FRANCIS
STORY
(1910-1971)
Francis
Story, có pháp hiệu là Anagarika Sugatanan- da, sinh ngày 3 tháng 8 năm 1910
tại Croyden, Sur- rey, Anh Quốc. Lúc nhỏ, ông học tại Manor House School ở
Clapham và sau tại Ðại Học Luân Ðôn (London Uni- versity). Ban đầu, ông ghi
danh học trường thuốc, nhưng rồi lại bỏ đổi qua học nhãn khoa. Sau này, nhờ học
môn tôn giáo đối chiếu (Comparative Religions), ông hiểu biết Phật Pháp, và
chính thức trở thành Phật tử năm ông 16 tuổi. Năm 1933, ông lập gia đình.
Khi thế chiến thứ hai
(1939-1945) bùng nổ, ông gia nhập ngành quân y trong quân đội hoàng gia Anh
Quốc và phục vụ tại Ấn Ðộ.
Trong thời gian này, ông được
dịp viếng thăm vườn Lộc Uyển (Sarnath), nơi đức Phật thuyết pháp đầu tiên, và
tại đây ông đã liên lạc, trở thành hội viên, tham gia hoạt động với Hội Ma Ha
Bồ Ðề (Maha Bodhi Society).
Do tiếp xúc, chứng kiến hằng
ngày nỗi khổ đau của con người trong thời kỳ chiến tranh, ông muốn tự mình tìm
ra con đường giải thoát cho chính bản thân cũng như góp phần làm vơi bớt nỗi
đau khổ của kiếp nhân sinh. Do đó, ông bắt đầu chú tâm học hỏi, nghiên cứu,
thực hành giáo lý đức Phật, và phát nguyện tương lai sẽ nỗ lực đi hoằng truyền
chánh pháp của đức Thế Tôn.
Thời gian đang còn phục vụ trong
quân đội tại Ấn Ðộ, ông gặp phải biến cố rất đau buồn khi được tin vợ ông qua
đời tại Anh Quốc. Ông trở về nước thu xếp việc gia đình, và dự tính dành hết
cuộc đời mình sau khi vợ mất, cho công việc phụng sự Phật Giáo. Trong thời gian
lưu lại Anh Quốc một năm, ông thường đến thuyết giảng giáo lý tại Hội Phật Giáo
(The Buddhist Society) Luân Ðôn.
Năm 1958, ông trở qua Ấn Ðộ tham
gia hoạt động với Hội Ma Ha Bồ Ðề ở Sarnath (Lộc Uyển). Ông phát tâm thọ giới,
tập sống hạnh người xuất gia (không nhà cửa) với Thượng Tọa M. Sangharatana tại
chùa Ðại Giác (Maha Bo- dhi) ở Bồ Ðề Ðạo Tràng (Buddha Gaya), nơi đức Phật
thành Ðạo; và được đặt pháp hiệu là Anagarika Sugatananda. Thọ giới xong, ông
tiếp tục lưu lại sống tại Lộc Uyển hơn một năm nữa để nghiên cứu Phật Pháp, tu
thiền và dạy Anh văn cho chư Tăng, giảng sư của hội Ma Ha Bồ Ðề.
Sau đó, vì khí hậu Ấn Ðộ khắc
nghiệt, và ăn uống quá kham khổ, sức khỏe của ông bắt đầu suy yếu. Năm 1950,
ông nhận lời mời qua Miến Ðiện để giúp thành lập “Hội Truyền Bá Phật Giáo Thế
Giới tại Miến Ðiện” (The Burma Buddhist
World Mission) có trụ sở chính với nhà phát hành kinh sách Phật
Giáo thiết lập tại địa điểm số 7, East Block, Sule Pagoda, Rangoon.
Năm 1951, Sugatananda cùng với
các thành viên trong Hội Truyền Bá Phật Giáo Thế Giới, và Ðại Ðức Lokanatha,
một nhà sư danh tiếng người Ý Ðại Lợi, thành lập một phái đoàn hoằng pháp đi từ
Mandalay đến Rangoon (Miến Ðiện). Phái đoàn đã ngừng lại thuyết giảng giáo lý
tại các thị trấn lớn có đông dân chúng cư ngụ. Chuyến đi hoằng pháp này của
phái đoàn Sugatananda đã giúp củng cố, duy trì nền tảng đạo đức của dân tộc
Miến.
