EDWIN
ARNOLD
(1832-1904)
Edwind
Arnold sinh ngày 10 tháng 7 năm 1832 tại Gravesend, quận Kent (đông nam nước
Anh), con thứ hai của ông Robert Coles Arnold và bà Sarah Pizzey ở Framfield,
quận Sussex (vùng đông nam Anh Quốc).
Thân phụ của Arnold sanh năm 1797 là con út của một gia
đình gồm có 12 anh em. Edwin Arnold thuở nhỏ sống với cha và gia đình ở nông trại
Southchurch Wick tại quận Essex (đông nam nước
Anh). Những núi đồi, đồng cỏ xanh bát ngát nơi thôn quê đã ảnh hưởng nhiều đến
tuổi trẻ của ông. Arnold
yêu thiên nhiên và biển cả. Ông rất dở toán, nhưng giỏi môn học cổ điển
(classics), lại có tâm hồn thi sĩ, thích làm thơ. Năm 17 tuổi, giữa mùa thu năm
1849, Arnold
được cấp học bổng và chiếm giải thưởng về các bài văn xuôi, văn vần bằng Anh
văn và cổ ngữ La tinh. Ông cũng có khiếu về ngôn ngữ học và biết ít nhất là 19
thứ tiếng.
Về đời sống tinh thần, Arnold chịu ảnh hưởng sâu
đậm Phật Giáo sau khi tìm đọc một số sách Phật của các học giả Phật tử bấy giờ.
Từ ngày hiểu đạo, Arnold
bắt đầu chấm dứt việc đi săn bắn các loài vật, chim muông, vốn là thú vui của
ông lúc tuổi còn thanh niên.
Sau khi hoàn tất chương trình
tiểu học tại trường King ở Rochester, quận Kent (miền đông nam nước Anh),
Arnold vào học đại học London (thành lập năm 1836), tại đây ông được cấp học
bổng nhận vào đại học College (thành lập năm 1249) ở Oxford (trung nam Anh
quốc). Thời gian này, ông sống chung cùng phòng với nữ thi hào Anh, bà M.W.
Shelley (1797-1851). Bài thơ đầu tiên Arnold
sáng tác mang tựa đề: “The Feast of the Belshazzar” (Buổi tiệc của Belshazzar)
đã chiếm được giải thưởng văn chương Newdigate vào năm 1852.
Năm 22 tuổi, Arnold lập gia đình với Catherine Elizabeth
Biddulph, chị của một sinh viên bạn ông. Sau khi tốt nghiệp đại học, Arnold
được mời làm giáo sư dạy ở trường King Edward VI tại Birmingham (miền trung Anh
quốc), đến năm 25 tuổi ông xin nghỉ dạy. Tháng 11 năm 1857, Arnold
sang Ấn Ðộ nhận giữ chức viện trưởng đại học Deccan ở Poona
(tiểu bang Maharashtra, miền tây Ấn Ðộ). Cùng
đi với ông có cô vợ Catherine và bé trai đầu lòng Lester.
Sùng Kính Các Tôn Giáo Ðông
Phương
Theo tài liệu trong tập “The
Cabinet Portrait Gallery” xuất bản năm 1893 cho biết thời gian Arnold sống tại
Ấn Ðộ “đã giúp ông rất nhiều trong sự
phát triển tinh thần, văn chương cũng như lòng tôn kính các đạo giáo Ðông
Phương mà chúng đã ảnh hưởng sâu xa đến văn nghiệp sau này của ông”.
Làm Báo Và Khảo Cổ
Năm 1861, Arnold
trở lại Anh quốc và được mời cộng tác viết bài cho tờ “Ðiện Tín Hằng Ngày” (The Daily Telegraph) tại Luân Ðôn (London). Sau đó, ông nhận
làm chủ bút cho nhật báo này trong suốt 40 năm liền. Năm 1893, ông qua
Constantinople nhận làm chuyên viên kỹ thuật cho hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey) để khám phá khai quật các thành phố xưa
bị chôn vùi ở thị trấn Assyria (một vương quốc
cổ nằm trong vùng tây nam Á châu). Công tác này của Arnold đã mở đầu một trang sử mới cho Anh
Quốc trong việc khảo cứu lịch sử của một nền văn minh nhân loại thời xa xưa.
