Phần II
THỰC HÀNH
Ðã từ
lâu người ta đã bám chặt vào những điều này: đây là tôi, đây là của tôi, đây là
bản ngã tôi. -- (Tương Ưng bộ kinh, ii, 94)
Ðêm cuối
cùng đã đến gần với "hành giả", dù quý vị đang đi hoặc đang đứng,
ngồi hoặc nằm. Không còn thời gian nữa cho quý vị dễ duôi. -- (Tiểu bộ kinh)
Lão,
bệnh, tử, ba điều này đến gần giống như những đám cháy khổng lồ. Không có một
sức mạnh nào có thể làm chúng bớt cơn thịnh nộ; không có một tốc độ nào để chạy
thoát. -- (Tiểu bộ kinh, XXVI, 334)
2.1 TÓM TẮT SỰ TU TẬP
2.1.1.
Bốn oai nghi
Chúng ta
quan sát Danh sắc ở 4 oai nghi: Ngồi, đứng, đi, nằm.
Ðây là 4
oai nghi chính được đề cập đến trong Kinh Ðại Niệm Xứ. Chúng ta chỉ bắt đầu với
sắc pháp, bởi vì sắc pháp dễ dàng nhận thấy hơn danh pháp. Người ta dễ dàng
thấy nó hơn bởi vì: 1) sắc pháp thì "thô" và danh pháp "vi
tế" .2) 4 oai nghi luôn luôn hiện hữu. (Nhưng đối tượng của danh pháp -
như nghe, thấy - chỉ phát sinh vào những giai đoạn nào đó. 3) Người ta dễ dàng
thấy khổ trong sắc pháp, hơn bất cứ các đối tượng nào khác, bởi vì khi chúng ta
quan sát 4 oai nghi chúng ta không thể còn che giấu được khổ đế (xem 1.11).
2.1.2.
Chúng ta quan sát bằng những công cụ
1. Nhiệt tâm tinh cần - Atapi
2. Chánh niệm- Sati
3. Tỉnh giác - Sampajana
4. Khéo tác ý - Manasikara
5. Quan sát - Sikkhati
Atapi là
nhiệt tâm tinh cần, tiêu diệt phiền não.
Sampajana
là tỉnh giác sâu sắc đem lại trí tuệ để tiêu diệt si mê, hoặc tà kiến.
Ba loại
danh pháp này (hoặc Yoki), [1] quan sát 4 oai nghi.
1.
Atapi. Không có sự tinh tấn hành giả không thể nhận thức được oai nghi ngồi: Ví
dụ khi tâm vẩn vơ (phóng dật) đưa hành giả ra khỏi khoảnh khắc hiện tại, sự
tinh tấn được kết hợp với chánh niệm và tỉnh giác đưa hành giả trở lại chánh
niệm.
2. Sati
nhận biết tính cách hành giả ngồi - oai nghi.
3.
Sampajana biết rõ toàn bộ tư thế là "oai nghi ngồi".
4. Tác ý
- Manasikara có nghĩa chú tâm vào một điều gì với sự hiểu biết đúng đắn (chánh
kiến) về lý do với bất cứ hành động nào, hoặc về "quy luật tự nhiên hoặc
chân lý tuyệt đối" của "oai nghi ngồi", v.v... "Tác ý"
nhắc nhở hành giả rằng khi hành giả đang ăn, đang tắm, đi tiêu tiểu, hoặc làm
những công việc, hành giả đang làm công việc này để chữa trị sự đau khổ, chứ
không tìm khoái lạc. "Tác ý" cũng nhắc nhở hành giả rằng tư thế đang
được thay đổi để chữa trị sự đau khổ.
5.
Sikkhati là sự quan sát. Nó bảo cho hành giả khi sự tu tập không được thực hiện
đúng. Sikkhati biết khi hành giả xa rời khoảnh khắc hiện tại.
2.1.3.
Con đường Trung Ðạo (Majjhima-Patipada)
Con
đường "Trung Ðạo" tiêu diệt hoặc đoạn trừ sự ham muốn hoặc không ham
muốn, chấp thủ hoặc ác cảm là điều quan trọng trong sự tu tập này. Nếu hành giả
có chánh niệm và tỉnh giác trong khoảnh khắc hiện tại, như vậy không thể xuất
hiện sự thích hay không thích (abhijjhā và domanassa).
Cho nên chúng
ta:
1. Hãy
chữa trị sự đau khổ bất cứ khi nào nó xảy ra bởi sự thay đổi oai nghi, bởi vì
khổ buộc sắc pháp thay đổi. Ở đây, hành giả phải có "khéo tác ý " tốt
để ngăn chặn phiền não xâm nhập. Như vậy hành giả phải có "khéo tác
ý" tốt khi hành giả thay đổi tư thế, và có "quan sát" tốt, như
vậy hành giả sẽ lưu ý nếu phiền não ở đó. Ví dụ, khi chúng ta ngồi và sự đau
đớn xảy ra một chút, chúng ta không thích oai nghi (cảm thấy khó chịu, bực bội)
và muốn thay đổi oai nghi mới bởi vì ham muốn. Chúng chỉ nên đổi oai nghi nếu
như sự đau khổ buộc chúng ta.
Chúng ta
không ngồi suốt cơn đau bởi điều này tạo phiền não, người tà kiến cho rằng ngã
có thể kiểm soát cơn đau (Thực tế, danh và sắc là không thể kiểm soát được.
Chúng thì vô ngã). Một số hành giả (Yogis) sẽ cố gắng ngồi lâu hơn và ngồi suốt
cơn đau để thấy khổ. Nhưng khổ đó không thật, bởi vì nó được tạo nên một cách
giả tạo. Một số hành giả cố gắng ngồi lâu hơn để có nhiều định hơn bởi vì họ
cho rằng trí tuệ sẽ xuất hiện; nhưng điều này chỉ tạo ra phiền não. Hãy nhớ
rằng, thiền quán đang luyện tâm chứ không phải thân. Nếu tâm sai thì thân sai.
Ví dụ, nếu tâm nghĩ rằng sự ngồi ở oai nghi hoa sen là ích lợi để thấy được
sabhava - tâm sẽ đặt thân vào tư thế hoa sen.
2. Ðừng
tìm kiếm sự an lạc hoặc hạnh phúc ở bất cứ tư thế nào. Ðừng cảm thấy rằng tư
thế này tốt hơn tư thế khác; bởi vì mọi tư thế không vững chắc: vô thường, khổ
đau và vô ngã.
3. Ðừng
tìm kiếm định đang khi hành thiền. Ðịnh sẽ dẫn chúng ta đến niềm tin rằng có
kiểm soát được cái ngã thì mới có thể dẫn chúng ta đến an lạc và hạnh phúc.
Nhưng không có hạnh phúc, cho có sự giải thoát khỏi sự khổ, và chúng ta không
thể nhận thức điều này mà không có khổ. Khổ đế (dukkha Sacca) là một sự kiện
của giáo pháp Ðức Phật, nhưng không có hạnh phúc thật "sukha sacca" ;
bởi vì hạnh phúc là vô thường và trở thành khổ.
4. Ðừng
tu tập để nhận thức đạo quả, giác ngộ hoặc tuệ giác. Chỉ tu tập đúng theo những
nguyên tắc của Tứ Niệm Xứ. Mặc dù nếu một người muốn đạt được Níp Bàn hoặc
thành A La hán phải đập tắt lòng ham muốn này. Nếu không thực hiện được điều
này người ta không thể đạt được Níp Bàn.
5. Ðừng
tu tập với tư tưởng là hành giả sẽ trở thành một Thiền sư. Ðiều này sẽ gây ra
tham ái và ngăn chặn trí tuệ phát sinh. Mục đích duy nhất trong sự tu tập là
diệt khổ.
2.2. SỰ TU TẬP
Sự tu
tập là giữ chánh niệm ở mọi oai nghi: ngồi, đứng, đi, nằm. Nếu tư thế là ngồi,
"có 3 danh" - nhiệt tâm tinh cần, chánh niệm và tĩnh giác - đều biết
được tư thế ngồi, và nhận biết rằng nó là oai nghi ngồi.
Ba danh
(và không phải bản thân chúng ta) quan sát oai nghi ngồi giống như theo dõi một
diễn viên trên sâu khấu. Diễn viên được theo dõi trong khi ở trên sân khấu,
nhưng không có một nỗ lực để kiểm soát hành vi hoặc những hoạt động của mình.
Xem một vở kịch giống như khoảnh khắc hiện tại, không có sự quan tâm ở quá khứ
hoặc tương lai. Như vậy, hành giả nên tu tập như là xem một vở kịch. Sau đó,
khi vị này quan sát oai nghi ngồi, sự đau đớn sẽ xảy ra và vị này sẽ biết oai
nghi ngồi đau khổ. Ðây là khổ thọ. Nhưng đừng quan sát khổ thọ. Sự tu tập này ở
trong thân. Bằng cách quan sát oai nghi ngồi đau khổ liên tục trong khoảnh khắc
hiện tại, cho đến khi hành giả phải thay đổi tư thế, hành giả sẽ nhận thấy khổ
đế "trong oai nghi ngồi. Ðiều này do khổ thọ phát sinh từ sắc và danh sắc
là khổ đế.