Năm 1954, Sugatananda được đề cử
giữ chức vụ Giám Ðốc Hội Truyền Bá Phật Giáo Thế Giới nói trên. Nhiều tài liệu
và kinh sách Phật Giáo do ông biên soạn được ấn hành gửi đi khắp nơi trên thế
giới. Nhờ vậy mà Hội Truyền Bá Phật Giáo được các tổ chức Phật Giáo ngoài Miến
Ðiện biết đến, và nhiều chi nhánh của Hội này cũng được thiết lập khắp nơi
trong nước. Cũng trong năm 1954, Sugatananda được mời tham gia Ban Biên Tập tạp
chí “The Light of Dhamma” (Ánh Sáng Phật
Giáo). Ðây là tạp chí do Viện Hoằng Ðạo (Union of the Buddha Sasana Council)
xuất bản định kỳ, ba tháng một lần, liên tục ấn hành trong những năm 1952-1963.
Nội dung gồm nhiều bài nghiên cứu giáo lý giá trị, phần lớn do Sugatananda đóng
góp.
Sau này, vì nhận thấy miến Ðiện
không mấy thuận lợi cho công việc hoằng pháp, năm 1957 Sugatananda đi Tích Lan
(Sri Lanka).
Tại đây, thời gian đầu ông tổ chức thuyết giảng Phật Pháp trên đài phát thanh
và nhiều nơi trong nước. Những năm sau, ông dành phần lớn thì giờ cho công việc
biên soạn các sách Phật Giáo Anh ngữ, nhất là nghiên cứu về thuyết Luân Hồi.
Ngoài ra, ông tích cực tham gia giúp Hội Xuất Bản Kinh Sách Phật Giáo (Buddhist
Publication Society) tại Kandy (Tích Lan) về mọi mặt cũng như viết bài đóng góp
thường xuyên để Hội cho ấn hành định kỳ các loại sách nhỏ (booklets) như “Pháp
Luân” (The Wheel) và “Lá Bồ Ðề” (Bodhi Leaves).
Về thuyết Luân Hồi, thời gian
còn ở Miến Ðiện, Sug- atananda đã bắt đầu tìm hiểu và nghiên cứu các trường hợp
của một số người có thể nhớ, thuật lại tiền kiếp của họ. Ông tiếp tục sưu tầm,
viết nhiều bài về Luân Hồi và cùng với Dr. Ian Stevenson, giáo sư bệnh học tâm
thần trường Ðại Học Virginia (Hoa Kỳ) để nghiên cứu về các trường hợp của những
người có thể nhớ lại đời trước của họ đã sinh sống tại Ấn Ðộ, Thái Lan và Tích
Lan.
Năm 1968, do lời mời của Dr.
Stevenson và sự tài trợ của Trung Tâm Nghiên Cứu Hoa Kỳ (American Research
Foun- dation), Sugatananda đã thực hiện thành công chuyến đi du thuyết tại
nhiều nơi khắp nước Mỹ về các đề tài liên quan đến Phật giáo và thuyết Luân
Hồi.
Mặc dù hết sức bận rộn, làm việc
tinh thần quá nhiều cho công việc hoằng pháp lợi sanh, Sugatananda cảm thấy sức
khỏe của mình vẫn tốt cho tới đầu năm 1970, khi lần đầu tiên triệu chứng bịnh
ung thư xương được phát hiện và ông phải vào điều trị tại các bệnh viện ở
Kandy, Ratnapura và Colombo (Tích Lan). Sau đó, nhờ sự giúp đỡ của một người
bạn Hoa Kỳ, vào giữa tháng giêng năm 1971, ông sang Anh Quốc điều trị. Sau một
thời gian ngắn ở chùa Hampstead Vi- hara, ông đã thuyết bài pháp cuối cùng tại
đây trước khi nhập bệnh viện Luân Ðôn (London).
