phật tử đối với đạo hữu Christmas Humphreys sẽ còn giữ mãi nơi tâm hồn chúng
ta. Tưởng nhớ ông, mong rằng chúng ta hãy tiếp tục hành trì, đi theo con đường
Phật dạy vì lợi ích của mọi chúng sanh”.
Những Ðóng Góp Của Christmas
Humphreys Cho Nền Văn Hóa Phật Giáo.
Christmas Humphreys là bút giả
của hơn 20 cuốn sách Phật Giáo. Dưới đây là một số tác phẩm chính:
1. What is Buddhism? (Phật Giáo Là Gì?), xuất bản năm 1928.
2. Concentration and Meditation
(Sự Tập Trung Tư Tưởng và Thiền Ðịnh),
xuất bản năm 1935.
3. Studies in the Middle Way (Nghiên Cứu về Trung Ðạo), ấn hành năm
1940.
4. Karma and Rebirth (Nghiệp Báo và Luân Hồi), xuất bản năm
1943.
5. Zen Buddhism (Thiền Phật Giáo), xuất bản năm 1949.
6. Budddhism (Phật Giáo), xuất bản năm 1951. Tác phẩm
này đến nay đã phát hành hơn 1 triệu cuốn.
7. The Way of Action (Con Ðường Thực Hành), xuất bản năm
1960.
8. Zen Comes West (Thiền Ðến Tây Phương), ấn hành năm 1960.
9. The Wisdom of Buddhism (Trí Tuệ của Phật Giáo), xuất bản năm
1960.
10. A Popular Dictionary of
Buddhism (Tự Ðiển Phật Giáo Phổ Thông),
ấn hành năm 1963.