F. MAX
MULLER
(1823-1900)
Giáo sư
Friedrich Max Muller là người Anh, gốc Ðức; sinh ngày 06-12-1823 tại Dessau (Ðông Ðức), con của
ông Wilhelm Muller.
Thân sinh của M. Muller không
những là một thi sĩ tài ba, mà còn là một nhà ngôn ngữ học danh tiếng. Năm 28
tuổi, Wilhelm làm hiệu trưởng trường văn phạm, và sau giữ chức Giám Ðốc một thư
viện tại tỉnh nhà. Thân mẫu của ông cũng là người có học thức và đảm đang. Song
thân của M. Muller đã đặt tên ông “Friedrich” là phỏng theo tên của một người
bạn thân với gia đình ông bà ta là Friedrich Leopold, quận công ở thành phố Dessau bấy giờ.
Cuộc sống gia đình của M. Muller
rất có hạnh phúc, nhưng tiếc rằng hạnh phúc này không kéo dài được bao lâu. Năm
1827, ông Wilhelm qua đời vào lúc 33 tuổi,bỏ lại người vợ trẻ, một bé gái 8
tuổi và Max Muller lúc ấy mới 4 tuổi.
Trong khi gia đình gặp cảnh khó
khăn, bà Wilhelm may mắn đã được nhiều bạn bè giúp đỡ. Bác sĩ Carus, vốn là bạn
thân của Wilhelm đã nhận nuôi M. Muller, đem về nhà và gửi ông ta vào trường
học tại thị trấn Leipzig
(Ðông Ðức).
Vào lúc đó, nhà của Dr. Carus là
nơi gặp gỡ, lui tới của các văn nhân, thi hào và nhạc sĩ nổi tiếng. M. Muller
bấy giờ đã tỏ ra là đứa trẻ có nhiều thiên tài, nhất là âm nhạc; nhưng Felix
Mendelssohn (1809-1847), nhà soạn nhạc danh tiếng thời ấy, lại khuyên M. Muller
đừng theo đuổi con đường học nhạc. Sau cùng, ông quyết định theo học môn ngữ
học (philology).
Năm 17 tuổi, M. Muller ghi tên
vào học đại học Leipzig và năm 20 tuổi (1843), ông ta tốt nghiệp bằng Tiến sĩ
Ngôn Ngữ Học. Ngay lúc nhỏ, ông đã đọc sách, chịu ảnh hưởng tư tưởng của những
nhà trí thức Ðức quốc tiền bối bấy giờ như các triết gia R. Hermann Lotze
(1817-1881), J.G. Von Herder (1744-1803) và đại thi hào J.W. Von Geothe (1749-1832)
v.. v.. là những nhân vật đã từng hâm mộ, ca tụng nền văn học, nghệ thuật tuyệt
vời và những tư tưởng triết học, nghệ thuật tuyệt vời và những tư tưởng triết
học cao siêu cổ thời của Ấn Ðộ. Ông ta cũng đã có dịp thảo luận những vấn đề
triết lý sâu xa với triết gia Ðức theo Phật giáo Arthur Schopenhauer
(1788-1860).
Sau đó, M. Muller đến Bá Linh
(Berlin), tại đây ông được giáo sư Franz Bopp (1791-1867), nhà ngữ học Ðức giới
thiệu, chỉ dẫn về môn ngữ học Ấn-Âu (Indo-European) và học giả Frederick
Ruckert mời ông tham gia công tác văn học, cùng dạy cho M. Muller nghệ thuật
phiên dịch. Ông cũng thích tìm đọc những bài thuyết trình của triết gia Ðức
F.W.J. Von Schelling (1775-1854) và thường kết thân với các bạn của Theodor
Fontane (1819-1898), một thi hào Ðức nổi tiếng và là nhân vật rất tán dương tài
trí của M. Muller.
Nghiên cứu kinh điển Phệ Ðà
(Vedas) và Phật Giáo
Tháng 3 năm 1846, M. Muller đến
Ba Lê (Paris), nơi bấy giờ có nhiều học giả nghiên cứu về Ấn Ðộ (Indologists)
đang sống như Antoine Leonard de Chezy và Eugène Burnouf (1801- 1852), một học
giả người Pháp rất giỏi tiếng Phạn (Sanskrit). Do sự hướng dẫn của giáo sư E. Burnouf, M. Muller bắt đầu nghiên cứu kinh điển Phật
Giáo và Phệ Ðà (Vedas) của Bà La Môn Giáo. Những bài giảng của E. Burnouf về triết lý Phệ Ðà đã mở ra cho M. Muller một
chân trời mới về tư tưởng. Sau đó, ông quyết định sang Luân Ðôn (Anh Quốc), nơi
nguyên bản Phạn ngữ Thánh Tán Ca Rig-Veda, ca tụng những thần linh (Bà La Môn
Giáo) còn tàng trữ tại các thư viện, để phiên dịch các Thánh Tán Ca Ðó ra Anh
văn.