Ðược ít lâu, bệnh ông ngày càng
phát triển nhanh chóng. Tháng 3 năm 1971, một bác sĩ danh tiếng ở Luân Ðôn cho
biết rằng bệnh ung thư xương của ông hết phương chạy chữa. Chỉ trong vòng mười
hai tuần lễ, Sugatananda thấy rõ sức khỏe nơi thân mình sa sút hẳn.
Mặc dù bị cơn đau hành hạ khốc
liệt, tâm ông vẫn sáng suốt, định tĩnh và an lạc như bạn ông đã viết: “Sugatananda đã trực diện với cái chết theo đúng
tinh thần của một Phật tử chân chính với tâm hồn bình thản, sáng suốt, không
chút sợ hãi, âu lo hay phiền muộn. Ngày 23 tháng 4 năm 1971, bệnh ông trở nên
trầm trọng, rất nguy kịch và ông phải dùng ốc-xy (oxygen) để thở. Chiều ngày 24
tháng 4, người bạn giúp Sug- atananda dùng bữa ăn cuối cùng và đọc cho ông nghe
những đoạn trong kinh Pháp Cú (Dhammapada). Mặc dù phải thở qua bình ốc-xy
Sugatananda vẫn cố gắng thuyết giảng giáo lý cho những bạn bè đến viếng thăm
ông. Ít lâu sau khi Su- gatananda dùng thuốc làm giảm bớt cơn đau, ông ta thiếp
ngủ cho đến vào lúc 1 giờ sáng thứ hai, ngày 26 tháng 4 năm 1971, ông qua đời,
hưởng thọ 61 tuổi”.
Một học giả Phật tử khác thường
có mặt cạnh giường bệnh của Sugatananda cũng đã bày tỏ: “Những tuần cuối cùng trước khi vĩnh viễn từ giã
trần thế, sự tỉnh thức và an lạc của Sugatananda thực là một nguồn khích lệ,
nêu cao tấm gương sáng cho mọi người Phật tử chúng ta”.
Tin Sugatananda từ trần được các
báo lớn địa phương như “The Times” và Daily Telegraph” đăng tải. Chư Tăng và
Phật tử khắp nơi trên thế giới hay tin đều hết sức bàng hoàng, xúc động. Các tổ
chức Phật Giáo ở Luân Ðôn ngưỡng mộ Sugatananda đã sắp xếp, tổ chức lễ hỏa táng
nhục thân của ông tại lò thiêu The Golders Green Cremetorium, Luân Ðôn. Nhiều
vòng hoa phúng điếu của các chùa, Hội Phật Giáo và Phật tử xa gần được gửi tới
đặt xung quanh quan tài của Sugatananda tại lò thiêu Golders. Vòng hoa trang
trọng, nổi bật nhất là một bánh xe Pháp, có tám căm, kết toàn hoa màu vàng nghệ
trên nền trắng, có ghi dòng chữ phân ưu: “With
affectionate memory of the noble life and work of the Anagarika Sugatananda.
May he attain Nibbana” (Vô cùng tiếc thương, tưởng nhớ cuộc đời và
đạo nghiệp hoằng pháp cao cả của Anagarika Sugatananda. Nguyện cầu ngài vãng
sanh miền Cực Lạc).
Một bàn thờ Phật nhỏ được thiết
lập giữa những vòng hoa. Sau khi Thượng Tọa Saddhatissa hướng dẫn chư Tăng kết
thúc khóa lễ Cầu Siêu, linh cửu của Sugatananda, với vòng hoa hình “Pháp Luân”
đặt ở trên, được di chuyển đưa tới lò đốt vào ngày 30 tháng 4 năm 1971.
