Thiền sư Thích Duy Lực, vấn đáp Phật Pháp tại Trường CBPH Đại Tòng Lâm, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
08/04/2011 05:49 (GMT+7)


Hỏi : Khi quán Đức Phật trăm phước trang nghiêm, cái quán đó có phải vọng tưởng không ?

Đáp : Thầy nói cái quán đó nằm trong tông phái nào ?

Hỏi : Dạ, cũng như thay vì quán hơi thở mà nay quán trăm phước trang nghiêm của Đức Phật ?

Đáp : Quán hơi thở gọi là Sổ tức quán, là một trong năm thứ thiền quán của thừa Thanh văn, gọi là Ngũ Đình Tâm quán, ba gồm: Từ bi quán, Nhân duyên quán, Lục thức quán, Bất tịnh quán và Sổ tức quán, ấy là thiền quán riêng biệt của thừa thanh văn dùng để đình chỉ cái tâm.

Lại nữa, cách đếm hơi thở gọi là Lục diệu môn, cũng là của Tiểu thừa, nếu theo đó tu có thể đạt đến diệu cảnh của Niết bàn Tiểu thừa. Trong cuốn Danh từ Thiền học chú giải của tôi cũng có giải thích những danh từ đó.

Còn bây giờ thầy hỏi là thiền quán nào? Nếu nói về Tổ Sư Thiền thì đó là vọng tưởng, nếu nói là Tịnh độ thì không phải, vì trong mười sáu thứ thiền quán có quán tượng Phật của A Di Đà, chứ không quán trăm phước trang nghiêm của Đức Phật.

Nếu tham thoại đầu mà quán Phật là vọng tưởng, chớ nói là quán, ở trong Thiền đường của Tòng lâm Thiền Tông, niệm một tiếng Phật phải phạt rửa thiền đường ba ngày! Còn Tịnh độ thì phải niệm Phật. Bởi vậy, hễ theo pháp thiền quán nào phải theo đúng tông chỉ tông phái đó, chứ chẳng phải đều giống nhau, do đó Đức Phật mới dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn.

Hỏi : Có một cô Phật tử năm nay sáu mươi lăm tuổi, chồng cô ta mắc bệnh tâm thần hơn bốn mươi năm nay, chạy đi thầy thuốc chẳng hết bệnh, cũng chẳng chết. Cô ấy muốn lập đàn sám hối thay chồng, vậy có lợi ích gì cho người chồng không ?

Đáp : nhân quả là ai làm nấy chịu, chứ chẳng thể người này làm cho người khác được.

Hỏi : Chồng của cô ấy trước kia cũng làm ra một số tiền, nay cô muốn đem số tiền bố thí cúng dường hoặc làm một việc gì đó cho chồng được nhẹ bớt bệnh ?

Đáp : Nhưng người chồng phải biết sự phát tâm đó, vì có biết mới có tâm tạo, hễ tâm tạo một niệm thiện, có thiện nhân mới được thiện quả.

Hỏi: Vậy ông đó phải phát tâm mới được ?

Đáp: Phải.

Hỏi : Con là học Tăng mới, trong quá trình công phu con gặp phải những hiện tượng bức xúc như cảm thấy thân không còn nữa, hoặc như đứng trước ngã tư đường, bốn phía đều bị vây chặt, phía trước lại là hố thẳm chẳng thể bước tới, hoặc như đứng trước một bức tường chẳng thể xuyên qua … vậy đó có phải thiền bệnh chăng?

Đáp : Tất cả thiền đều có thể trải qua những cảnh giới đó. Theo Kinh Lăng Nghiêm, những cảnh giới đó nếu không cho là thù thắng thì là cảnh giới tốt, nếu cho là thù thắng sẽ lọt vào tà ma.

Còn Tổ Sư Thiền đối với tất cả cảnh giới đều không biết, hễ có biết ấy là vọng, là nghịch với Tổ Sư Thiền, là chướng ngại sự kiến tánh. Phải dùng nghi tình để quét sạch những cảnh giới đó, dẫu cho Phật Thích Ca đến rờ đầu thọ ký vẫn là không biết, cứ nhìn và hỏi, những cảnh giới đó tự nhiên tiêu diệt, vì pháp môn này là dùng cái không biết để tu, đến chừng biết được rồi thì tất cả đều biết, gọi là Chánh biến tri.