Oai nghi
đi cũng có tính cách giống như oai nghi ngồi... Chúng cần phải theo dõi giống
như theo dõi một ai đó mà chúng ta không có sự kiểm soát. Trong khi sắc là đối
tượng, thiền quán là sự trách nhiệm của tâm (Nāma). Như vậy tâm phải ở từng
khoảnh khắc hiện tại để thấy trí tuệ. Do đó, tâm phải quan sát sự thật (ví dụ
danh nghe) khi nó xuất hiện, đúng hơn là cố gắng tạo nên sự thật. Chúng ta chỉ
hoàn toàn quan sát điều gì đang xảy ra. Bất cứ nỗ lực nào để kiểm soát tâm có
nghĩa là chúng ta muốn thấy sabbava; đây là phiền não và nó đưa chúng ta ra
khỏi đường trung đạo và khoảnh khắc hiện tại.
Nhiệt
tâm tinh cần, chánh niệm, tĩnh giác cùng nhau tiến hành quan sát danh và sắc.
Nếu có quá nhiều chánh niệm nó sẽ làm yếu đi tĩnh giác. Hành giả phải ghi nhận
điều này; sự ghi nhận này được gọi là quan sát. Khi quan sát sự mất quân bình
này, hành giả phải cố gắng tạo cho chánh niệm, nhiệt tâm tinh cần và tĩnh giác
tương đồng. Hành giả muốn thực hiện điều này phải có nhiều sự tỉnh giác hơn.
Khi hành giả cảm thấy khổ, oai nghi ngồi thay đổi tư thế, bởi vì nó buộc phải
cử động do đau đớn. Cùng một cách tự nhiên chúng ta phải cử động, nếu chúng ta
đang ngồi xung quanh ở một tình huống xã hội nào đó.
Chính
"khéo tác ý" [2] mà chúng ta nhận thấy sự đau đớn buộc oai nghi ngồi
thay đổi tư thế khác. Khi hành giả thay đổi tư thế, sự đau đớn được dẫn đến một
tư thế mới, và "khéo tác ý" ghi nhận rằng tư thế mới là đang điều trị
cơn đau ở tư thế cũ. Ðiều này là cần thiết bởi vì hầu hết những hành giả mới tu
tập đều không thích tư thế cũ và nghĩ rằng tư thế mới sẽ làm cho họ cảm thấy
thích thú.
Như vậy,
chúng ta sẽ không cảm thấy khó chịu với cái cũ và bám víu vào cái mới, bởi vì
"khéo tác ý" biết rằng việc thay đổi là phương cách điều trị ở cái
đau cũ. "khéo tác ý" được nhấn mạnh rất nhiều trong phương pháp tu
tập này [3],
bởi vì "khéo tác ý" thích đáng dẫn đến sự nhận thức được khổ đau (khổ
thọ và hành khổ). (Xem 1.4.4.1. Các loại Khổ)
Nếu hành
giả gặp khó khăn để lưu giữ nó tại trong khoảnh khắc hiện tại, nó có thể hết
sức ít lợi để lập nên câu hỏi:
-"Ði là gì?"
-"Oai nghi đi"
-"Tại sao nó đang đi?"
-"Ðể điều trị sự đau đớn ở tư thế cũ"
-Hoặc "Ngồi là gì?"
-"Oai nghi ngồi"
v.v...
(Việc
thể hiện bằng lời nói này có chức năng như khéo tác ý, giúp tâm phát triển sự
nhận biết hoặc tỉnh giác)
Khi hành
giả đặt câu hỏi "Ngồi là gì?" v.v... chánh niệm và tỉnh giác (sự hiểu
biết rõ ràng) có thể tóm tắt như là sự tỉnh giác [4] (tiếng
thái - Tỉnh giác). Chúng có cùng đối tượng (danh hoặc sắc), và như vậy chúng
cùng nhau làm việc. Chánh niệm biết được tư thế, tính cách hành giả ngồi, và
tỉnh giác biết rằng đó là oai nghi ngồi (v.v...). Nhưng điều này không phải là
chánh niệm trước rồi đến tỉnh giác.
Chánh
niệm và tĩnh giác cùng xảy ra trong một thời điểm.
Phương
pháp tu tập đúng cách là "Bây giờ chúng tôi đang ngồi". Bỏ
"Chúng tôi đi". "Bây giờ nó là oai nghi ngồi". Vấn đề chính
ở đây đó là tiến trình nhận biết tư thế là đều giống như vậy trong đời sống
hàng ngày, ngoại trừ tà kiến về "Chúng tôi" đang ngồi được loại bỏ.
Thông
thường để mô tả về sự tỉnh giác, chúng ta nghe nói đến các từ "cảm
thấy" biết, "thấy" (thuộc tâm) "quan sát" "và
nhận biết về" về oai nghi ngồi, v.v... Tất cả những từ ngữ này có thể là
chính xác. Thực tế, từ ngữ "nhận biết có thể được mô tả giống như
"Chúng tôi ngồi" nhưng thay thế "oai nghi ngồi". Sự nhận
biết hoặc tỉnh giác là điều cơ bản để sự tu tập được thực hiện theo một tính
cách đúng đắn.
Cảm nhận
đề cập đến việc cảm nhận cá tính cách chúng ta ngồi và cảm nhận nó là oai nghi
ngồi, và đó là tĩnh giác. Nhưng nó là một từ ngữ đáng thận trọng về sự cảm
nhận: (Nếu một hành giả bị cuốn hút vào cảm nhận về thể xác, đặc biệt quá mạnh
mẽ, nó có thể khiến cho tâm mệt mỏi và đẩy hành giả ra khỏi khoảnh khắc hiện
tại. Ðây là điều tu tập với sự ham muốn, và nếu hành giả thực hiện quá lâu dài
có thể tạo nên những vấn đề vật lý, chẳng hạn như đau ở lồng ngực, và cảm giác
nghẹt thở v.v... Vấn đề ở đây là đừng cố "tạo" oai nghi ngồi, chỉ
biết nó mà thôi. Oai nghi ngồi thì vẫn ở đó, hành giả không cần nhận biết về
nó. Khi hành giả ở nhà, hành giả cảm thấy mình ngồi, nhưng đây là phiền não.
Như vậy trong việc tu tập chỉ cần chuyển đổi sự kiện này sang oai nghi ngồi,
với trí tuệ (trí tuệ).
Tuy vậy,
"sự suy nghĩ" thường được người không dùng để mô tả runithna - bởi vì
"sự suy nghĩ" thường được kết hợp hoàn toàn về lời nói. Người ta có
thể nhận thấy sự khác biệt giữa cảm nhận sắc pháp và đơn thuần suy nghĩ sắc
pháp được thấy, hãy dùng nước lạnh làm một thí dụ điển hình. Chúng ta có thể
hình dung hoặc nghĩ về nước lạnh, nhưng chạm vào hoặc nếm nước lạnh là điều
hoàn toàn khác biệt. Nước lạnh là một ý niệm thuộc về lời nói, nhưng biết nó
bằng cảm giác hoặc cảm nhận là để biết thực tế nước lạnh.
Cũng nên
ghi nhớ về sự nhận biết toàn bộ sắc pháp từ đầu đến chân - và sắc pháp đó không
biết bất cứ điều gì. Chỗ có ý thức.
Hãy cố
gắng ghi nhận khi hành giả quan sát oai nghi ngồi nếu muốn thấy được sabbava có
ở đó hay không. Nếu hành giả ghi nhận được điều ham muốn này, hãy ngưng việc tu
tập trong chốc lát cho đến khi sự ham muốn này biến mất. Nếu sự ham muốn này
vẫn còn ở đó hành giả sẽ không thể thấy được chân lý của sabhava. Ðức Phật dạy
hành giả không thể thấy chân lý khi tham ái (Taṇhā) vẫn còn hiện diện ở đó, bởi
vì tham ái che giấu chân lý hoặc sự thật.
Bởi vì
Thiền quán-Thiền Minh Sát có liên quan đến việc loại trừ phiền não phát sinh
bất cứ nơi nào, hành giả phải tìm hiểu xem có phải đối tượng đặc biệt là danh
sắc. Ðể xác định được điều này, hành giả cần nên tham khảo được thể hiện ở hình
vẽ 2-1, "Bản tóm tắt cõi dục" ở cuối phần thực hành.
2.2.1.
Những Quy tắc tu tập
1. Ðừng
xem xét danh và sắc cùng một lúc.