Ði Nhiều, Học Nhiều
Có thể nói Arnold là con người
đa dạng, có nhiều tài ba và tích cực hoạt động, ham đi, thích viết, như Lester,
con trai của ông đã kể trong một câu chuyện về ông như sau: “Arnold đi khắp nơi, học các thứ tiếng, đọc mọi điều
và viết đủ loại; hôm nay là ký giả thuần túy, ngày mai là tư tưởng gia, bữa nọ
lại trở thành nhà thơ v.. v..”.
Nghiên Cứu Triết Lý, Chính Trị,
Khoa Học
Arnold cũng
thích nghiên cứu về khoa học, chính trị v.. v.. Nhiều nhà khoa học, chính trị,
triết gia người Anh nổi tiếng bấy giờ là bạn thân của ông và ông thường liên
lạc qua thư từ để thảo luận với họ về các vấn đề trên. Một số quý vị trong đó
là nhà vạn vật học Thomas H. Huxley (1825-1895), triết gia Herbert Spencer
(1820-1903), nhà bác vật học Charles R. Darwin (1809-1882), chính trị gia John
Stuart Mill (1806-1873) và nhà hóa học William Crookes (1832-1919). Ông còn
thích tìm hiểu về thuyết duy linh và là hội viên của Hội Nghiên Cứu Tâm Thần
Học (Society for Psy- chical Research),
đã từng kết bạn với các đại thi hào Anh quốc Lord Tennyson (1809-1892); nhà tâm
lý học kiêm triết gia Mỹ William James (1842-1910) và Andrew Lang (1844-1912)
nhà văn kiêm học giả Tô Cách Lan (Scotland).
Những Ðóng Góp Cho Phật Giáo Của Edwin Arnold
- Sáng tác thi phẩm “The Light of Asia”
(Ánh Sáng của Á Châu)
Arnold đã viết
tác phẩm này phần lớn tại Hamlet House, gần Southend thuộc quận Essex (miền đông nam nước Anh). Vào thời điểm hậu bán thế
kỷ 19, Phật Giáo còn quá xa lạ với người Âu Mỹ vì kinh sách Phật Giáo bằng Anh
văn và các ngôn ngữ Châu Âu khác còn khan hiếm, thi phẩm “Ánh Sáng Á Châu” của
Arnold xuất bản đầu tiên năm 1879 là món quà pháp bảo quý báu đã góp phần to
lớn cho sự truyền bá Phật Giáo tại các nước Tây Phương.
Bằng những vần thơ linh động,
trong sáng đầy tình cảm diễn tả cuộc đời của đức Phật từ lúc đản sinh đến khi
Ngài nhập Niết bàn đã thu hút sự chú ý say mê của độc giả từ đầu tới cuối. Cuốn
sách dày 177 trang, không kể lời nói đầu của tác giả và bài giới thiệu của ông
E. Denison Ross, giám đốc trường Luân đôn Nghiên cứu Ðông Phương (London School
of Oriental Studies); với tổng cộng khoảng 5.300 dòng và 41.000 chữ. Tác phẩm
được chia ra làm 8 chương như sau:
Chương 1: Diễn
tả sự ra đời và giai đoạn ấu niên của thái tử Cồ Ðàm (Gotama).
Chương 2: Cuộc
sống của thái tử từ lúc 18 tuổi đến khi Ngài kết hôn với công chúa Da Du Ðà La.
Chương 3: Thời
gian thái tử sống trong cung điện hưởng mọi thú vui bên cạnh công chúa Da Du Ðà
La đến lúc Ngài dạo chơi ra ngoài thành tiếp xúc với bốn cảnh sanh, già, bệnh,
chết và giải thoát của vị Sa Môn.
Chương 4: Thái
tử nhìn vợ con lần cuối, nửa đêm vượt thành xuất gia tầm đạo giải thoát để cứu
độ chúng sanh.