Hỏi : Khi đọc Kinh Pháp Bảo Đàn, con gặp hai bài kệ :

 “Ngoại Luân hữu kỹ lưỡng, năng đoạn bá tư tưởng,

đối cảnh tâm bất khởi, Bồ đề nhật nhật trưởng”

. Còn ngài Lục Tổ lại nói:

 “Huệ Năng một kỹ lưỡng, bất đoạn bá tư tưởng,

đối cảnh tâm số khởi, Bồ đề tác ma trưởng”.

Ý của hai bài này như thế nào ?

Đáp : Bài kệ của Lục Tổ là để phá sự chấp thật của Ngoạ Luân, vì Ngoạ Luân có tư tưởng chấp thật, mà thực tế thì chẳng có cái nào thật. Tại sao? Vì tất cả đang biến hóa, hễ có biến đổi thì chẳng thật. Ví như mặt mũi của thầy, nhìn vào hình như lúc nào cũng giống nhau, nhưng sự thật có thay đổi, sát na trước và sát na sau đều khác nhau. Cũng như khi đốt lên cây đèn nến, thấy ngọn lửa như y hệt, nhưng ngọn đèn sát na trước và sát na sau đã hoàn toàn khác, chúng sinh không biết, chỉ cho là giống nhau thôi.

Hỏi : Đức Phật dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, tùy theo căn cơ của chúng sinh để hành trì, mục đích là tới thanh tịnh tâm; nhưng tại sao ngài Lục Tổ lại phủ nhận toàn bộ bài kệ của Ngoạ Luân ?

Đáp : Do thầy cũng có tư tưởng chấp thật nên có câu hỏi này, vì chấp thật mới cho là cái này đúng, cái kia sai. Nếu không chấp thật tức nghĩa vô trụ, chẳng trụ chỗ nào cả. Hễ vô trụ thì cái nào cũng như cái nấy, ăn cơm cứ ăn, nói năng tiếp khách cứ nói năng tiếp khách, vốn chẳng dính dáng gì. Chẳng cho là cơm này ngon cơm kia không ngon, áo này đẹp áo kia xấu … đủ thứ phân biệt đều do tự tâm mình tạo ra, nên nói nhất thiết duy tâm tạo.

Hỏi : câu :“Dục trừ phiền não trùng tăng bệnh, xu hướng Chơn như tổng thị tà”, hai câu này đối đãi nhau, trong khi con muốn trừ phiền não thì phải làm sao?

Đáp : Tất cả lời nói của chư Phật chư Tổ đều chẳng thật, chính Đức Phật nói: “Phàm là lời nói đều chẳng có nghĩa thật”, Kinh Kim Cang nói: “Vô pháp khả thuyết mới gọi là thuyết pháp”. “Nếu ai nói ta có thuyết pháp là phỉ báng Phật”, vậy có phải mâu thuẫn không ? Không, bởi vì lời nói đó chẳng phải, cái phải đó chẳng thể nói. Tất cả những gì mình hiểu được, nói được đều chẳng phải thực tế, cái thực tế đó phải ngộ mới được.

Hỏi : Thể tánh của Phật là thể tánh không, thế thì tại sao bày ra đủ pháp môn này pháp môn kia như Tổ Sư Thiền chẳng hạn, không khéo lại đem bụi bậm vào thể tánh đó ?

Đáp : Tất cả pháp của Phật Thích Ca dạy đều là phương tiện, mục đích để đạt đến chỗ hiện ra bản lai diện mục của tâm mình, tất cả danh từ chỉ là danh từ chứ chẳng có thực tế.

Nói đến cái Không đó, bởi do tâm của mọi người chẳng hình tướng số lượng, “Không” là để hiện bày cái dụng, muốn dùng thì phải có cái Không đó. Ví như cái tách này, nếu chẳng có cái không, ấy là tách chết, dùng không được, cái bàn này, bình này, căn nhà này v.v... cũng vậy. Mà cái Không này là vô sở hữu, vô sở hữu mà dung nạp tất cả, tất cả đều ở trong vô sở hữu này, và tất cả đều phải nhờ cái vô sở hữu này mới hiển bày được sự dụng.