Ví dụ,
đừng suy nghĩ: "oai nghi đi, ý thức". Một số hành giả nghĩ rằng họ sẽ
sớm nhận thấy được trí tuệ nếu họ có nhiều đối tượng hơn (cả sắc và danh).
Nhưng sự ham muốn thấy được trí tuệ chỉ tạo nên phiền não. Sắc pháp ở trong 4
oai nghi là đối tượng đầy đủ.
2. Ðừng
đi hoặc ngồi tham thiền trong một thời gian đã được quy định. Hãy thay đổi tư
thế, khi sự đau đớn buộc phải có một sự thay đổi.
3. Ðừng
có cảm nghĩ rằng "Chúng tôi" đang "tham thiền", hoặc có một
điều gì kỳ bí hoặc đặc biệt về sự tu tập. Ðừng đi hoặc ngồi để tu tập, nhưng
bởi vì chúng ta phải ngồi hoặc phải đi.
4. Ðừng
dùng những tư thế đặc biệt, chẳng hạn tư thế hoa sen hoặc đi kinh hành chậm
rãi; những tư thế này thường có lòng tham muốn thấy được pháp.
5. Một
số hành giả mới tu tập thường dễ chán nản. Những hành giả này phải tự nhắc nhở
bản thân lý do họ đang tu tập là đoạn trừ sự khổ. Nếu chúng ta đầu hàng sự chán
nản chúng ta không bao giờ có thể dứt bỏ sự khổ, bị trói buộc vào vòng sinh tử
luân hồi.
Những ai
chưa bao giờ tu tập trước đó cũng sẽ gặp rắc rối với tâm phóng dật (tiếng Thái:
Tâm phóng dật). Chúng phát triển sự không thích nó - nó không phải là con Ðường
Trung Ðạo. Những hành giả mới nhập môn có thể thấy khó khăn khi duy trì được
định và đôi lúc không thích ở cô độc một mình trong nhiều ngày, tham ái cũng
phát sinh và họ trở nên bồn chồn, bất ổn. Họ thèm muốn sự vắng lặng hoặc họ
muốn hạnh phúc, để thấy được những cảnh thú vị.
6. Khi
sự đau đớn xảy ra trong oai nghi ngồi, người ta cần phải nhận thức rằng chỉ là
oai nghi ngồi v.v... là khổ - không phải "hành giả". Oai nghi ngồi là
ở khoảnh khắc hiện tại. Khổ của oai nghi ngồi cũng là khoảnh khắc hiện tại.
Hành giả không nên thay đổi ở khổ của oai nghi ngồi ở khoảnh khắc hiện tại
sang, để ý thức sự đau đớn (sự đau đớn là danh, được gọi là "khổ
thọ") khi chúng ta điều trị sự đau khổ, nó phải ở trong sắc pháp, chứ
không phải danh pháp cùng lúc ấy.
7. Hành
giả phải luôn luôn có sắc pháp và danh pháp trong sự nhận biết (tỉnh giác).
Nhưng vị này đừng nên tập trung vào bất cứ phần đặc biệt nào của cơ thể. Hành
giả cũng không nên chờ đợi hoặc đoán trước khổ phát sinh - điều này sẽ đưa vị
này ra khỏi khoảnh khắc hiện tại. Hành giả không cần thiết cho đến khi khổ trở
nên quá mạnh mẽ hoặc cơ thể tê liệt. Chân lý của khổ không tùy thuộc vào sự đau
đớn dữ dội. Mỗi lần nhận thức được sự khổ đau - ít hoặc nhiều - hành giả sẽ
nhận thấy rằng khổ là thật.
8. Mặc
dù đôi khi chúng ta nói về "sự thấy" oai nghi ngồi, v.v... nhưng đôi
mắt thật sự không được sử dụng để nhìn thấy hoặc quan sát các loại sắc khác. Sự
nhận biết về sắc cần phải được sử dụng bằng cái tâm - nghĩa là chánh niệm và
tĩnh giác, và đó là trí tuệ.
Về sự
việc nhắm hoặc mở mắt (hoặc hơi nhắm lại) trong khi tham thiền, tùy thuộc vào
mỗi cá nhân.
Một số
hành giả thích mở mắt, một số khác thích nhắm mắt, trong lúc những người khác
chỉ khép hờ, tạo nên một thế giới mờ ảo.
9. Ðối
tượng trong lúc tu tập là sắc pháp của hành giả, chứ không phải của người nào
khác. Ðừng quan sát sắc pháp của những người khác. Nếu nhìn thấy được những
người khác, hành giả đừng xem họ là sắc pháp, nhưng là "sự thấy
danh".
10. Giới
hạnh
a) Hành
giả chỉ nên nói chuyện khi cần thiết, chẳng hạn như yêu cầu một đề mục cần
thiết. Hành giả chỉ nên nói chánh pháp với vị Thiền sư. Sự tu tập là Bát Chánh
Ðạo, giới, định, tuệ, và hành giả cần có giới hoàn hảo, và điều này đòi hỏi giữ
im lặng. Nếu giới không được hoàn hảo, không thể có định tốt. Không có định
tốt, không thể có trí tuệ.
b) Toàn
bộ giới hạnh phải theo Bát chánh đạo (xem 1.4.7) đặc biệt hành giả phải cẩn
thận không làm tổn hại đến sinh vật, như các loại côn trùng. Vấn đề là hành giả
nên giao toàn bộ tứ vật dụng của mình đến người quản lý trung tâm thiền.
2.2.2.
Chú giải
1. Thanh
Tịnh Ðạo (Visudhi Magga) nói rằng nếu quan sát tinh chuyên oai nghi ngồi; không
bao lâu hành giả cũng sẽ thấy được danh bằng trí tuệ; hành giả không cần thiết
quan sát danh pháp song song với sắc pháp.
2. Thanh
Tịnh Ðạo cũng dạy rằng các tư thế của cơ thể (oai nghi) che giấu sự đau khổ,
bởi vì chúng ta không lưu ý các tư thế, và do đó không lưu ý đến tư thế mới che
đi sự khổ của tư thế cũ. Sự việc này bởi vì chúng ta thường thay đổi tư thế mà
không có khéo tác ý chính nó nhắc nhở chúng ta rằng sự thay đổi tư thế là chữa
trị sự đau khổ. (Xem 1.11. "những điều kiện làm lu mờ tam tướng).
Do đó,
chúng ta phải thấy được khổ trong oai nghi ngồi v.v... Nhận thức được sự khổ
cũng sẽ tiêu diệt được muốn và không muốn, bởi vì chúng ta đang ở trong khoảnh
khắc hiện tại.
3. Khi
thực hiện một điều nào khác với 4 tư thế, chẳng hạn như làm các công việc nhà,
hành giả phải dùng "khéo tác ý" để nhận thức rằng hành giả đang diệt
khổ.
Hành giả
phải có "khéo tác ý": Ăn, uống, vệ sinh, tắm rửa, giặt giũ, rửa chén
bát, v.v.. Khi ăn, hãy ghi nhận từ miếng thức ăn được hành giả ăn vào để chữa
trị khổ. Ðiều này được thực hiện bằng cách ghi nhận khoảnh khắc khi nuốt vào,
đó là khoảnh khắc hành giả đang chữa trị khổ. Khi nhai hành giả phải ghi nhận
từng miếng thức ăn và nó cần phải được nhai để điều trị khổ. Như vậy hành giả
sẽ nhận thức rằng "khổ" buộc hành giả phải ăn, nhai và nuốt và việc
ăn không phải là khoái lạc.
Vào buổi
sáng khi tỉnh dậy, hãy ghi nhận tư thế đang nằm là oai nghi nằm. Sau đó, trước
khi bước khỏi giường hãy ghi nhận cái lý lẽ ("tác ý") - chẳng hạn như
uống trà để chữa trị cơn đói hoặc đánh thức một người; hoặc cơ thể không thể
ngủ lâu hơn nữa, và oai nghi nằm cũng phải thức dậy bởi vì nó là khổ. Nếu rửa
mặt đó là một phương cách điều trị khổ.
Nhờ sử
dụng liên tục "khéo tác ý", hành giả ngăn chặn phiền não xâm nhập vào
cảm giác. "Khéo tác ý" nhắc nhở rằng chúng ta đang quan tâm sắc pháp,
chứ không phải "hành giả" (chúng ta).