Chương 5: Thái
tử tu khổ hạnh trong rừng với các tu sĩ ngoại đạo khác.
Chương 6: Sau
khi dùng bát cháo sữa dâng cúng của nàng Tu Già Ða (Sujata), thái tử đã chiến
thắng Ma Vương, thành Ðạo dưới cội Bồ đề.
Chương 7: Cảnh
buồn khổ của vua cha Tịnh Phạn; vợ, công chúa Da Du Ðà La; và con, La Hầu La,
sau bảy năm vắng bóng thái tử Tất Ðạt Ða.
Chương 8: Ðức
Phật thành lập đoàn thể Tăng Già và truyền bá chánh pháp cho dân chúng.
Ðây là cuốn sách được phát hành
phổ biến rộng rãi nhất so với các tác phẩm Phật Giáo khác bấy giờ, với sự hưởng
ứng tìm đọc của hầu hết độc giả Phật tử khắp nơi trên thế giới. Ấn bản đầu tiên
năm 1879 đã thu được kết quả rực rỡ ngoài sức tưởng tượng, và chỉ trong vòng
một năm đã tái bản lần hai. Sau 5 năm, thi phẩm được Arnold sửa chữa lại và ông
cho nhà xuất bản Trubner tại Luân Ðôn (Anh quốc) giữ bản quyền, đã phát hành được
hơn 30 ấn bản từ năm 1885 đến nay.
Tại Hoa kỳ, các nhà xuất bản đã
cho in lại, phát hành trong nghiều năm nguyên bản đầu tiên (chưa sửa chữa) của
tác phẩm này. Tại Anh đến năm 1970, cuốn sách đã in đến lần thứ 60 và tại Mỹ,
số người đọc thi phẩm nhiều gấp bội, đã xuất bản đến ấn bản thứ 80. Hiện nay,
tác phẩm vẫn còn được các nhà xuất bản tại Hoa Kỳ và Anh quốc giữ bản quyền và
tiếp tục cho in lại nhiều lần, con số sách bán ra đến hàng triệu cuốn.
Thực vậy, giá trị vĩnh cửu của
tác phẩm đã được bày tỏ một phần qua lời nói đầu của chính tác giả: “Những vần thơ sau đây bằng óc tưởng tượng của một
Phật tử nhiệt thành, tôi đã diễn tả cuộc đời, nhân cách và triết lý của một
đấng siêu nhân và cách mạng tuyệt luân của thái tử Cồ Ðàm (Gau- tama) của Ấn
Ðộ, người đã sáng lập nên Phật Giáo. Thế hệ trước đây, rất ít và không ai ở
Châu Âu biết đến tôn giáo vĩ đại này của Ấn Ðộ, mặc dù nó đã tồn tại 24 thế kỷ
qua... Bốn trăm bảy mươi triệu tín đồ đã sống và chết trong giáo lý của đức
Phật, và ảnh hưởng tinh thần của vị giáo chủ xa xưa này đến nay vẫn còn lan
rộng từ Nepal, Tích Lan đến Trung Hoa, Nhật Bản, Tây Tạng, Trung Á, Xi-bê-ri
(Siberia) và cả Thụy điển v.. v.. Cho nên, hơn phần ba nhân loại đã tiếp nhận
những ý tưởng đạo đức từ vị thái tử siêu việt này...”
Và trong phần giới thiệu về tác
phẩm, Denison Ross cũng đã viết: “Ánh
Sáng Á Châu... với những tên gọi, danh từ Phạn ngữ mới lạ đã đạt được thành quả
nhanh chóng, là một bằng chứng cho thấy câu chuyện do tác giả kể khá hấp dẫn và
cuốn sách rõ ràng là có giá trị. Những lời dạy luân lý của đức Phật rất quen
thuộc với Tây Phương, song những cảnh trí và biểu tượng của Ấn Ðộ thì quá mới
lạ với mọi người; trong khi cuộc sống thực tế của thái tử Cồ Ðàm đã trình bày
một tấm gương đạo đức toàn hảo đối trước hàng ngàn độc giả... Tác phẩm, tôi
nghĩ... chứa đựng những vần thơ trong sáng, đẹp đẽ cũng như sự diễn tả đầy đủ
nhất bằng ngôn ngữ của chúng ta về cuộc đời đức Phật... Ðối với một số người,
thực vậy, cuốn sách đã gây nên sự ngạc nhiên lớn lao về cái điều là 5 thế kỷ trước
Chúa Giê-Su (Christ) ra đời, đức Thế Tôn đã dạy tất cả những lời khuyên đạo đức
căn bản của Thiên Chúa Giáo...”