Nếu vô sở hữu thì chẳng nghĩa lý, chẳng lời nói chẳng danh từ nào để nói; bây giờ muốn nói, đặt ra những danh từ là phương tiện cho mọi người hiểu được cái dụng. Ví như bản thể của tâm khắp hư không chẳng khứ lai, nên đặt tên Như Lai, là đúng như bản lai; vì khắp thời gian thì chẳng sanh diệt, nên đặt tên Niết bàn, vì trống rỗng chẳng có gì cả nên đặt tên Tánh Không v.v...

Hỏi : Nếu như thế thì đâu cần bàn là giải thoát hay không giải thoát ? Vì thể tánh vốn như thế !

Đáp : Phải. Cho nên có người đến với Tổ sư, Tổ sư hỏi: Muốn gì ?

- Muốn cầu giải thoát.

Tổ hỏi: Ai trói buộc ngươi?

Vốn là không trói buộc thì đâu cần giải thoát, phải không ? (Dạ phải), nhưng chính bây giờ ông bị trói buộc rồi, do tâm ông tự trói nên mới cầu giải thoát.

Hỏi : Bạch Hòa thượng, đúng, nhưng nếu con bị trói buộc thì ngay bản thân con phải tự giải thoát chứ đâu nhờ ai giải thoát cho con được ? Sở dĩ đặt ra những phương pháp đó chẳng qua chỉ là phương tiện thôi!

Đáp : Nếu không đặt ra thì ông làm sao biết để đi đến giải thoát ? Cho nên Đức Phật mới đặt ra phương tiện, mặc dầu đặt ra, nhưng ngài lại sợ người ta chấp vào lời nói của Phật, nên nói: “Ta bốn mưới chín năm chưa từng thuyết một chữ”, “Ai nói ta có thuyết pháp là phỉ báng Phật”, vậy ông có hiểu không ?

- Dạ hiểu.

- Thế thì khỏi hỏi nữa.

Hỏi : Mỗi người đều có một viên minh châu, vậy đâu là viên minh châu của Hòa thượng ?

Đáp : Bây giờ nói chỉ là lời nói, ví như nói về cái tâm, cũng chỉ là danh từ để nói thôi. Mặc dầu Phật đặt ra những danh từ, nhưng ngài nói là chẳng có nói. Tại sao ? Vì cái thực tế nói không được.

Đức Phật đặt ra danh từ rồi bảo chúng ta phải thực hành, phải đi đến chỗ thực tế của danh từ đó. Muốn đến chỗ thực tế của danh từ đó phải tu.

Hỏi : Qua những câu hỏi trên, khiến con nhận thức rằng những tri kiến được tiếp thu qua vạn pháp ở thế gian đều là những phương tiện, chẳng phải cứu cánh. Những văn tự ngôn từ diễn đạt tình trạng tâm linh mà người ta thường dùng, vô tình đã gây chướng ngại cho sự phát triển  Minh tâm Kiến tánh. Vậy xin Sư phụ từ bi khai thị phương pháp độc đáo của Tổ Sư Thiền cho chúng con hầu thấu triệt công phu trên đường tu tập.

Đáp : Cái độc đáo nhất ấy là vô sở hữu, tức hư không trống rỗng vô sở hữu. Tất cả chúng sinh, vũ trụ vạn vật, núi sông đất đai, nhà cửa cây cối, đều phải ở trong vô sở hữu này; trong cuộc sống hằng ngày, mặc áo ăn cơm, nói năng tiếp khách … đều phải nhờ cái vô sở hữu này.

Tâm của con người luôn muốn có sở hữu: Tiền này là sở hữu của tôi, nhà này là sở hữu của tôi, bất cứ tài sản gì đều muốn thuộc về sở hữu của tôi, từ đó sanh ra đủ thứ phiền não, chướng ngại cái dụng vô sở hữu.

Sự dụng của vô sở hữu vốn khắp không gian thời gian, chẳng có hạn chế, nay hễ sanh ra một mảy may cầu sở hữu liền bị hạn chế, chướng ngại cái dụng của tâm vô sở hữu. Nên pháp tham thiền là dùng cái không biết để tu, vì không biết thì chẳng thể có tâm muốn sở hữu, hễ mống tâm mong cầu là biết vậy.

