BHIKKHU
SILACARA
(1871-1951)
Tục danh
là J. F. McKechnie, Ðại Ðức Silàcàra là một vị tăng Anh quốc, đã đóng góp cho
Phật Giáo rất nhiều tại các quốc gia Ðông lẫn Tây Phương hơn một phần tư của
thế kỷ XX vừa qua.
Sinh năm 1871 tại Hull, miền đông nam Yorkshire,
Anh quốc. McKechnie mang trong mình dòng máu của song thân gồm cả hai dân tộc
nước Anh và Tô Cách Lan (Scottish- English parents). McKechnie mồ côi cha từ
nhỏ, và được chú thím ông mang về nuôi trong nhà.
Lúc còn thanh niên, ông phải đi
làm trong hãng sản xuất quần áo để tự kiếm sống, và chỉ đến lớp học vào ban
đêm.
Về sau, ông qua Hoa Kỳ làm việc
tại các nông trại. Ông rất ham thích đọc sách, và những tác giả ông mến chuộng
nhất là văn hào A.L. Huxley (1894-1963) người Anh và triết gia Ðức Arthur
Schopenhauer (1788- 1860).
Bất mãn với cuộc sống, có lần
McKechnie có ý định muốn tự tử, nhưng may mắn vào lúc ấy, nhờ đọc bài báo về
Niết Bàn (Nibbàna) đăng ở một tập san Phật Giáo, đã giúp ông hồi tâm, tìm lại
được nguồn vui và an lạc qua giáo lý của đức Phật như chính ông đã bày tỏ:
“Phật Giáo, tôi nghĩ rằng, đây là một tôn giáo linh động và thực tế. Nó
không phải là thứ triết lý chỉ được ghi chép trong kinh sách mà là một pháp môn
tu hành thực tiễn, đã được rất nhiều người Tây Phương áp dụng và hành trì theo.
Ðó là tôn giáo không bao giờ đề cập đến sự huyền hoặc, dị đoan mê tín, khó có
thể tin tưởng được; mà là một giáo lý cao siêu nhiệm mầu, và sau khi nghiên cứu
tìm hiểu, chúng ta sẽ thấy đạo Phật rất giản dị, thực tế và hữu ích”.
Sau này, nhân đọc một bài viết
đăng ở tạp chí “The Bud- dhist” (Phật Tử), do Ðại Ðức người Anh Ananda Metteyya
(1872-1923) chủ trương, ấn hành tại Rangoon (Miến Ðiện), Mc Kechnie liền viết
thư cho Ð.Ð. Metteyya bày tỏ ý muốn phát tâm sang tiếp tay với đại đức để làm
Phật sự . Ð. Ð. Metteyya hoan hỷ chấp nhận và Mc Kechnie lên đường qua Miến
Ðiện. Tại đây, ông bắt đầu học hỏi, nghiên cứu kinh tạng Phật Giáo bằng tiếng
Ba Lị (Pali). Năm 1906, ông xin xuất gia thọ giới tỳ kheo với Thượng Tọa U.
Kumara tại chùa Kyundagon, và có pháp hiệu là Silàcàra. Sau đó, Ð. Ð. Silàcàra
cùng với Ð. Ð. Metteyya đã tổ chức, thành lập một phái đoàn sang Luân Ðôn (London) truyền bá Phật
Giáo.
Sau một thời gian tu học, hoằng
pháp tại Miến Ðiện đến năm 1925, vì sức khỏe yếu kém, Ð. Ð. Silàcàra đã phải
hoàn tục và trở về Anh quốc. Trong thơi gian này, ông đã hoạt động tích cực,
giúp đỡ cho Hội Phật Giáo tại nước Anh và Ái Nhĩ Lan (Buddhist Society of Great
Britain and Ireland) được thành lập vào những năm 1907-1926 và Hội Ma Ha Bồ Ðề
(Maha Bodhi Society) do Ðại Ðức Anagarika Dharmapa- la, người Tích Lan thành
lập năm 1891 tại Calcutta (Ấn Ðộ).
Những Ðóng Góp Cho Nền Phật Giáo
Tây Phương Của Ðại Ðức Silàcàra
Ðại Ðức Silàcàra đã dịch từ Pali
ra Anh Văn một số bài kinh trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) thuộc Kinh Tạng và đại đức cũng đã dịch
ra tiếng Anh những tác phẩm Phật Giáo viết bằng Ðức ngữ của Tiến Sĩ Paul Dahlke
(1865-1928) và học giả Phật tử uyên bác George Grimm (1868-1945).
Ngoài ra, Ð. Ð. Silàcàra còn
viết nhiều tác phẩm Phật Giáo giá trị bằng Anh văn dưới đây:
1. First Fifty Discourses of the
Buddha (Năm Mươi Bài Kinh Ðầu Tiên của
Ðức Phật).
2. The Four Noble Truths (Tứ Diệu Ðế).
3. The Noble Eightfold Path (Bát Chánh Ðạo)
4. Dhammapada or The Way of
Truth (Kinh Pháp Cú hay là Con Ðường Dẫn
đến Chân Lý).
5. Kamma (Nghiệp Báo).
6. Lotus Blossoms (Những Hoa Sen Nở)
7. A Young People’s Life of The
Buddha (Cuộc đời đức Phật đối với lớp
người trẻ).
Sau nhiều năm tu học, đóng góp
cho Phật Giáo, năm 1932 vì bị ốm đau, sức khỏe sa sút, Ð. Ð. Silàcàra rời Luân
Ðôn (London) về sống ở Sussex, miền nam nước Anh cho đến ngày đại đức qua đời
vào năm 1951, hưởng thọ 80 tuổi.