Tốt hơn
hết hành giả nên dành một ngày để ghi nhận bao nhiêu lần và bao nhiêu cách mà
hành giả phải chữa trị sự khổ của sắc pháp. Kết quả có thể là một điều khá bất
ngờ. Trong một ngày, hành giả có thể - thoa thuốc đuổi muỗi, gãi khi bị ngứa
ngáy, bật quạt điện, uống một ly nước lạnh, đuổi kiến, đi vệ sinh, ăn, rửa chén
bát, đổ rác, tắm rửa, cạo râu, đánh răng, cắt móng chân, móng tay, giặt quần áo
v.v... Tất cả những công việc này đều chữa trị sự khổ của sắc pháp. Ðừng quan
sát oai nghi ngồi v.v... khi làm những công việc này. Oai nghi ngồi v.v... chỉ
cần quan sát ở bốn tư thế. Việc quan sát oai nghi ở các tư thế tạm thời tạo nên
quá nhiều chánh niệm và làm yếu đi sự tĩnh giác. Ở những tư thế tạm thời, chúng
ta chỉ quan sát việc điều trị khỏi sự khổ. Ðừng tu tập chánh niệm quá tỉ mỉ! Sự
việc này sẽ gia tăng chánh niệm và làm giảm tĩnh giác.
Hành giả
nên quan tâm đừng theo đuổi quá mức công việc nhà và những công việc khác để
"tham thiền hoặc chú tâm". Sự ham muốn để "chú tâm hoặc tham
thiền" là phiền não, bởi vì hành giả giữ chánh niệm ham muốn thấy được
pháp. Những công việc hàng ngày đem lại một cơ hội tốt để thấy được sự khổ sắc
pháp. Cũng như chúng cung cấp một cơ hội tốt để giảm bớt định, nếu có quá
nhiều.
4. Hành
giả chỉ nên thực hiện những điều cần thiết. Ví dụ:
a) Tư
thế. Hành giả thay đổi oai nghi ngồi sang oai nghi đứng, để điều trị sự khổ.
Ðây là điều cần thiết nguyên nhân (khổ) phải xảy ra trước khi hành giả hành
động. Ðừng thay đổi tư thế đi bởi vì hành giả muốn điều này. Hãy chờ cho đến
khi sự khổ buộc phải thay đổi.
b) Ăn.
Ðây là điều cần thiết để điều trị sự khổ, bởi vì cơn đói buộc người ta phải ăn.
c) Ði vệ
sinh. Ðây cũng là điều cần thiết để điều trị sự khổ - hành giả buộc phải đi vệ
sinh.
d) Làm
mát sắc pháp. Nếu sắc pháp bị nóng, điều cần thiết là bật quạt điện hoặc đi tắm
để điều trị sự khổ.
Tất cả
những hành động này đều đòi hỏi "khéo tác ý". Nếu hành giả không áp
dụng đúng "khéo tác ý", những điều này sẽ được thực hiện bởi vì có sự
ham muốn thực hiện chúng - và như vậy phiền não không còn nữa.
Tuy thế,
những sự ngắt ngang nào đó, có thể và được phép xảy ra bên ngoài sự tu tập bình
thường:
a) Một
ai đó gõ cửa
b) Thức
ăn hoặc những thứ khác được đưa đến Kuti (cốc tu tập).
c) Một
ai đó đến trò chuyện với hành giả
d) Những
trường hợp khẩn cấp, chẳng hạn như mất điện hoặc các vấn đề trang thiết bị.
Tất cả
những sự kiện này điều được xử lý một cách bình thường, nhưng hành giả phải
biết rằng chúng không thuộc vào sự tu tập thiền quán và không thể kết hợp vào
sự tu tập.
2.2.3.
Sự tu tập theo tự nhiên
1. Ngồi,
và hoạt động và đi như ở nhà, sử dụng tư thế bình thường [5] .
2. Sự
ngồi "tự nhiên" thường liên quan đến một số tư thế ngồi khác, đúng
hơn là đứng, ngồi, đi v.v... Tính cách bình thường là ngồi theo một hình thức,
sau đó một hình thức khác (luôn luôn điều trị sự khổ) và rồi một hình thức
khác, và sau đó có thể là đứng hoặc đi.
3. Di
hành (đi) cũng cần thực hiện để điều trị sự khổ. Nếu tác ý để thực hành, rồi
sau đó nó sẽ là "khéo tác ý" như đã được thực hiện để điều trị sự
khổ. Ðối với nhiều hành giả, đi là một tư thế dường như dễ dàng dẫn đến những
động cơ khác hơn là điều trị sự khổ - đi để được thoải mái, đi ở trong những
hình thức nào đó để thấy được sabhava, hoặc kiểm soát cái tâm vẩn vơ (phóng
vật) v.v...
4. Nằm.
Cũng đừng nên lơ là. Nó là một trong những tư thế tự nhiên. Ðầu tiên, tư thế
nằm mất thời gian dẫn đến sự khổ, nhưng với sự thực tập liên tục về cơ thể trở
nên nhạy cảm, và ngay cả sự nằm, bắt đầu cho thấy sự đau đớn khá sớm. Nếu hành
giả nằm ngửa xong chuyển sang nằm nghiêng, hãy lưu ý "khéo tác ý" về
sự thay đổi tư thế.
5. Ngủ.
Nếu hành giả ở trong tư thế nằm, thường cảm thấy buồn ngủ, hãy tự nhiên và
thiếp ngủ - ghi nhận thầm đó là điều trị sự khổ. Nhưng nếu cơ thể đã ngủ đầy
đủ, và nó chỉ ngủ lơ mơ; hành giả cần có một sự xem xét có phải ăn quá nhiều
thức ăn vào bữa điểm tâm hoặc bữa trưa. Nếu như vậy, hãy bắt đầu ăn ít lại cho
khỏi đầy bao tử. Nếu còn buồn ngủ lơ mơ, sau đó hãy ngồi dậy vỗ nước vào mặt,
hoặc đi ra ngoài trời để hít thở không khí (Ngủ, vượt ra khỏi đòi hỏi bình
thường của cơ thể, là một hình thức ham muốn đòi hỏi sự hạnh phúc: tìm kiếm sự
thỏa thích của ngủ, và người ta cố gắng đạt nó càng ngày càng nhiều).
6. Khi
tỉnh dậy vào nửa đêm, hãy cố gắng ghi nhận oai nghi nằm, và nếu tỉnh dậy trong
chốc lát, hãy ghi nhận bất cứ sự thay đổi của tư thế nằm (để điều trị sự khổ).
Tại sao
tu tập theo tự nhiên?
Pháp
Niyama là định luật tự nhiên (luật nhân và quả). Nó tồn tại khắp nơi trong thế
gian và Ðức Phật đã khám phá . Nó có ba đặc tính (tam tướng):
1. Sabbha Sankhāra Anicca (tất
cả vạn vật đều vô thường)
2. Sabbaha Sankhāra Dukkha (tất cả vạn vật đều khổ).
3. Sabbaha Dhamma Anatta (mọi vật đều không có ngã)
Bởi vì
vô ngã cũng là sự thật của Nibbāna, tất cả các pháp đều vô ngã.
Ba yếu
tố này đều luôn luôn tồn tại, ngay cả ở nhà, khi không tu tập. Nhưng ở nhà,
thấy danh pháp và sắc pháp lại càng nhạy cảm với phiền não, ngược lại cho rằng
người ta không thể nhận thấy những định luật tự nhiên này được. Nếu sự đi đặc
biệt thật chậm, nó sẽ không bình thường, và người ta sẽ không thấy được định
luật tự nhiên.
Cùng một
sự việc sẽ xảy ra nếu chỉ quan sát bước đi và không dành cho toàn bộ cơ thể.
Cũng như trong sự ngồi, hành giả phải nhận thấy rõ toàn bộ oai nghi ngồi, như
Ðức Phật đã dạy rõ ràng:
"Và
một lần nữa, này chư tỳ khưu, khi một vị hành giả đang bước đi, phải hiểu rõ:
Tôi đây đang đi; hoặc khi vị này đang đứng yên, phải hiểu rõ: Tôi đây đang đứng
yên; hoặc khi vị này đang ngồi xuống, phải hiểu rõ. Tôi đây đang ngồi xuống;
hoặc khi vị này đang nằm xuống, hiểu rõ: Tôi đây đang nằm. Tuy thế khi thân xác
của vị này sằn sàng, vị này hiểu rõ sự việc giống như thế đó." -- (Trường
bộ kinh, kinh Ðại niệm xứ)
(Ở đây
Ðức Phật dùng đại từ nhân xưng "Tôi" bởi vì nó cần thiết để truyền
đạt: nhưng thực tế không có cái ngã đảm nhận những tư thế này, chỉ có danh và
sắc. Cả hai điều này hành giả phải quan sát chú ý trong cơ thể của mình - chứ
không phải ở những người khác)
Thiền sư
Achan Naeb đưa ra câu hỏi này:
"Làm
cách nào mà người ta biết được oai nghi đi là gì? Ðáp "Tính cách mà người
ấy đi là oai nghi. Ví dụ, không phải bước chân mà là toàn bộ tư thế. Biết được
oai nghi đi là nhờ hành giả có được ba danh pháp (Yogāvacara), đó là nhiệt tâm
tinh cần, chánh niệm và tỉnh giác".
2.2.4.
Làm cách nào để biết chắc sự tu tập của một người Ðúng và Sai?