Hỏi : Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, có hai đoạn hình như mâu thuẫn nhau: Đoạn trên ngài Lục Tổ dạy Huệ Minh khi đối cảnh chẳng khởi thiện chẳng khởi ác, đoạn sau lại dạy cho Ngọa Luân đối cảnh tâm cứ khởi, vậy hai đoạn này có phải mâu thuẫn không?

Đáp : Lời nói của Lục Tổ nói với Huệ Minh chẳng phải lời dạy, ấy là câu thoại đầu, thoại đầu là chưa nổi niệm lên, chẳng khởi niệm thiện cũng chẳng khởi niệm ác mới được gọi là thoại đầu. Nếu đã khởi lên một niệm, dù là niệm thiện, cũng gọi là thoại vĩ chứ chẳng phải thoại đầu. Đến thoại đầu là chẳng có niệm nào, chỗ đó gọi là đầu sào trăm thước, hễ tiến thêm một bước là Kiến tánh. Lục Tổ là muốn Huệ Minh ngay đó Kiến tánh, chứ chẳng phải là dạy.

Đối với bài kệ để phá chấp thật của Thiền sư Ngọa Luân, như trên đã nói, chỉ là phá chấp thật thôi, cũng chẳng phải là dạy. Bởi vì vô sở hữu thì đâu có gì để dạy ! Chư Phật chư Tổ cũng chẳng có gì để dạy, chẳng có gì cho người; trong Truyền Đăng Lục nói: “Nếu nói tôi có gì cho ngươi, ấy là lừa gạt ngươi”.

Cho nên, nếu dùng tư tưởng chấp thật để tìm hiểu kinh điển Đại thừa là sai lầm, vì tất cả kinh Đại thừa đều chỉ là phá chấp thật mà thôi.

    Hỏi : Trong kinh Phật thường nói đến hai chữ “Chánh niệm”, tức tâm mình ở trong trạng thái chánh niệm. Theo con hiểu, chánh niệm là vô niệm. Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Vô niệm là nơi niệm mà lìa niệm”, tức trong tâm chẳng khởi niệm nào thì tâm được chánh định, phải không ?

Đáp : Phải. Bài Vô Tướng Tụng trong Kinh Pháp Bảo Đàn: “Vô niệm niệm tức chánh, hữu niệm niệm thành tà”, chẳng có niệm nào cả là chánh niệm, bất cứ nổi lên niệm gì, dù là niệm thiện, cũng thành tà. Chữ Tà này chẳng phải tà ác, chỉ là không đúng với chánh thôi.

Hỏi : Lúc tâm mình chẳng khởi lên một niệm nào, thì tâm ở vào trạng thái đó gọi là chánh định, phải không ?

Đáp : Lúc đó sẽ gần đến bản lai. Câu tiếp theo trong Vô Tướng Tụng là “Tà chánh đều chẳng chấp” mới là đến chỗ bản lai. Nếu còn chấp vào cái chánh, chỉ là đến thoại đầu, chỗ đầu sào trăm thước, nên phải từ đầu sào trăm thước tiến thêm một bước, tức chẳng trụ nơi chánh nữa.

Hỏi : Nếu tham đến chỗ chỉ còn một niệm, tức nhìn vào câu thoại muốn biết mà biết không nỗi đó thiền gọi là nhất tâm bất loạn phải không ?

Đáp : Nói nhất tâm bất loạn là của pháp môn Tịnh độ, còn Thiền Tông thì định với loạn là tương đối, ví như vô ký, dù lúc đó tâm chẳng có loạn, mà Thiền Tông cho đó cũng là bệnh.

Vì Thiền Tông muốn giữ sự thắc mắc, muốn biết mà không biết, vẫn còn là không biết. Nhất tâm bất loạn của Tịnh độ có cái nguyện cầu vãng sanh, còn Thiền Tông thì chẳng có nguyện, vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ, nên giống mà chẳng phải.