Thi phẩm “Ánh sáng Á Châu” sau 8
năm ra đời, lần đầu tiên được bác sĩ Arthur Pfungst, một sinh viên Phật Giáo,
dịch ra tiếng Ðức từ ấn bản thứ 24 của tiếng Anh; và dịch bản này đã phát hành
tại Leipzig (trung nam Ðông Ðức) vào năm 1887 với sự hưởng ứng tìm đọc của đa
số dân chúng bấy giờ. Năm 1891, bản dịch Ðức ngữ thứ hai do Konrad Wernicke
thực hiện, có thêm lời chú thích. Cuốn sách đã được Albrecht Schaeffer dịch ra
tiếng Ðức lần thứ ba mang tựa đề: “Das
Kleinod in Lotos”, xuất bản năm 1923. Thi phẩm này cũng đã được
dịch ra tiếng Hòa Lan năm 1895, tiếng Pháp năm 1899, tiếng Tiệp Khắc năm 1906,
tiếng Ý năm 1909, và sau đó là tiếng Thụy Ðiển và thế giới ngữ (Esperanto).
Tác phẩm “Ánh sáng Á Châu” đã
được quay thành phim tại Ấn Ðộ với sự giúp đỡ cung cấp các vật dụng cần dùng
cho việc đóng phim như y phục, voi, lừa và ngựa của vị Ðại Vương thị trấn
Jaipur, thủ phủ của tiểu bang Rajasthan, miền tây bắc Ấn. Cuốn phim đã được
chiếu tại Boston (Hoa Kỳ) năm 1929. Cuốn sách cũng đã được bà G. Jones Walton ở
Mỹ viết thành kịch và lần đầu tiên năm 1918 được trình diễn tại California, kéo
dài liên tiếp trong 35 đêm. Ngoài ra, thi phẩm cũng đã được phổ thành nhạc. Tất
cả những phim kịch bản và nhạc khúc này đã được chuyển âm, dịch ra hơn 7 thứ
tiếng Châu Âu, nhờ vậy mà Phật Giáo ngày càng được nhiều người biết đến ở Tây
Phương. Năm 1879, vua Thái Lan Rama V (Chulalongkorn, trị vì: 1868-1910) đã
viết thư cám ơn và tán dương công đức đóng góp truyền bá Phật Giáo của Arnold
qua tác phẩm “Ánh Sáng Á Châu” (The Light
of Asia), và đức vua đã cấp thưởng cho ông một huân chương “Bạch
Tượng” (White Elephant).
Những Nhà Phê Bình Về Tác Phẩm “Ánh Sáng Á Châu”
Một thời gian sau khi cuốn “Ánh
Sáng Á Châu” (The Light of Asia)
của Arnold ra
đời, ảnh hưởng của nó thật to lớn, nhiều nhà bình luận đương thời đã lên tiếng
khen lẫn chê về tác phẩm này.
Trước hết, nhà văn Mỹ Oliver
Wendell Holmes (1809-1894), giáo sư dạy đại học Harvard (Hoa Kỳ) đã đề cao giá
trị của tác phẩm như cuốn Tân Ước Kinh (New
Testament) của Thiên Chúa Giáo. Richard Henry Stoddard đã so sánh
thơ của Arnold
với các thi hào Anh quốc như C.G. Rossetti (1830-1894) và A. C. Swinburne
(1837- 1909) v.. v..