Ðiều
quan trọng là hành giả nhận thức được sự tu tập của mình đúng hay sai. Với sự
tu tập đúng cách, vị này sẽ biết được tư thế và biết rằng tư thế đó là oai nghi
ngồi. Sự biết được tư thế là tâm chánh niệm. Và biết được đó là oai nghi ngồi
là sự tỉnh giác. Và vị này cùng một lúc sẽ biết được hai hình thức này. Nếu vị
này nhận biết được oai nghi ngồi với trí tuệ tu tập, vị này sẽ biết được bằng
sự cảm nhận rằng đây là phương pháp đúng. Sự tu tập trí tuệ đúng liên tục sẽ
dẫn đến tuệ Thiền Minh Sát.
Vị này
phải biết rằng chức năng của Tứ niệm xứ là tiêu diệt ham muốn và không ham
muốn. Ví dụ, nếu vị này không thích tâm vẩn vơ, như vậy sự không thích
(domanassa) sẽ phát triển. Nói một cách khác, nếu vị này muốn ở trong khoảnh
khắc hiện tại bởi vì nó an vui, sau đó tham (lobha) sẽ phát triển ? Vì vậy sự
tu tập đúng đắn là ở trong khoảnh khắc hiện tại càng nhiều càng tốt - nó sẽ diệt
trừ ham muốn và không ham muốn.
Cũng như
vậy, khi tâm đối mặt với một những trạng thái không phiền não (ở khoảnh khắc
hiện tại) hoặc phiền não) tâm, hoặc triền cái, phiền não) sẽ phát sinh, tùy
thuộc vào tác ý của một người là tốt đẹp hoặc không. Giả sử tâm đối mặt với
"frōng" (tâm phiền não). Nếu tác ý không tốt đẹp, khó chịu
(domanassa) có thể xảy ra. Nhưng nếu tác ý đúng, nó sẽ rõ ràng rằng "tâm
phóng dật" là danh (một trạng thái tâm), và nó không phải là "hành
giả" = và hành giả sẽ trở về trong trạng thái ở khoảnh khắc hiện tại.
2.2.5.
Sự đơn giản hóa tu tập cho hành giả mới nhập môn
Người ta
cho rằng sự tu tập vào buổi đầu tiên quá phức tạp là điều không tốt. Bởi vì sắc
pháp thì dễ dàng nhận thấy hơn (thô), và danh pháp thì hơi khó khăn (vi tế), điều
tốt nhất là dùng sắc pháp làm đối tượng cho những hành giả mới bắt đầu tu tập
trong khoảnh khắc hiện tại càng nhiều càng tốt [6], và giới
hạn sự tu tập và những điều cơ bản này:
1. Nhiệm
vụ chính của hành giả là biết oai nghi ngồi, oai nghi đứng v.v... ở tất cả mọi
lúc và nhận biết nó qua ba danh pháp: nghĩa là, lưu lại trong cinta trí tuệ
(trí tuệ tu tập) ở khoảnh khắc hiện tại càng liên tục càng tốt.
2. Nhiệm
vụ thứ hai là ghi nhận bất cứ những trạng thái tâm nào xen vào hoặc xâm nhập
vào sự nhận biết oai nghi ngồi, v.v... (chẳng hạn như tâm nhĩ thức "Nāma
thấy" v.v...)
3. Duy
trì ở một tư thế ấn định cho đến khi sự đau đớn xuất hiện buộc phải thay đổi,
sau đó "tác ý" sự đau đớn là để điều trị sự đau khổ tiếp tục đi theo
sự đau đớn vào tư thế mới
4. Ðối
với "tác ý" tất cả hoạt động khác (ăn, tắm, công việc nhà v.v...) là
để điều trị sự khổ
5. Nói
tóm lại, nhiệm vụ chính yếu của hành giả mới bắt đầu tu tập nhận biết sắc pháp
liên tục ở mọi tư thế được phát triển hoàn toàn quen thuộc.
[1] Thuật ngữ "Yoki" viết
tắt từ Yogāvacara. Mặc dù người ta thường đọc nó là "Yogi". Nó thường
được đọc bằng "K" bởi vì nó đối lập với "Yogi" mang ý nghĩa
là "hành giả".
[2] Ðức Phật dạy "Như Lai không
thể thấy được một pháp độc đáo này có thể dẫn đến chánh kiến (samma Diṭṭhi) hơn
là khéo tác ý, sự chú tâm có trí tuệ". (Tăng Chi Bộ Kinh, Aykab - Nibat)
[3] Rusuthua là thiện pháp và có trí
tuệ để dập tắt phiền não (ham thích và không ham thích)
[4] Rusuthua là thiện pháp và có trí
tuệ để dập tắt phiền não (ham thích và không ham thích)
[5] Với sự ngoại lệ của chúng ta
phải có tự chủ về việc ăn nói, làm những hành động vô ích v.v... Chúng ta cũng
phải có sati và sampajanna - học hỏi (sikkhati) thêm để biết có phải là sự tu
tập đúng hay sai.
[6] "... giống như một người
muốn làm cho nước trong khi đã cầm một hạt Katuka và thọc tay vào trong lu nước
rồi quậy nó một hoặc hai lần nhưng nước vẫn không trong, người này không ném
hạt Katuka đi; ngược lại vị này quậy nó liên tục, và khi làm như vậy chất bùn
lắng xuống và nước trở nên trong và sạch - cũng như vậy, thấy tỳ kheo đừng nên
chịu thua, nhưng vị này phải liên tục chú tâm, nhận thức và xác định sắc pháp
(sắc pháp)" (Thanh tịnh Ðạo, XVĪI, 16)
2.3. THẢO LUẬN SỰ TU TẬP
2.3.1.
Sự thấu hiểu phương pháp tu tập dẫn đến Ariya sacca (Tứ diệu đế)
1. Khổ
đế (dukkha): Ở từng tư thế, chúng ta nhận thấy sự khổ. Ðây là khổ thọ (Vedanā
dukkha) và hành Khổ (dukkha Sankhāra), dẫn đến khổ đế (sắc pháp và danh pháp là
đau khổ).
2. Tập
đế (Sumudaya-sacca): Tham ái - Taṇhā là nhân của khổ. Trong khi nhận biết về
oai nghi ngồi, v.v... (Trong khoảnh khắc hiện tại), Tuệ giác, Thiền Minh Sát
xuất hiện, và người ta có thể đoạn trừ tà kiến đó, "hành giả" đang
ngồi tham thiền, thân kiến (sakkha - Diṭṭhi), ái trong vô sắc- (ViBhavataṇhā).
3. Diệt
đế (Nirodha-Sacca): Nhiều phiền não càng dập tắt, chúng ta càng đạt đến sự diệt
khổ (Nirodha). Ðiều này có thể là rất ngắn ngủi (Tadaṇganirodha) [1] khi
ở trong khoảnh khắc hiện tại, hoặc thường còn, khi đã giác ngộ hoàn toàn
(samuched nirodha).
Nếu ái
dục bị đoạn diệt thì khổ cũng được dập tắt, vì ái dục là nhân của khổ. Khi nhân
bị đoạn diệt thì quả (khổ) cũng bị đoạn diệt. Như thế chúng ta nhận ra được Tứ
Diệu Ðế. Ðiều này tùy thuộc vào năng lực của Tâm đạo (magga citta). Tâm đạo là
điều kiện diệt trừ phiền não. (Xem 1.6.1. "Thực tướng pháp"; 3.1 tuệ
thứ 14)
4. Ðạo
đế (Magga Sacca): Trong khi hành giả có chánh niệm về sắc pháp trong khoảnh
khắc hiện tại, chúng ta đang trau dồi Giới, Ðịnh và Tuệ, là Bát Chánh Ðạo, hoặc
Ðạo đế. Chúng ta càng nhận thức được sự khổ bằng trí tuệ thì chúng ta càng trau
dồi Bát Chánh Ðạo.
2.3.2.
Những hình thức khổ trong khi thực tập Thiền Minh Sát
Sắc
pháp:
Khổ Thọ
(Vedanā dukkha). (sự đau đớn thân xác, khó chịu).
Hành khổ
(dukkha Sankhāra), (sự đau đớn được thay đổi hoặc được điều trị. Ðiều này khó
nhận ra hơn khổ thọ).
Danh và
sắc:
Tướng
khổ (dukkha Lakkhana).
Khổ đế
(dukkha Sacca)
Khổ thọ
là sự khổ bình thường, được hành giả cảm nhận ở các tư thế. Trước hết, hành giả
phải quan sát khổ thọ trước, bởi vì người ta dễ dàng nhận thấy sự khổ hơn ở
trong 4 oai nghi có mặt ở mọi lúc. Khi hành giả nhận ra khổ tho,ï vị này sẽ
thấy được danh sắc bị khổ thọ buộc phải thay đổi các tư thế suốt cả ngày.