Tổ Sư Thiền là pháp thiền trực tiếp, mục đích là đi đến chỗ ngộ, chứ không muốn đi đến chỗ nhất tâm bất loạn, thanh thanh tịnh tịnh. Chẳng có sự mong cầu gì, hễ công phu đến mức tự động sẽ ngộ.

Hỏi : Về phần lý, đến chỗ nhất tâm bất loạn có phải là định chưa ?

Đáp : Tất cả thiền đều muồn đạt đến thiền định giải thoát, còn Tổ Sư Thiền thì như ngài Lục Tổ nói với Pháp sư Ấn Tông trong Kinh Pháp Bảo Đàn: “Thiền định giải thoát chẳng phải Phật pháp, Phật pháp là pháp bất nhị”. Những gì của Giáo môn coi trọng như thiền định giải thoát … thì Thiền Tông lại không màng đến, nên Lục Tổ nói thẳng là chẳng phải Phật pháp.

Vì Thiền Tông là muốn đến chỗ thực tế, thực tế bất nhị, chẳng tương đối. Thiền định là đối với tán loạn, dẹp bỏ tán loạn rồi mới nói là định; giải thoát là đối với trói buộc, mở trói rồi mới được giải thoát. Tự tánh bất nhị, vốn chẳng phải loạn thì làm sao có định; vốn chẳng trói buộc thì làm sao nói là giải thoát !

Cho nên, có một vị Tăng đến hỏi Tổ sư xin giải thoát, Tổ nói:

- Ai trói buộc ngươi ?

- Chẳng ai trói.

- Thế thì đâu cần giải thoát !

Thiền Tông khác với các tông phái khác là đối với tất cả những danh từ đều không màng đến, những gì Giáo môn cho là quí, Thiền môn cho đó là dây xích bằng vàng, cũng là dây xích trói buộc thôi.

Hỏi : Về phần hành, khi nghi tình làm mất câu thoại, tiến vào vô thỉ vô minh hoặc đến thoại đầu, vậy thì thoại đầu với nơi chánh niệm hay chánh định đó có khác nhau không ?

Đáp : Bây giờ nói chánh niệm, thoại đầu, vô thỉ vô minh, căn bản vô minh v.v… mặc dầu đủ thứ tên gọi nhưng không khác, tức chỗ đó là nguồn gốc của ý thức, từ chỗ đó tiến lên một bước, lìa ý thức là Kiến tánh, phải lìa ý thức rồi mới không có tương đối, còn ý thức là còn phân biệt tương đối.

Hỏi : Về phần lý là vô niệm, tức nơi niệm mà lìa niệm, về phần thực hành thì pháp môn tham thoại đầu đã đưa người ta thực sự tâm chẳng còn dính một niệm nào, vậy theo con tìm hiểu pháp tham thoại đầu này qua phần lý và phần thực hành rất tương ưng. Chúng con được pháp này là một điều đại nhân duyên, nay con đã được Hòa thượng từ bi khai thị rõ ràng, chỉ dẫn con đường sáng tỏ để đến bờ bên kia, xin thành kính cảm tạ Sư phụ.

Đáp : Đó là bổn phận của tôi. Bổn phận của người tu sĩ là đi đúng theo nghĩa chữ Phật: Tự giác và Giác tha, muốn Tự giác Giác tha phải dùng công phu, phải tu, nếu chỉ học hỏi là không đủ.


Hỏi : Sư phụ vì lợi ích tất cả mọi người đứng ra hoằng pháp, khổ tâm khổ trí, theo tư cách của một người tu phải chơn tham, chơn thực tu hành mới mong đạt đến kết quả giải thoát. Thế mà có những người bắt chước lời Phật lời Tổ, bắt chước cách làm của Tổ, làm trò cười cho thiên hạ, kinh Phật nói là “Kẻ đáng thương xót”. Đối với những người đã lâm vào tà kiến như thế, có cách nào giúp cho họ ra khỏi sự tà kiến đó ?

Đáp : những người không có sự chơn tu, chỉ bắt chước lời nói cử chỉ của chư Phật chư Tổ, Thiền Tông gọi là “con chó” chứ chẳng phải con sư tử, tự tạo tội địa ngục mà chẳng hay. Những người này chẳng cách nào trị nổi, kể cả Phật Thích Ca. Phải đợi họ xuống địa ngục, chịu đủ khổ rồi ra mới sửa đổi được, còn bây giờ thì vô phương trị.