Người đã tấn công mạnh nhất xem
cuốn “Ánh sáng Á Châu” như
một tài liệu chống đạo Thiên Chúa (antichrist)
là W.C. Wilkinson. Trong tập sách “Edwin
Arnold as Poet- izer and Paganizer” (Arnold, nhà thơ và kẻ theo tà đạo), ông viết: “Sự xuất bản tác phẩm của Arnold đã xảy ra cùng lúc
với việc phát triển, cả tại Hoa Kỳ và Châu Âu, về tánh hiếu kỳ và lòng ham
thích muốn tìm hiểu các tôn giáo vô thần, đặc biệt nhất là Phật Giáo. Ánh Sáng
Á Châu đã đáp ứng tốt đẹp khát vọng nhất thời này của người Tây Phương. Vì thế,
tôi nghĩ rằng cuốn sách sẽ được nhanh chóng phổ biến cho người Mỹ tìm đọc. Và
ông Arnold hẳn nhiên, do bởi thiên tài hoặc may mắn, đã vượt trội hơn những tác
giả khác, trong phương cách mở rộng sự thu hút các độc giả Hoa Kỳ chuẩn bị tiếp
nhận đầy thiện cảm giáo lý của đức Phật...”
Và ông Samuel Kellogg cũng báo
động về sự ấn hành cuốn “Ánh Sáng Á Châu”. Trong tập sách ông viết nhằm chống
lại điều gọi là “Sự đe dọa của Phật Giáo” (The
Buddhist Menace), Kellogg trình bày: “Sự ham thích nghiên cứu đạo Phật của số người trí thức tại các quốc
gia theo thiên chúa giáo là một trong những hiện tượng tôn giáo đặc biệt và hấp
dẫn của thời đại chúng ta. Tại Hoa Kỳ, sự hâm mộ này chỉ có giới hạn nơi một số
người tự nghĩ rằng họ hiểu biết chút ít về Phật Giáo, nhưng từ năm 1879 sau khi
ông Arnold cho ấn hành cuốn Ánh Sáng Á Châu’, mức độ quần chúng muốn hiểu biết
Phật Pháp đã gia tăng. Nhiều người... đã bị lôi cuốn bởi những vần thơ hay đẹp
đầy quyến rủ của Arnold.
Sự phát hành những ấn bản rẻ mạt của tập sách, chỉ bán có vài xu một cuốn, đã
khiến cho đại đa số quần chúng chưa biết gì về đạo Phật, nay họ chú ý nhiều hơn
đến tôn giáo này...”
Nhưng Arnold chẳng cần để ý gì
đế sự phê bình chỉ trích khen chê của thiên hạ, vì tự biết rằng đã có số đông
nhiệt tình ủng hộ tìm đọc thi phẩm của ông.
Viếng Thăm, Thuyết Giảng Phật Giáo Tại Các Nước Á
Châu. Góp Phần Tranh Ðấu Giành Lại Chủ Quyền Thánh Tích Bồ Ðề Ðạo Tràng (Bodh
Gaya) Tại Ấn Ðộ.
Sự thành công rực rỡ của tác
phẩm “Ánh Sáng Á Châu” đạt đến cao điểm của nó với nhiều người tìm đọc là vào
giữa năm 1884 và 1885. Nhờ vậy mà Phật tử khắp nơi trên thế giới đã ca tụng xem
Arnold như nhà
vô địch truyền bá đạo Phật lúc bấy giờ. Ông được các tổ chức Phật Giáo tại
Ấn-Ðộ, Tích Lan, Miến Ðiện và Thái Lan mời sang thăm để thuyết giảng về đạo
Phật. Arnold đã đến chiêm bái các Phật tích Ấn Ðộ như vườn Lộc Uyển (Sarnath),
nơi đức Phật thuyết Pháp đầu tiên và Bồ Ðề Ðạo Tràng, nơi đức Phật thành Ðạo.