Công Tác Giáo Dục
Tại thư viện Bodleian (thành lập
năm 1601, thuộc đại học Oxford), M. Muller quen
biết với giáo sư Wilson dạy ở đại học Oxford và là nhà soạn dịch
từ Phạn ra Anh văn trường ca Ràmàyana (bà La Môn giáo). Do lời khuyên của Wilson, năm 1848, M. Muller dọn đến định cư tại Oxford (miền trung nam
Anh quốc). Năm 1849, sau khi ấn hành dịch bản (cuốn I) của bộ “Thánh Tán Ca
Rig-Veda”, ông ta được mời giảng dạy về môn ngữ học đối chiếu (Comparative
Philology) tại đại học Oxford.
Từ đó, tiếng tăm của M. Muller bắt đầu vang lừng, được nhiều người trong giới
trí thức biết đến.
Năm 1854, ông làm giáo sư dạy
môn ngôn ngữ Châu Âu hiện đại (Modern European Languages); năm 1856, làm quản
thủ thư viện Bodleian; và năm 1858, ông được mời giữ chức Ủy Viên Giáo Ðốc
trường All Souls College (Thành lập năm 1437 thuộc đại học Oxford).
Năm 1859, Max Muller lập gia
đình với Georgia Grenfell ở Maidenhead (Anh quốc). Từ ngày ấy, ông ta mới thực
sự xem nước Anh như quê hương thứ hai của mình. Trong thời gian này, danh tiếng
của M. Muller ngày càng lên cao đến nỗi ông được mời viết bài thường xuyên cho
tuần báo “The Times” tại Luân Ðôn (London), và trở thành một nhân vật trọng yếu
trong chủ trương mang lại sự hợp tác chặt chẽ, thân thiện giữa hai quốc gia Ðức
và Anh. Nữ hoàng Anh Victoria
(1819-1901) bấy giờ cũng hết sức hâm mộ và kính trọng thiên tài của ông.
Năm 1873, M. Muller là người đầu
tiên không phải giáo sĩ, được ông Dean Stanley mời đến thuyết giảng về tôn giáo
tại thánh đường danh tiếng Westminster Abbey mà tờ báo “The Times” lúc ấy đã
diễn tả xem đó như là “một biến cố đặc biệt” (singular event). Từ năm 1868 đến
1875, ông làm giáo sư dạy môn ngữ học tỷ giảo, và giảng viên môn tôn giáo tự
nhiên (natural religion) tại Ðại học Glasgow
vào những năm 1889-1893.
Những Ðóng Góp Văn Hóa
a) Trước tác, phiên dịch kinh
điển Phật Giáo:
Là một học giả thông suốt cả hai
cổ ngữ Pali và Sanskrit (Phạn), M. Muller đã góp phần to lớn cho nền văn hóa
nhân loại nói chung, và Phật Giáo nói riêng. Ông làm chủ biên Ban Dịch Thuật
toàn bộ “Thánh Thư của Ðông Phương” (The
Sa- cred Books of the East) với sự cộng tác của 20 học giả lỗi lạc
khắp thế giới, để dịch ra Anh văn kinh sách của các tôn giáo lớn: Phật, Khổng,
Lão, Hồi (Islam), Kỳ Na (Jainism), Bà La Môn và Bái Hỏa Giáo (Zoroastrianism)
chép bằng tiếng Trung Hoa, Á Rập (Arabic) và Ấn độ: Prakrit, Pali, Sanskrit
(Phạn) v.. v.. Trong thời gian 34 năm, ông đã cho ấn hành được tất cả 50 quyển.
Sau đó, M. Muller làm chủ biên
ban soạn dịch bộ “Thánh Thư của Phật Tử” (The
Sacred Books of the Buddhists) được khoảng vài năm trước khi ông từ
trần năm 1900, và học giả Rhys Davids (1843-1922) đã tiếp tục thay ông giữ chức
vụ này. Dưới đây là những kinh điển Phật Giáo do Max Muller dịch thuật:
- Dhammapada (Kinh Pháp Cú), dịch
và chú thích từ Pali ra Anh văn (gồm 99 trang) do nhà xuất bản Clarendon Press
tại Oxford ấn hành quyển (Vol.) 10 trong bộ “Thánh Thư của Ðông Phương” (The
Sacred Books of the East, viết tắt S.B.E.) năm 1881.
- The Larger
Sukhàvati-Vyùha-Sùtra (Description of The
land of Bliss): Kinh Ðại Vô Lượng
Thọ. Bản kinh này nguyên chép bằng tiếng Phạn, M. Muller tìm thấy tại một ngôi
chùa ở Nhật Bản.
- The Smaller Sukhàvati-Vyùha
Sùtra (Scripture of the Buddha of
Infinite Light): Kink A Di Ðà
- The Vajrakkedika Sùtra (The Scripture of Diamond Cut-ter): Kinh
Kim Cang.
- The Prajna-Pàramità-Hridaya
Sùtra (The Heard Scrip- ture):
Bát Nhã Tâm Kinh, gồm có hai bài ngắn (The Smaller) và dài (The Larger).