Hỏi : Những người xuất gia học Phật pháp đều biết rằng đã xuất gia lìa khỏi gia đình, đối với tình cảm cha mẹ họ hàng đều không quan tâm đến, gọi là thân sơ bình đẳng. Nhưng bản thân con chắc do ảnh hưởng tư tưởng thế gian nhiều, cho nên, tình cảm cha mẹ vẫn ăn sâu vào tâm khảm, nhất là khi về nhà thăm gia đình, thấy cha mẹ tuổi già vẫn còn phải lao động làm con cảm thấy buồn. Vậy đó là do tâm trí con quá yếu hèn, phải không ?

Đáp : Đó là tập khí phiền não từ lâu đời, người nào cũng vậy. Bây giờ tu là muốn sửa lại tập khí, phải có công phu mới sửa đổi được. Kỳ thật, cha mẹ vẫn có nhân quả của cha mẹ, con cái tự có nhân quả của con cái. Đối với cha mẹ kiếp này, nếu mình không xuất gia thì ở nhà lo cho cha mẹ, còn đã xuất gia, thọ sự cúng dường của mười phương, phải xem cha mẹ cũng như những Phật tử khác vậy.

Tôi thường nói tu sĩ phải Tự giác Giác tha, cha mẹ cũng nằm trong đối tượng Giác tha đó, đâu phải ở ngoài ? Như Phật Thích Ca thành đạo rồi cũng về độ hết cha mẹ vợ con và dòng tộc, nhưng không xem họ là đặc biệt hơn, cũng như đối với cha mẹ người khác vậy.

Hỏi : Con theo Sư phụ đã được đôi ba năm, xét về phần tu hành không thấy khả quan lắm, nhưng vẫn cố gắng học hỏi tu tập giới luật, nếu có thời gian rãnh cũng nghiên cứu kinh điển, trao đổi thêm giới phẩm của mình.

Thấy gần đây những tu sĩ phần nhiều chú trọng học thức, không chịu nghiên cứu thêm giới luật, tế hạnh, để làm mô phạm cho tất cả chúng sinh, làm bậc thầy của trời, người, nên con thấy đây là vấn đề nan giải và đau lòng nhất. Kính mong Sư phụ ban cho vài lời cảnh sách.

Đáp : Nói đến Giới luật rất vi tế. Luật sư Hoằng Nhất ở Trung Quốc thời gần đây nói: Mặc dầu ngài đã thọ giới Tỳ kheo qua Tam đàn đại giới, nhưng đối với sự vi tế của giới luật Tỳ kheo cũng chưa đủ, mà chỉ giữ đầy đủ ngũ giới của cư sĩ thôi. Thế mới biết sự vi tế như thế nào.

Người phạm giới là vì muốn thỏa mãn dục vọng của mình, nếu có công phu thì tự nhiên không nhớ đến dục vọng và giữ giới được, còn bây giờ học và ghi nhớ giới luật, nhưng gặp cảnh liền bị cảnh lôi kéo và phạm giới. Cho nên, những người thông suốt giới luật vẫn phạm giới, do không có tu nên chẳng có sức lực dẹp tan dục vọng. Ví dụ đối với số tiền ít thì không bị động tâm, hễ gặp số tiền lớn thì động tâm. Các cái khác cũng vậy, tài, sắc, danh, thực, thùy (ngủ) … ngủ thì không phải, đó thuộc vấn đề sinh lý, nhưng người tu hành ngủ vừa vừa thôi, chứ không cho ngủ nhiều.

Nói tóm lại, bất cứ pháp môn nào, phải có sự tu, phải có công phu mới mong sửa lại dần, nếu không tu mà chỉ nghiên cứu, mặc dầu tất cả giới luật học thuộc lòng, rốt cuộc đối cảnh cũng bị phạm. Phải đối cảnh chẳng động tâm mới chắc là giữ được giới.