Bồ Ðề Ðạo Tràng (Bodh Gaya) từ cuối thế kỷ 16 về trước thuộc quyền kiểm soát
của Phật tử, nhưng vào lúc Arnold đến viếng, thánh địa này lại nằm trong tay
chiếm đoạt của các ông Mahant theo Ấn Ðộ Giáo. Ðại Ðức Tích Lan Ana- garika
Dharmapala (1864-1933) đầu tiên đến chiêm bái Bồ Ðề Ðạo Tràng năm 1891 thấy
tình trạng đau lòng như vậy nên đã phát nguyện quyết tâm tranh đấu gianh lại
chủ quyền thánh địa này cho các Phật tử.
Năm 1893, Arnold đã hưởng ứng
tiếp tay với Ðại Ðức Dharmapala bằng cách viết một bài báo mang tựa đề: “East
and West: A Spendid Opportunity (Ðông và
Tây: Một Cơ hội Thuận lợi) và cho đăng trên nhật báo “Ðiện Tín Hằng
Ngày (The Daily Telegraph) của ông, nhằm đưa vấn đề trên ra trước dư luận Phật
Giáo thế giới và ủng hộ lập trường của ngài Dharmapala, là cương quyết yêu cầu
các ông Mah- ant (theo Ấn Giáo) phải hoàn trả quyền làm chủ, kiểm soát thánh
tích Bồ Ðề Ðạo Tràng cho các Phật tử. Sau đó, để rộng đường dư luận, bài báo đã
được tái đăng ở tập san “East and West” (Ðông và Tây) và tạp chí Phật Giáo của
Hội Ma Ha Bồ Ðề (The Maha Bodhi Society), phát hành tại Calcutta, thủ đô của tiểu
bang West Bengal (miền đông Ấn Ðộ).
Từ Ấn Ðộ, Arnold
qua thăm Tích Lan (Sri Lanka)
và mang theo mấy chiếc lá bồ đề ông hái từ cây Bồ Ðề chính ở Bồ Ðề Ðạo Tràng.
Nơi đầu tiên ông đến viếng là thị trấn Pan- adura, tại đây Arnold được nhà sư kiêm học giả tiếng Pali,
thượng tọa Sumangala cùng với hàng ngàn chư Tăng, thiện nam tín nữ đón tiếp vô
cùng trọng thể. Trong bài diễn văn chào mừng của các đoàn thể Phật Giáo Tích
Lan, có đoạn viết: “Sự xuất hiện của học
giả Arnold đã
làm lu mờ danh tiếng của các nhà trí thức khác như ngọn núi kim cương đã che
khuất sự rực rỡ, chói sáng của các loại đá quý thường”. Sau hai giờ
thảo luận với Thượng Tọa Sumangala, nhà lãnh đạo Phật Giáo cao cấp của Tích
Lan, Arnold đã trình bày về tình trạng đáng buồn xảy ra ở Bồ Ðề Ðạo Tràng và
góp ý vấn đề cần được giải quyết êm đẹp giữa các ông Mahant (Ấn Giáo) với chính
quyền Ấn Ðộ. Ông cũng đề nghị nên đặt chùa Bồ Ðề Ðạo Tràng dưới sự quản trị của
một Hội Ðồng gồm nhiều đại diện các quốc gia Phật Giáo.
Sau cùng, đáp lời thỉnh cầu của
chư Tăng và Phật tử Tích Lan, qua nhật báo “Ðiện Tín Hằng Ngày” của mình,
Arnold đã đạo đạt ý kiến trên lên quý ông thống đốc của Tích Lan và tiểu bang
Madras (miền nam Ấn Ðộ).
Từ Panadura, Arnold trở lại
Colombo (thủ đô Tích Lan) thăm trường đại học Ðông Phương Vidyodaya Pirivena,
tại đây ông được các học giả, chư Tăng và đông đảo thiện nam tín nữ, trong đó
có đại tá H.S. Olcott (1832-1907), một Phật tử Hoa Kỳ, niềm nở tiếp đón. Sau
đó, Arnold đến thăm Kan- dy (miền trung Tích Lan), nơi có chùa
thờ xá lợi “Răng của Phật”. Tại đây, ông cũng được chư Tăng và dân chúng Phật
tử nhiệt liệt chào mừng vô cùng cảm động. Ông đã tặng cho chùa Kandy những lá
bồ đề ông mang qua từ Ấn Ðộ. Những lá bồ đề này được đặt trong một cái hộp bằng
vàng cho Phật tử lể bái suốt tuần lễ. Ðáp lại, các thượng tọa chùa Kandy đã tặng ông một
bình bát và một chiếc y màu vàng.