Hành khổ
là sự khổ tiếp tục diễn ra trong tư thế mới buộc phải thay đổi từ tư thế cũ. Nó
cũng là hành động để duy trì cơ thể phải hành động như thế mất cả ngày, chẳng
hạn như hỉ mũi, làm cho hết đói, hít vào thở ra v.v...
Tướng
khổ là những đặc tính của danh và sắc pháp. Chúng có cùng những đặc tính như
tất cả vạn vật: vô thường, khổ não và vô ngã. Ðiều này chỉ có thể nhận ra bằng
Thiền Minh Sát. Ba đặc tính (tam tướng) này được nhận ra trong tuệ thứ tư (Tuệ
sinh và diệt).
Khổ đế
là Ðế thứ nhất (dukkha cacca). Chân lý của khổ. Khổ đế là danh và sắc pháp. Khi
người ta nhận ra khổ đế, thì cũng nhận ra được các chức năng khác của Tứ Diệu
Ðế.
2.3.3.
Những câu hỏi
1. Phiền
não về "ngã" đi vào ở đâu?
Nó đi
qua danh pháp (cảm nhận), ví dụ danh pháp cảm nhận rằng, đó là "tôi"
đang ngồi, sự ngồi của cái ngã. Sự tu tập là để nhận ra cái chân lý đó là oai
nghi ngồi. Nó dùng hết nỗ lực, chánh niệm và tỉnh giác để thấy rằng oai nghi
đang ngồi.
2. Ðiều
gì biết được đó là oai nghi ngồi?
Ba danh
pháp (nhiệt tâm tinh cần, chánh niệm và tỉnh giác) biết được đó là oai nghi
ngồi.
3. Mục
đích sự nhận biết về 4 oai là gì?
a) Là
nhận biết về tư thế, và nhận biết đó là oai nghi ngồi, có thể đoạn diệt tà kiến
cho rằng "hành giả" đang đứng, đang ngồi v.v... - Và điều này biểu
thị anata (vô ngã).
b) khi
oai nghi ngồi gặp phải sự đau đớn, chúng ta có thể thấy khổ. Khi khổ khiến cho
nó cần thiết để thay đổi, đây là vô thường. Vô thường có nghĩa là chúng ta
không thể lưu lại trong cùng một tư thế quá lâu. Cũng như khi chúng ta biết
được oai nghi ngồi (anatta), chúng ta tự động nhận thấy hai đặc tính (tướng)
khác, khổ và vô thường (bằng trí văn và trí tu).
4. Tại
sao chúng ta theo sự đau đớn từ tư thế cũ đến tư thế mới? (Ví dụ, từ oai nghi
ngồi sang oai nghi đứng).
Khi oai
nghi ngồi gặp cơn đau, hành giả (yogi) phải ghi nhận rằng oai nghi ngồi cảm
thấy đau đớn. Khi hành giả thay đổi sang oai nghi đứng, hành giả phải theo dõi
cơn đau để ghi nhận rằng tư thế ngồi vẫn còn đau đớn. Khi cơn đau được điều
trị, hành giả có thể nhận thấy rằng tư thế mới là để điều trị sự khổ, và điều
này sẽ ngăn ngừa phiền não: việc không thích tư thế cũ hoặc thích tư thế mới.
Phiền não được ngăn chặn vì chúng ta biết rằng không có "chúng ta" ở
tư thế cũ hoặc mới. Chỉ có oai nghi ngồi và đứng. Khi hành giả có tác ý đúng
đắn như thế này, sự việc sẽ được nhận ra rằng ngay cả "một" oai nghi
(đứng, đi, v.v...) cũng không hạnh phúc. Bởi vì sự thay đổi từ mới sang cũ,
liên tục với tác ý; hành giả sẽ nhận thức được chân lý: rằng bốn oai nghi đang
che giấu chân lý của khổ (khổ đế).
5. Tại
sao chúng ta nói "oai nghi ngồi" "oai nghi đứng" v.v...?
Bởi vì
oai nghi không giống nhau ở mỗi tư thế hoặc ngay cả trong mỗi tư thế. Oai nghi
ngồi là một oai nghi, oai nghi đứng là một oai nghi khác v.v... Ngay cả danh
pháp biết được oai nghi ngồi thì khác biệt với danh pháp biết oai nghi đứng.
Bởi vì sự việc này danh sắc sinh và diệt chớp nhoáng, và không bao giờ giống
như nhau. Sự hiểu biết này sẽ giúp hành giả nhận thấy rõ ràng sự tác động
(ghanasana) của danh và sắc dẫn đến tà kiến cho rằng danh sắc là "chúng
ta", là ngã (xem 1.11, "Ghanasaññā").
Những
câu hỏi hành giả (yogi) có thể tự đặt ra cho mình
Oai nghi ngồi, có phải vô thường
hay thường còn?
- Nó vô thường.
Làm sao chúng ta biết?
- Bởi vì sự khổ buộc sắc pháp chuyển dịch thường xuyên.
Chúng ta có cái gì tạo ra sự
khổ?
- Chúng ta có sắc pháp và danh pháp.
Danh pháp vô thường hay thường
còn?
- Vô thường.
Làm sao chúng ta biết?
- Nó không thể ở trên một đối tượng mãi mãi. Tâm vẩn vơ sẽ phát sinh.
Danh pháp có khổ đau hay không?
- Nó khổ đau.
Sự khổ của danh pháp được biểu
thị như thế nào?
- Nó không thể ở bất định ở một chỗ.
Sắc pháp
và danh pháp luôn luôn vô thường và khổ. Do đó nó không có ngã; do đó người ta
không thể kiểm soát nó được; do đó nó không phải là sắc pháp". Khi hành
giả nhận thức được điều này, hành giả thấy rõ pháp: pháp mà hành giả thấy là
khổ. Chính khổ này dẫn đến khổ - đế. Khổ đế là Thánh Ðế hành giả không thể điều
trị khổ trong danh và sắc ngoại trừ tạm thời. Cả danh lẫn sắc đều sanh diệt rất
nhanh, và chúng ta không thể sửa đổi nó.
Những điều gì là oai nghi?
- Tư thế trọn vẹn, hoặc hình thức chúng ta ngồi, là oai nghi
Quan sát điều gì trong oai nghi
ngồi?
- "Hành giả" không quan sát tư thế ngồi. Ba danh pháp thực hiện.
2.3.4.
Xem xét sắc và danh
Ðiều
quan trọng là hành giả hiểu rằng sắc pháp và danh pháp phải luôn luôn là đối
tượng của sự tu tập. Thậm chí với sự tinh cần (atapi), hành giả không thể thành
công nếu không có sắc pháp và danh pháp luôn luôn trong sự tỉnh giác hoặc sự
nhận biết của vị này. Tuy vậy, sự tu tập không quá khó khăn lắm, nếu hành giả
thật sự hiểu rõ sự tu tập.
Hành giả
cần phải xem xét sắc pháp và danh pháp thật trọn vẹn trước khi tu tập. Như vậy
hành giả sẽ dễ dàng nhận thức đó là cái nào [2] . Ðiều này giống như việc tập
đọc: người học trò phải biết mẫu tự trước khi cậu ta có thể đọc. Tương tự, hành
giả phải biết sắc pháp và danh pháp để vị này có thể tu tập có kết quả. Nếu
chúng ta không có danh sắc là một đối tượng liên tục trong sự tu tập, ví dụ,
chúng ta sẽ tu tập với ý tưởng là "Tôi đau khổ, và chúng ta không thể loại
trừ ý niệm về cái ngã.
2.3.5.
Samadhi - Ðịnh
Trong sự
tu tập này tốt hơn đừng có quá nhiều định: Ðôi khi với tư thế ngồi, hành giả sẽ
chỉ biết được tư thế ngồi, chứ không phải tư thế ngồi, hoặc ở trong những
trường hợp quá độ thậm chí hành giả sẽ không nhận biết được tư thế. Ðiều này
bởi vì sự định tâm (samadhi) quá mức. Ðể giảm bớt tập trung này, một số bài tập
năng động rất ích lợi: làm các công việc, đi bộ nhanh, ngay cả chạy. Ở trong
bất cứ trường hợp nào, nếu có quá nhiều sự tập trung ở bất cứ tư thế nào, hành
giả nên thay đổi tư thế đó.
Về đề
mục thiền định. Thiền sư Āchan Naeb nói "thiền định thì có niệm xứ sẽ
không dẫn đến Abhijjhā (sự ham muốn), bởi vì nó dẫn đến trí tuệ - trí tuệ này
nhận thức được khổ (đây là một phương pháp để nhận biết nếu sự tu tập của người
đó là đúng).
