NANAMOLI
THERA
(1905-1960)
Đại Ðức
Nanamoli, có tục danh là Osbert Moore, sinh tại Anh Quốc ngày 25-6-1905, tốt
nghiệp học vấn ở trường Exeter College, Oxford, Vào lúc xảy ra cuộc thế chiến
thứ hai (1939-1945), Moore phục vụ trong quân đội hoàng gia Anh Quốc đóng tại Ý
Ðại Lợi (Italy). Lúc ấy, ông được gặp, kết bạn thân với Harold Musson, cũng làm
việc trong quân đội. Cả hai bắt đầu ham thích, tìm hiểu Phật Giáo, sau khi đọc
đuợc tác phẩm “Dottrina Del Risveglio”
viết bằng tiếng Ý nói về đạo Phật của Julius Evola.
Sau khi thế chiến thứ hai kết
thúc, Moore trở
về Anh Quốc làm việc tại đài phát thanh B.B.C và sống chung nhà với người bạn
cũ trong thời chiến là Musson. Tại đây, cả hai người đã hợp tác cùng dịch tác
phẩm Phật Giáo bằng tiếng Ý nói trên ra Anh văn mang tựa đề là “The Doctrine of
Awak- ening” (Giáo Pháp của sự Tỉnh Thức).
Năm 1949, vì muốn tìm hiểu
nghiên cứu thêm Phật Pháp, Moore và Musson cùng
rủ nhau qua viếng thăm Tích Lan (Ceylon). Tại đây, họ may mắn được
gặp và có dịp học hỏi giáo lý với Thượng Tọa Nyanatiloka (1878-1957), vị tăng
người Ðức ở Island Hermitage, Dodanduwa, miền nam Tích Lan và Thượng Tọa Pelane
Vajiranama tại chùa Vajirarama, Colombo. Cũng trong năm 1949, Moore xin xuất
gia, thọ giới Sa Di với T.T. Nyanatiloka và năm sau 1950, thọ đại giới (tỳ kheo)
tại chùa Vajirarama, với pháp hiệu là Nanamoli.
Năm 49 tuổi, Ðại Ðức chuyên học
hỏi tiếng Pali, Tích Lan (Sinhalese) và Miến Ðiện (Burmese); và chỉ trong một
thời gian ngắn, ngài đã thông thạo các ngôn ngữ này. Từ đó, Ð.Ð. Nanamoli bắt
đầu nghiên cứu Phật Pháp; và trong vài năm sau, trở thành một học giả thông bác
về tiếng Pali. Về phương diện tu hành, đại đức là một nhà sư đạo hạnh, sống xa
lìa mọi lợi danh trần tục. Từ ngày xuất gia đến lúc viên tịch, trong suốt thời
gian 11 năm, lúc nào ngài cũng chỉ quấn mặc một chiếc y vàng đơn giản và luôn
luôn đi chân không, ít khi người ta thấy đại đức mang giày, dép.
Những Ðóng Góp Của Ðại Ðức
Nanamoli Cho Nền Văn Học Phật Giáo Tại Tây Phương
Dưới đây là những bản kinh Ðại
Ðức Nanamoli đã dịch từ thánh ngữ Pali ra Anh văn:
- 1960: Minor Readings (Khuddaka Pathas), Tiểu Tụng hay “Những
bài Kinh Ngắn” trong Tiểu bộ Kinh (Khuddaka
Nikaya) thuộc Kinh Tạng; tái bản năm 1978.
- 1960: The Path of Purification
(Visuddhimagga), Thanh Tịnh
Ðạo của nhà đại luận sư người Ấn Buddhaghosa (Phật Minh) viết không lâu sau khi
ngài sang Tích Lan hoằng pháp vào năm 430 sau tây lịch.
- 1962: The Guide (Nettippakarana), tái bản năm 1977. Tập
sách hướng dẫn, giải thích về các kinh tạng (Pitakas)
mà theo truyền thuyết là do ngài Mahà Kaccàyana (Ma Ha Ca Chiên Diên), một
trong các đệ tử lớn của đức Phật thuyết ra. Nhưng các học giả Tây Phương lại
bảo rằng có thể cuốn này được viết ra vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất tây lịch,
chứ không phải của ngài Mahà Kaccàyana.
- 1964: Pitaka Disclosure (Petakopadesa), tái bản năm 1979: Cuốn
sách chỉ dẫn, giới thiệu về các bài kinh Phật Giáo, cũng của ngài Mahà
Kaccàyana. Nhưng có thuyết cho rằng tác phẩm này được viết ra vào khoảng trước
thế kỷ thứ 3 sau tây lịch.
- 1982: The Path of
Discrimination (Patisambhidàmag- ga),
Vô Ngại Giải Ðạo, tập luận lý phân tích, trong Tiểu Bộ Kinh thuộc Kinh Tạng.
Ngoài ra, Ð.Ð. Nanamoli còn dịch
từ Pali ra Anh văn rất nhiều bài kinh trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya) và Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya) thuộc Kinh Tạng. Ðại
Ðức Nanamoli cũng là bút giả tác phẩm “The Life of Buddha” (Cuộc đời đức Phật), xuất bản đầu tiên
vào năm 1972, được tái bản lần thứ nhì năm 1978 và lần thứ ba năm 1984.
Rất tiếc Nanamoli đã viên tịch
bất ngờ vì bịnh tim vào ngày 8 tháng 3 năm 1960 tại ngôi làng yên tĩnh
Veheragama gần Maho ở Tích Lan, hưởng thọ chưa đầy 55 tuổi.
Sự vĩnh viễn ra đi đột ngột của
Ðại Ðức Nanamoli đã để lại nhiều tiếc thương cho số đông Phật tử Tây Phương trí
thức lẫn bình dân khắp nơi trên thế giới.