Hiện diện tại buổi lễ hỏa thiêu,
có đạo hữu Christmas Humphreys (1901-1983) và một số quý vị đại diện Hội Phật
Giáo (The Buddhist Society) Luân Ðôn; chư Phật tử chùa Phật Giáo Luân Ðôn
(London Buddhist Vihara), bà I.B. Horner (1896-1981), nguyên Hội Trưởng Hội
Phiên Dịch Kinh Tạng Phật Giáo Pali (the Pali Text Society) và chư Tăng chùa
Thái Lan tại East Shen, cùng rất đông thân hữu và nhiều Phật tử khác. Tro cốt
của ngài Sugatananda được bỏ vào trong một chiếc hộp (casket) và các Phật tử đã
gửi hộp tro này qua Tích Lan để lưu giữ, thờ tại tu viện Island Hermitage ở
thành phố Dodanduwa là nơi mà hơn nửa thế kỷ qua nhiều Phật tử Tây Phương đã
tới lưu trú, tu thiền và học hỏi Phật Pháp.
Về phương diện đóng góp cho văn
hóa Phật Giáo, Su- gatananda là bút giả của nhiều bài viết và sách Phật giáo
giá trị. Dưới đây là những tập sách nhỏ (Booklets) của ông do Hội Xuất Bản Kinh
Sách Phật Giáo (Buddhist Publica- tion Society) tại Kandy (Tích Lan) ấn hành trong loại “Pháp
Luân” (The Wheel):
1. The Case for Rebirth (Những trường hợp Luân Hồi), 1959.
2. Buddhist Mental Therapy (Phương Pháp Trị Liệu Tâm Thần của Phật Giáo),
1960.
3. The Four Noble Truths (Tứ Diệu Ðế), 1961.
4. Early Western Buddhists (Những Phật tử Tây Phương đầu tiên),
1962.
5. Dialogues on the Dhamma (Ðối Thoại về Phật Pháp), 1965.
6. Prayer and Workship (Cầu Nguyện và Lễ Bái), 1969.
Và trong ấn bản “Lá Bồ Ðề” (Bodhi Leaves):
1. Of Gods and men (Thần Linh và Con Người), 1960.
2. Buddhist Meditaion (Thiền Ðịnh Phật Giáo), 1963.
3. The Places of Animals in
Buddhism (Vị thế của loài vật trong Phật
Giáo), 1964.
4. The Supreme Conqueror (Kẻ Chiến Thắng Vĩ Ðại), 1968.
5. The Scientific Approach to
Buddhism (Sự đến gần Phật Giáo của Khoa
Học), 1971.
Ngoài ra, Sugatananda còn viết
nhiều bài khảo cứu giúp cho Phật tử hiểu biết rõ hơn về giáo lý đức Phật đã
đăng tải ở các tạp chí Phật Giáo Anh ngữ giá trị như The Maha Bodhi (Calcutta, Ấn Ðộ); The Light of Dhamma (Rangoon, Miến
Ðiện); The Middle Way (London,
Anh quốc); The Buddhist (Colombo,
Tích Lan); The World Buddhism (Colombo,
Tích Lan) và The Guardian (Rangoon,
Miến Ðiện) v.. v..:
1. Buddhism as World Religion (Phật Giáo là Tôn Giáo của Thế Giới).
2. Elementary Principles of
Buddhism (Những nguyên lý sơ đẳng của
Phật Giáo).
3. The Twenty-Fifth Century -
Buddhism and the New Age (Thế kỷ thứ Hai
Mươi Lăm - Phật Giáo và Thời Ðại Mới).
4. Buddhism Answers the Marxist
Challenge (Những giải đáp của Phật Giáo
trước sự chống đối của chủ nghĩa Mác-Xít).
Thêm nữa, để tri ân và tưởng
niệm Sugatananda, con người suốt đời hiến thân cho sự nghiệp hoằng truyền chánh
pháp của đức Thế Tôn, phần lớn những bài viết của ông đã được Hội Xuất Bản Kinh
Sách Phật Giáo (Buddhist Publica- tion Society) tại Kandy (Tích Lan) sưu tầm in
thành ba tuyển tập (Collected Writtings) dưới đây:
Vol. I - The Buddhist Outlook (Nhãn Quan Phật Giáo), 1973. Vol. II -
Rebirth as Doctrine and Experience (Luân
Hồi qua Lý thuyết và Kinh Nghiệm), 1974.
Vol. III - Dimensions of
Buddhist Thought (Tư Tưởng Phật Giáo)
1976.