Không có
niệm xứ thì"Thiền định- Samàdhi không giúp chúng ta an lạc, bởi vì thiền
định đó không tinh khiết. Thiền định đó có phiền não. Mặc dù nó tạo nên an lạc,
nó không thể đoạn trừ Vipallāsa (sự nhận thức sai lầm). Loại thiền định này là
(Sankhāra khandha) hành uẩn và như thế một phần của 5 uẩn (danh và sắc) không
thể diệt khổ được - nghĩa là đạt được Níp bàn (Nibbāna) cũng là danh pháp,
nhưng nó là nicca (thường còn, trường tồn) và sukha (hạnh phúc) bởi vì nó không
phải là một trong 5 uẩn". Khoảnh khắc tư tưởng ngắn ngủi là Níp bàn, như
vậy không có cảm giác [3] .
Ðôi lúc
hành giả sẽ có nhiều định khiến vị này sẽ mất đi cảm nhận đó là tư thế ngồi.
Nhưng vị này sẽ nghĩ rằng mình cảm nhận tư thế ngồi, bởi vị này thiếu sikkhati
(sự học hỏi, tìm hiểu để bảo cho vị này rằng không còn cảm nhận tư thế ngồi
nữa. Cũng như thế, nếu mất đi học hỏi, hành giả có thể cảm thấy khổ nhưng không
nhận thức được tư thế ngồi đó có đau khổ. Vị này sẽ nghĩ rằng "chính bản
thân mình" cảm nhận khổ, vì thế vị này sẽ tiếp tục tu tập với ý tưởng là
"tôi" ngồi tham thiền, đau đớn v.v... và sẽ không thể đoạn trừ tà
kiến về ngã.
Hành giả
phải ghi nhớ rằng tư thế không chỉ là "sắc pháp", nhưng chính là tư
thế ngồi, tư thế đứng v.v... Ngược lại vị này sẽ nghĩ rằng tư thế ngồi, và đứng
đều giống nhau, v.v... Nếu vị này nghĩ như vậy, vị này không thể tiêu diệt cái
ý tưởng của "sự tác động", và hành giả sẽ nghĩ rằng cơ thể là chính
của vị này.
Ðầu
tiên, hành giả (yogi) biết được tư thế ngồi với tác ý; sau đó vị này quan sát
tư thế ngồi với ba danh pháp (nhiệt tâm tinh cần, chánh niệm và tỉnh giác). Khi
sự đau đớn xuất hiện, ba danh pháp biết đó là tư thế ngồi phải chịu đau đớn.
Khi hành giả thay đổi tư thế, tác ý biết sự thay đổi là điều trị sự khổ, và tác
ý này ngăn chặn ham muốn- Abhijjhā và không ham muốn- domanassa khi xâm nhập sự
thay đổi tư thế.
2.3.6.
Uddhacca: Tâm phóng dật (vẩn vơ)
Một
nguyên nhân của tâm vẩn vơ là có quá nhiều atapi (nhiệt tâm tinh cần). Ðiều này
khiến cho hành giả thúc đẩy tâm phóng dật làm cho nó tồi tệ hơn. Tâm phóng dật
là danh pháp; tâm phóng dật xuất hiện trong tâm là chuyện bình thường và cũng
có trong Tứ niệm Xứ (Satipaṭṭhāna), bởi vì nó là vô thường, khổ não và vô ngã.
Tâm vẩn vơ dẫn dắt tâm đến việc không thể kiểm soát được (natta).
Mục đích
của sự tu tập là diệt trừ lòng ham muốn và không ham muốn với nhiệt tâm tinh
cần, chánh niệm và tỉnh giác. Nếu hành giả thích định tâm, đó là ham muốn,
nhưng khi hành giả không thích phóng dật khi ấy nó phát sinh, bởi vì không có
sự định tâm (tập trung), điều này tạo nên không ham muốn. Nói một cách khác, vị
này không thể diệt trừ ham muốn hoặc không ham muốn. Vì vậy tâm phóng dật không
phải là ham muốn hoặc không ham muốn.
Hành giả
tu tập để phát triển thiện pháp. Thay vào đó, vị này gặp phải akusala (bất
thiện). Vị này có sự chán ghét tâm phóng dật. Sự chán ghét này bởi thiếu trí
tuệ, đặc biệt là khéo tác ý (Cetanā) . Tác ý biết tâm phóng dật là danh pháp,
tâm phóng dật thì tự nhiên, bởi vì nó vô thường, khổ, và vô ngã. Tâm phóng dật
xảy ra bởi ba danh pháp không kiểm soát được ở hiện tại. Khi hành giả nhận thức
được tâm phóng dật là danh pháp, sẽ biến mất và danh pháp sẽ trở lại với khoảnh
khắc hiện tại. Ðừng đi theo "câu chuyện" (rèn luyện các ý tưởng) của
tâm phóng dật, hoặc điều này sẽ đưa hành giả phải đi xa với khoảnh khắc hiện
tại. Nếu hành giả biết "câu chuyện" hành giả không có sự tỉnh giác.
Nếu hành giả có tỉnh giác, hành giả sẽ không biết câu chuyện. Ðơn giản nhận ra
nó là tâm phóng dật và tâm sẽ trở lại với khoảnh khắc hiện tại.
Khi hành
giả trở lại với khoảnh khắc hiện tại, vị này sẽ thấy được oai nghi ngồi rõ
ràng. Sự việc này là vì hành giả không nỗ lực nhận thấy oai nghi (không có
phiền não). Ðây là tâm có chánh niệm tỉnh giác và cần được duy trì, nhưng không
nên ép buộc nó. Sự tu tập này là quan sát danh và sắc giống như một khán giả;
đừng cố gắng thay đổi hoặc kiểm soát chúng. Sau đó cần có thêm nhiều kinh
nghiệm hơn, tâm vẩn vơ (tâm giống như con khỉ) trở thành người thuần phục và
hành giả sẽ ở trong khoảnh khắc hiện tại càng ngày càng nhiều hơn. Hành giả sẽ
dễ dàng nắm bắt khoảnh khắc hiện tại hơn.
2.3.7.
Sự pha tạp
Bị đau
ốm không phải sự trở ngại của việc tu tập. Nhưng hành giả hầu như sẽ không có
thể cảm thấy được oai nghi, bởi vì bệnh tật sẽ quá mạnh mẽ. Hành giả phải theo
dõi bệnh tật, xao lãng tư thế, và nhận ra rằng sắc thân là khổ [4] đó là
khổ đế. Và vị này cũng thấy rằng sắc pháp là vô ngã; người ta không thể kiểm
soát được nó
[5] .
Làm cách
nào hành giả biết được khi tâm có chánh niệm tỉnh giác phát sinh (ở khoảnh khắc
hiện tại)?
Khi tâm
đã có chánh niệm, tỉnh giác phát sinh, nó biết được tư thế (đây là chánh niệm),
và tâm biết được tư thế là oai nghi ngồi, v.v... (đây là tỉnh giác). Khi chánh
niệm, tỉnh giác phát sinh, sự cảm nhận sẽ là một điều không còn sự lo lắng,
không bất an, và không có sự chán nản trong việc tu tập.
Nếu hành
giả có quá ít sự hăng hái, kết quả sẽ là sự lười biếng hoặc không có sự chú tâm
đến tu tập. Quá ít sự hăng hái dẫn đến sự thiếu hiểu biết sự tu tập, không có
khả năng thấy được khổ và sự cần thiết để loại trừ phiền não; và không có khả
năng để nhận thấy rằng chúng ta có thể chết bất cứ lúc nào và phải tận dụng nó
với bất cứ thời gian nào mà chúng ta có được. Hành giả cũng nên nhớ rằng đức
Phật đã để lại một di sản giáo pháp cho chúng ta, đó là Satipaṭṭhāna (Tứ niệm
xứ; do đó chúng ta nên tận dụng nó trong cuộc sống này.
Người
mới tu tập nên nhớ rằng sự tu tập này là một thiện pháp rất cao thượng (sự đoạn
trừ phiền não), và nó có thể mất thời giờ. Ðiều này vì thiện pháp sẽ đưa hành
giả thoát khỏi sự khổ - và điều này không dễ dàng. Hành giả đừng nên vội vã tìm
cách đặt cho được những thành quả. Hầu hết các hành giả cũng đã tu tập sai
trước đó và nó cần thời giờ để phát triển sự tu tập theo chánh pháp tốt đẹp.
2.4 KẾT LUẬN
Sự tu
tập đứng đắn sẽ dẫn đến kết quả đúng. Sự tu tập đúng tùy thuộc vào trí tuệ và
những nghiệp tích lũy trước đó (đã có sự tu tập tốt đẹp ở những kiếp trước).
Ðiều
quan trọng trong sự tu tập là thay đổi tà kiến hoặc ý tưởng sai lạc cho rằng
danh sắc là "chúng ta", hoặc có cái ngã. Nếu hành giả không thể thay
đổi được tà kiến này thì không thể đạt được tuệ (giai đoạn trí tuệ) đầu tiên -
không có tuệ, đầu tiên này vị này không thể phát triển 16 tuệ và đạt được níp
Bàn thật sự. Khi kết quả đúng thật xảy ra, hành giả biết được bản thân - nó
giống như việc nếm đường; hành giả không cần một người thầy để dạy cho hành giả
có mùi vị gì.