Arnold đầu
tiên qua thăm Nhật Bản vào năm 1889. Trong một buổi diễn thuyết tại đây, ông đã
kêu gọi Phật tử Nhật nên lưu tâm đến những quyền lợi thiêng liêng của Phật tử
tại các thánh tích Phật Giáo ở Ấn Ðộ, và sau đó một Hội Phật giáo đã được thành
lập tại Nhật nhằm hoạt động cho quyền lợi của Bồ Ðề Ðạo Tràng. Lần thứ hai, Arnold trở sang thăm Nhật
vào năm 1892. Trong một buổi họp mặt đông đảo, ông tuyên bố rằng ông sẵn sàng
hy sinh, cả mạng sống nếu cần, cho quyền lợi thiêng liêng của đất thánh Phật
Giáo. Arnold đề
nghị Hội Phật Giáo Nhật Bản nên mua đất lập chùa và gửi chư Tăng qua thường trú
tại Bồ Ðề Ðạo Tràng. Ðặc biệt, nhân dịp trở qua Nhật lần này, Arnold đã làm lễ kết hôn với một cô gái Nhật
trẻ đẹp mới 20 tuổi tên Tama Kurokawa. Sau đó, ông đưa cô ta về sống ở Luân Ðôn
chung với gia đình mấy người con của ông.
Du Thuyết Tại Hoa Kỳ
Do lời mời của Charles William
Eliot (1834-1926), viện trưởng đại học Harvard ở Boston (tiểu bang
Massachussetts), Arnold đã qua thăm Hoa kỳ vào ngày 22 tháng 8 năm 1889. Trong
dịp này, ông đã đến thăm tòa Bạch Ốc ở Hoa Thịnh Ðốn, tại đây Arnold được Benjamin Harrison (1833-1901), vị
tổng thống thứ 23 của Hoa kỳ tiếp đón trọng thể. Sau đó, ông đến thăm đại thi
hào Mỹ Walt Whitman (1819-1892) ở Philadelphia,
lúc ấy đã già, và Arnold
có đọc lên cho Whitman nghe một vài trang trong thi phẩm “Ánh Sáng Á Châu” của
ông. Cuối tháng 9, Arnold đến thăm ông viện trưởng đại học Harvard C.W. Eliot và
gặp các nhân vật nổi tiếng của Hoa kỳ như các ông Oliver Wendell Holmes
(1841-1935), nhà văn kiêm giáo sư đại học Harvard, đại thi hào J.G. Whittier
(1807-1892) v.. v.. Tháng 10 năm 1889. Arnold được mời thuyết giảng hai lần ở
Sand- ers Theatre tại đại học Harvard, một hôm về đề tài triết lý Áo Nghĩa Thư
(Upanishads) và ngày khác về
tư tưởng triết học trong Ðại Thi Tập Mahabharata
của Ấn Ðộ.
Cuối năm 1891, Arnold trở qua thăm Hoa kỳ lần thứ hai trong
chuyến du thuyết do James Burton Bond tổ chức. Ông được mời thuyết trình ở Hàn
Lâm Viện âm nhạc ở Philadel- phia. Buổi nói chuyện của ông kéo dài hai tiếng
rưởi đồng hồ, có rất đông người đến dự thính. Tiếp đến, ông đi giảng ở New York, Boston, Cambridge rồi trở lại Philadelphia. Ban đầu ông dự tính sẽ thuyết trình
khoảng 50 bài giảng, sau thể theo lời yêu cầu của thính giả, ông có ý định sẽ
tăng số bài thuyết giảng lên đến 100. Tuy nhiên, sau đó vì sức khỏe kém, ông
không thể tiếp tục cuộc du thuyết nên đành bỏ dở nửa chừng. Cuối cùng, trước
khi rời Mỹ, Arnold
đã ghé lai chơi vài ngày với người bạn triệu phú của ông là Andrew Carn- egie
(1835-1919).