Tất cả bốn kinh trên, M. Muller
dịch từ nguyên bản tiếng Phạn (Sanskrit) ra Anh văn, cho in chung với
“Buddha-Carita Sùtra” (The Life of Buddha):
Phật Sở Hành Tán Kinh (do E. B. Cowell dịch); và “The Amitayùr-Dhyàna-Sùtra” (Scripture of Meditation on Buddha):
Quán Vô Lượng Thọ Kinh (J. Takakusu dịch) thành một tập mang tựa đề “Bud- dhist
Mahayana Texts” (Kinh Ðại Thừa Phật Giáo)
xuất bản tại Oxford năm 1894, quyển (Vol.) 49 trong bộ “Thánh Thư của Ðông
Phương” (S.B.E.). M. Muller còn là tác giả của nhiều bài tiểu luận, khảo cứu
Phật Học sâu sắc đăng tải ở các tập san Phật giáo và “Nghiên cứu Ðông Phương”
(bằng Anh ngữ) khắp nơi.
b) Phiên dịch kinh sách Bà La
Môn Giáo:
Ngoài ra, M. Muller cũng đã đóng
góp cho sự hiểu biết của mọi người về tư tưởng Bà La Môn giáo qua công trình
lớn lao của ông là đã dành 25 năm (1849-1874) để phiên dịch từ tiếng Phạn ra
Anh văn bộ “Thánh Tán Ca Rig-Veda”
gồm 6 quyển. Bộ sách này được ấn hành tại Oxford
do sự tài trợ giúp đỡ của ông đại sứ nước Phổ (Prussia, ở Châu Âu), C.K.J. Baron
Von Bunsen, và Công ty Ðông Ấn (East Indian Company).
M. Muller cũng dịch bộ sách
triết học Upanisad (Áo Nghĩa Thư) của đạo Bà La Môn, do nhà xuất bản Ðại học Oxford ấn hành thành hai
quyển 1 (năm 1879) và 15 (năm 1884) trong bộ “Thánh Thư của Ðông Phương”. Hơn
nữa, ông còn là bút giả của những tác phẩm giá trị dưới đây:
- 1856: Comparative Mythology (Thần Thoại Ðối Chiếu)
- 1859: History of Ancient
Sanskrit Leterature (Cổ Phạn Văn Học Sử)
- 1861-1863: Lectures on the
Science of Language (Những bài thuyết
trình về Khoa học Ngôn ngữ)
- 1873: Introduction to the
Science of Religion (Khoa Học Tôn giáo
Nhập Môn).
- 1884: Biographical Essays (Luận Văn Tiểu Sử)
- 1899: The Six Systems of
Indian Philosophy (Sáu hệ phái triết học
Ấn Ðộ).
Trong số những sách của M.
Muller, tác phẩm bán chạy và được nhiều độc giả thích đọc nhất là cuốn “India
- What Can It Teach Us?” (Ấn độ có thể
dạy chúng ta điều gì?). Nhiều người đọc xong cuốn sách sẽ không còn
có thành kiến xấu đối với Ấn Ðộ; và kinh ngạc thấy ông, mặc dù không sinh
trưởng tại Ấn, đã có thể diễn tả sống động, đầy đủ chi tiết về đất nước cũng
như dân tộc Ấn Ðộ. Khi còn trẻ, M. Muller không có tiền đến viếng xứ này; nhưng
về sau có tiền, ông lại không có thì giờ.
M. Muller đã mến yêu quê hương
Ấn Ðộ như chính xứ sở của mình mà trong cuốn sách trên, có đoạn ông đã viết hết
sức thành thực và cảm động: “Như các học giả thời quá khứ xa xưa muốn đến viếng
Rome (nước Ý) hoặc Athens (Hy Lạp); cũng thế, tôi ước mong (qua Ấn) để nhìn
thấy thành phố Ba La Nại (Benares) và tắm trong dòng nước Thánh của sông Hằng”
(Just as scholars of the ancient
classical days longed to see Rome or Athens, so do I long to see Benares and to
bath in the Holy waters of the Ganges).
Ðối trước những vấn đề khó khăn
cũng như thuận lợi của Ấn độ, M. Muller luôn có cái nhìn của một người Ấn yêu
nước (patriotic Indian). Cho nên đồng bào Ấn đã thương kính và xem M. Muller
như một người bạn vĩ đại, chân thành của dân tộc họ.
Max Muller qua đời tại Anh quốc
năm 1900, để lại nhiều tiếc thương cho các học giả, văn nhân và trí thức Phật
Giáo cũng như các tôn giáo khác. Riêng hàng Phật tử chúng ta “Uống nước nhớ
nguồn” sẽ không bao giờ quên ơn M. Mull- er, một nhà Ấn Ðộ học lỗi lạc, một học
giả Phật Học uyên thâm tài ba, đã góp phần to lớn vào công trình phiên dịch các
kinh điển Phật Giáo đại thừa từ Phạn ra Anh văn; cũng như xây nền đắp móng cho
sự thành lập, phát triển và truyền bá đạo Phật đến đông đảo quần chúng Phật tử
tại các nước Tây Phương trong gần một thế kỷ qua.