Thời đại
này là thời đại của tham ái mạnh mẽ và trí tuệ yếu kém. Bởi vì đây là thời đại
vật chất đối với mọi người (không chỉ dành cho các nhà vua, như thời xưa) và kỹ
thuật cao làm cho tâm của chúng ta lệch hướng rất nhiều. Những hành giả mới tu
tập cho rằng mình thích tu tập và chắc chắn nhận thấy được giáo pháp (dhamma)
rất nhanh, vị này sẽ thất bại. Vì điều này phiền não có một sức mạnh to lớn; nó
đã tích lũy trong chúng ta lâu lắm rồi. Người sẽ loại trừ được phiền não trong
tâm là người phải có sự học hỏi đúng đắn để loại trừ phiền não và phải hiểu
biết được sự thực hành tu tập qua sự học hỏi những lời phát biểu xác đáng của
Ðức Phật. Không có giáo lý đúng thật và sự tu tập đúng đắn để chấm dứt khổ,
người ấy không thể đạt được Níp Bàn.
Thiền sư
Achaan Naeb nói rằng sự tu tập Thiền Minh Sát thành công là rất khó khăn hơn
việc đi trên một sợi dây; nếu hành giả ngã xuống, hành giả phải tiếp tục đứng
lên và nỗ lực trở lai. Ðây là sự hăng hái (atapi), hướng thẳng đến bằng sự giúp
đỡ của chánh niệm tỉnh giác để có chánh niệm ở từng khoảnh khắc. Sự duy trì con
đường Trung Ðạo (không thích hoặc không ưa) đòi hỏi nhiều sự quân bình cẩn
thận. Nó thật khó khăn, nhưng có thể đạt được - nếu hành giả thật lòng muốn
diệt khổ.
Có rất ít người đạo đức
Ðã đạt được bến bờ xa hơn
Nhưng phía bên bờ này có
Nhiều người đang lặn hụp
Khi đã thấy được giáo pháp
Ðúng đắn, những người đi cùng nó
Họ sẽ đến bờ và vượt qua
Vương quốc của sự chết thật khó mà vượt qua
Từ bỏ thế giới đen tối
Hãy khôn ngoan theo đuổi
Từ bỏ mái ấm của những kẻ vô gia cư
Nơi đó chắc chắn rằng có ít niềm vui
Hãy để người ấy mong ước niềm hạnh phúc không ràng buộc
Giã từ tham ái và sở hữu những gì không có thực
Hãy để người khôn ngoan làm trong sạch bản thân
Từ lòng nhiệt thành của trái tim
Họ ở trong
Giúp cho tâm phát triển đúng đắn
Hân hoan từ bỏ sự chấp thủ
Hân hoan được giải thoát
Họ đã được chữa trị những gì xấu xa, đồi bại
Tất cả đều tỏa sáng rực rỡ
Trong một thế gian hoàn toàn nguội lạnh.
-- (Kinh Pháp Cú, 85-9. Trung Bộ Kinh, 117)
Những Phần Minh Họa
Sơ đồ 2-1 Bản tóm tắt các căn
(Ayatana) và đề mục thiền quán
Sơ đồ 2-2 Thực tướng Pháp (chi tiết)
Sơ đồ 2-1
Bản tóm tắt các căn (ayatana) và các đối tượng Thiền Minh Sát
Lý
Thuyết
|
Căn
môn
|
Sắc
pháp
|
Danh
pháp
|
Chọn
lựa Danh hay Sắc
|
1. Mắt
|
Hình
dạng là sắc pháp
|
Sự
biết được hình dạng là danh
|
"Nhãn
thức"
|
2. Tai
|
Âm
thanh là sắc pháp
|
Sự
biết được âm thanh là danh
|
"Nhĩ
thức"
|
3. Mũi
|
Hương
là sắc pháp
|
Sự
biết được hương là danh
|
Hương
là sắc
|
4.
Lưỡi
|
Vị là
sắc pháp
|
Sự
biết được vị là danh
|
Vị là
sắc
|
5.
Thân
|
Nóng;
lạnh, cứng; mềm. Thân xúc chạm là sắc pháp
|
Sự
biết được xúc chạm là danh
|
Cảm
xúc là sắc pháp
|
6. Tâm
|
Các tư
thế Tiểu và Ðại là sắc pháp
|
Sự
biết được Tiểu và Ðại tư thế là danh; suy nghĩ về sự thay đổi tư thế là danh;
tâm vẩn vơ là danh; Yêu, ghét v.v... là danh, biết đau đớn là danh
|
Tứ oai
nghi là sắc pháp, các chức năng tâm khác là danh pháp
|
Lý do:
Chúng ta
nghĩ rằng "Tôi thấy" và tà kiến, phiền não, này cần phải đoạn diệt
bằng "nhãn thức" (Sabhava) - là chánh kiến
Chúng ta
nghĩ rằng "Tôi nghe" và tà kiến, phiền não này cần phải đoạn diệt
bằng "nhĩ thức" (Sabhava) - Chánh kiến
Chúng ta
nghĩ rằng "Tôi đang ngửi" và tà kiến, phiền não này phải được đoạn
diệt bằng "hương là sắc pháp (Sabhava) - đó là Chánh kiến
Chúng ta
nghĩ rằng "Tôi đang nếm vị ngọt"; "Tôi đang nếm vị chua" và
tà kiến, phiền não này, cần được đoạn trừ bằng "Vị là sắc pháp"
(Sabhava) - là Chánh kiến
Chúng ta
nghĩ rằng "Tôi nóng". Tôi lạnh "tà kiến phiền não này cần được
đoạn diệt bằng "sắc pháp là nóng (Sabhava) - Chánh kiến
Chúng ta
nghĩ "Tôi ngồi, tôi đứng" và tà kiến, phiền não này cần được đoạn
diệt bằng "oai nghi ngồi" v.v... (Sabhava) là Chánh kiến: chúng ta
nghĩ "Tâm tôi đang vẩn vơ - Tôi yêu v.v... và tà kiến này, phiền não.
Sự tu
tập:
Ba danh [6] quan
sát "tâm nhãn thức"
Ba danh quan sát "tâm nhĩ thức"
Ba danh quan sát hương là sắc pháp
Ba danh quan sát vị là sắc pháp
Ba danh quan sát các cảm giác
Ba danh quan sát các tư thế cùng với các chức năng của tâm
1. Sotāpanna-Tu đà hườn (diệt
thân kiến, hoài nghi, và giới cấm thủ)
2. Sakadagami- Tư Ðà Hàm (Tham và sân yếu đi)
3. Anagami -A Na Hàm (Tham và sân bị đoạn diệt)
4. Arahant -A la hán (diệt: tham sắc giới, tham vô sắc giới, ngã mạn, phóng dật
và vô minh)
* 4 giai đoạn chứng đắc = 4 tâm
đạo, 4 tâm quả
** Níp Bàn là đối tượng (duy nhất một níp bàn)
[1] Ðoạn trừ phiền não tạm thời
(Tandaganirodha) bắt đầu với tuệ Danh sắc (Nāma rūpa-paricchedanana) ở nơi đây
nó loại trừ tà kiến về "cái Tôi" và tiếp đến tuệ Thuận
thứ-anulomanana, ở đây sự đoạn diệt sau đó trở thành thường còn (xem 3.1,
"Tuệ 16").
[2] Ðể biết nên dùng sắc pháp hay
danh pháp là những đối tượng ở lục căn hay căn xem Sơ đồ 2-1, "Phần tóm
tắt câu Ayatana (Lục căn) ở cuối Phần Tu Tập
[3] Khi Udayi hỏi ngài Sariputta làm
thế nào mà Níp bàn có thể hạnh phúc, và không có cảm thọ, ngài Sariputta đáp
lại "Thật chính xác không có cảm thọ đó là hạnh phúc"
(Anguttara-Nikāya, Nibbāna-Sutta)
[4] Sắc pháp, được xem xét là bệnh,
thì không còn là oai nghi ngồi v.v...,nhưng trở thành sắc thân (sắc là thân)
[5] Ðức Phật dạy cho một người tại
gia, Nakun, khi bệnh tật xảy ra trong thế gian tầm thường này, thân bất an thì
tâm cũng vậy, nhưng đối với một người đã đoạn trừ được tà kiến (ảo tưởng về Ngã
- 20 loại của) thân thì bất an nhưng tâm thì không
[6] (a) Ba danh đề cập đến nhiệt
tâm, chánh niệm và tỉnh giác. (b) Sự Nghe là chánh niệm. Biết được tâm nhĩ thức
là tỉnh giác.