Những Ðóng Góp Văn Hóa
Ngoài thi phẩm nổi tiếng “Ánh
Sáng Á Châu”, Arnold
còn là bút giả của những tập thơ và tác phẩm giá trị dưới đây:
- 1852: Thi tập “The Feast of
Belshazzer” (Buổi tiệc của Belshazzer)
- 1853: Poems Narrative and
Lyrical (Những vần thơ tự thuật và trữ
tình).
- 1875: The Indian Song of Songs
(Những bài ca Ấn Ðộ)
- 1881: Indian Poetry (Thi Ca Ấn Ðộ)
- 1891: The Light of the World (Ánh Sáng của Thế Giới)
- 1891: Seas and Lands (Biển Cả và Ðất Liền)
- 1893: Adzuma, a Japanese
Tragedy (Adzuma, thảm kịch của Nhật Bản).
Arnold còn viết thiên khảo luận
về “Nền giáo dục ở Ấn Ðộ” (Education in
India), một bộ sử gồm hai tập về “Tổ chức hành chánh của Lord Dalhousie
(1812-1860)”, vị phó vương của Ấn Ðộ. Ông cũng soạn cuốn “Văn phạm tiếng Thổ
Nhĩ Kỳ” (Turkish Grammar) vào
năm 1877, và dịch từ tiếng Phạn (Sanskrit) tập tiểu luận về các thi hào Hy Lạp
(Greek Poets) v.. v..
Sự đóng góp phong phú và đa dạng
của Arnold vào những công trình khảo cứu và kiến thức của nhân loại đã giúp ông
đạt được sự khâm phục và kính trọng của nhiều nhân vật danh tiếng bấy giờ như
nữ hoàng Victoria (1819-1901) của Anh quốc cùng vua các nước Ba Tư (Persia),
Thổ Nhĩ Kỳ và Nhật Bản v.. v..
Những Ngày Cuối Cùng
Sau bao nhiêu năm hoạt động cho
nền báo chí, văn học nghệ thuật và lý tưởng Phật Giáo, không ngừng du thuyết
khắp nơi để gieo rắc ánh đạo vàng của đức Thế Tôn đến với mọi người từ Âu sang
Á, Arnold đã ngã bệnh trong vòng một tuần lễ. Sau đó, sức khỏe của ông sa sút
lần đến ngày 24 tháng 3 năm 1904, ông từ trần một cách an lành tại Luân Ðôn
(Anh quốc), hưởng thọ 72 tuổi. Trước khi mất, Arnold dặn người thân là nên hỏa táng, vì ông
muốn được cảm thấy thân xác mình từ từ trở thành tro bụi trong thế giới vô
thường khổ đau mà mọi người ai cũng phải một lần lìa bỏ để vĩnh viễn ra đi.
Ðại
thi hào Arnold hiện nay đã không còn ở thế gian này với chúng ta, nhưng sự
nghiệp hoằng pháp to lớn qua tác phẩm “Ánh Sáng Á Châu” (The Light of Asia) nổi tiếng của ông,
đã bất diệt đi vào lịch sử Phật Giáo nói riêng cũng như văn hóa nhân loại nói
chung. Những người con Phật hôm nay, dù Âu Mỹ hay Á Châu, không ai có thể phủ
nhận giá trị đóng góp của Arnold cho việc truyền bá giáo lý đức Phật đến với
mọi người vào giai đoạn mà Phật Giáo vẫn còn mới mẻ, xa lạ đối với đa số dân
chúng Tây Phương khi ông ta sáng tác thi phẩm “Ánh Sáng Á Châu” này. Với sự qua
đời của Edwin Arnold bấy giờ, nhân loại thực sự đã mất đi một nhà thơ, nhà văn,
ký giả tài ba lỗi lạc; và thế giới Phật Giáo vắng bóng một đạo hữu chân thành,
một vị hộ pháp trung kiên, đắc lực, đã đem hết thi tài của mình để góp phần xây
dựng, phục vụ cho đạo pháp và chúng sanh.