Hỏi : Trong Kinh dẫn dụ: Chúng sinh vô lượng vô biên mà ứng thân của Phật tùy theo căn cơ trình độ của mỗi loài cũng ứng hóa vô lượng vô biên. Thế nhưng trong thực tế, Phật nói tám mươi bốn ngàn pháp môn chỉ ứng dụng cho loài người, còn đối với súc sinh lớn như con voi, nhỏ như côn trùng thì Đức Phật hóa độ bằng cách nào ?

Đáp : Trong lục đạo luân hồi gồm Trời, Người, A tu la, Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục; cõi Trời phước báu lớn hơn, chỉ thọ vui mà chẳng có khổ, vì không có khổ để kích thích sự ham tu, nên chỉ hưởng vui, không biết tu. Chỉ có cõi Người có khổ có vui mới biết tu. Cõi A tu la phước báu bằng cõi Trời, nhưng vì có tánh sân, hay nổi giận, lại cố ý nghịch với Phật pháp nên cũng không có tu. Súc sinh phải phải trả ác nghiệp, không thể tu; Ngạ quỷ và Địa ngục cũng vậy, do phải chịu khổ báo, khó tu, cho nên chỉ có con người mới  tu được.

Do đó, trong Phật pháp có câu “Thân người khó được”, chỉ có thân người mới nghe được Phật pháp tu giải thoát, cũng chỉ có cõi người mới được thành Phật, ngoài ra năm cõi kia thì chẳng có, còn Súc sinh phải chịu khổ báo mãn rồi rồi mới có thể đầu thai thành con người và gặp được Phật pháp mới tu hành thành Phật.

Hỏi : Người tiểu căn nghe pháp môn Tổ Sư Thiền vì như cây cỏ, cội gốc thì nhỏ, nếu mưa lớn sẽ bị ngã ngay, chẳng thể nào tăng trưỏng, như chúng con thì thế nào ?

Đáp : Nếu người tiểu căn nghe pháp môn Tổ Sư Thiền không được thì tu Tiểu thừa, bất quá chậm thôi. Tôi đã nói hạ căn có thể chuyển thành thượng căn, mạt pháp có thể chuyển thành chánh pháp, hễ người nào tự cho mình là tiểu căn mà muốn tu pháp Tổ Sư Thiền, dần dần đủ lòng tin rồi cũng tu được, tức huyển hạ căn thành thượng căn.

Hỏi : Như Sư phụ mấy ngày nay giảng, tất cả đều là diệu dụng của vô sở hữu. Tu pháp tham thoại đầu đến đầu sào trăm thước có biết tất cả những sự việc hay không ?

Đáp : Tôi đã nói cái vô sở hữu đó là bổn lai vốn như vậy, chứ chẳng phải do tu mới thành. Ngài Long Thọ nói: “Hư không vô sở hữu mới dung nạp tất cả”, hiện tiền trước mắt đây, cũng như thầy đang hỏi tôi, tôi giải đáp được cũng nhờ cái hư không vô sở hữu này; thầy thấy được tôi, tôi thấy được thầy cũng là nhờ cái hư không vô sở hữu này; tất cả vạn vật đều là ở trong cái vô sở hữu này.

Nên bài Đại Trí Độ Luận mà tôi trích dịch ra, có người hỏi:

- Tại sao nói hư không vô sở hữu dung nạp tất cả vật, mà chẳng nói hư không quảng đại dung nạp tất cả vật ?

Ngài Long Thọ đáp: vì hiện tiền thấy hư không là vô sở hữu, nhưng tất cả vũ trụ vạn vật đều ở trong đó, đều phải nhờ cái vô sở hữu mới được hiển bày.

Hỏi : Trong Kinh Kim Cang nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, Kinh Pháp Hoa lại nói: “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ”, vậy có khác nhau không ?

Đáp : Kinh Kim CangKinh Pháp Hoa đều là Đại thừa liễu nghĩa, ý vốn chẳng khác. Kinh Kim Cang nói “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, vì có sở hữu tức là hư vọng, hễ có sở hữu một tí cũng là chướng ngại, sở hữu nhiều chừng nào thì chướng ngại nhiều chừng nấy, nên nói là hư vọng. Chỉ có vô sở hữu mới không bị hạn chế. Đến chừng hoàn toàn vô sở hữu rồi thì có tên gọi là thật tướng, thật tướng vô tướng, đó chẳng phải hư vọng, Đại thừa ấn chứng người đã ngộ gọi là “Ấn thật tướng”.

Hai câu “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ” của Kinh Pháp Hoa là nghĩa vô sở trụ, cũng là vô sở hữu. Pháp nào trụ theo ngôi pháp đó, ví như cái dĩa này là trụ theo ngôi pháp dĩa, dĩa này làm bằng mủ, đem đốt thành tro thì trở thành pháp vị tro, tro đó bị gió thổi tan thành không thì trụ ngôi pháp vị không. Pháp vị sanh trụ nơi sanh, pháp diệt trụ nơi diệt, chữ TRỤ ở đây không thể dịch là “còn”, thường trụ không thể dịch là thường còn, chẳng trụ cũng không có nghĩa là chẳng còn, nếu dịch thành “còn” là không đúng nghĩa, vì ngôi pháp biến đổi hoài. Vô sở trụ chẳng phải không còn, chỉ là không trụ thôi, tất cả cũng y như cũ.

Kinh Lăng Nghiêm nói “vốn là Như Lai tạng”, là tùy theo pháp vị, chẳng thêm vào ý mình cho là đúng hay sai, cho là hợp lý hay chẳng hợp lý … thì không trụ theo pháp vị.

Nay Phật dạy chúng ta trụ theo pháp vị tức vô sở trụ, vô sở trụ tức vô sở hữu, thế gian tướng phải trụ như vậy. Nghĩa thế gian tướng là sanh diệt, nhưng nếu trụ như vậy thì pháp sanh trụ nơi sanh, pháp diệt trụ nơi diệt, nên thế gian thường trụ; thường trụ như thế là chẳng trụ chỗ nào cả.

Hỏi : Con tham câu “Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là cái gì ?” nhưng tự nhiên lúc đang tham, trong tư tưởng của con phát ra những câu nói: Phật tánh vốn không sanh diệt, chơn tâm vô sanh bất hoại, vạn vật bất khả trường tồn, thân ý bất luật như nan, đắc quả chơn vị Bồ đề, không không có có Như Lai thị. Vậy những câu nói trên do thức nào của con phát sinh ra ?

Đáp : Do vọng tưởng của cô. Tại cô cứ suy nghĩ hoài, tham thiền là muốn chấm dứt sự suy nghĩ. Nay tôi nói cho biết: Tất cả vật chất đều tồn tại vĩnh viễn, chưa bao giờ mất, ví như ly nước tôi đang uống đây, có thể cả tỷ người đã uống qua, nó không có mất, mà tất cả năng lượng đều tồn tại vĩnh viễn không có mất, Kinh Lăng Nghiêm nói: Tất cả tánh thấy, tánh nghe của mình chẳng chết cũng chẳng mất, tánh ngửi, tánh nếm cũng vậy. Dù thân này hư hoại, nhưng những tánh thấy, tánh nghe vẫn tồn tại, ấy là năng lượng của Tâm.

                                                

Hỏi : Kính bạch Hòa thượng, chúng con cũng rõ chơn tâm của chúng con vốn là thường trú, thể tánh cũng sẵn là tịch minh, hơn nữa nó là bất sanh bất diệt …

Đáp : Ấy là lời nói, là hiểu biết theo lời nói. Ví như người mù hỏi người mắt sáng “Mặt trời như thế nào ?” Người mắt sáng nói “Mặt trời là tròn với nóng”; ấy là lời nói, nhưng nếu cho tròn với nóng là mặt trời thì sai. Nay dùng lời nói để truy cứu thực tế thì càng truy cứu càng xa.

Cho nên, Đức Phật khuyên chúng ta tu, khi được tự chứng phần rồi tự rõ, nếu không tu mà chỉ dùng bộ não để truy cứu, cũng như các nhà khoa học, nhà triết học muốn nghiên cứu sự bắt đầu của vũ trụ, sự bắt đầu của sinh mạng, dù nghiên cứu thêm một tỷ năm cũng không được, vì vốn chẳng có sự bắt đầu.

Đức Phật nói  “Vô thỉ vô sanh”, nên người chứng quả gọi là ngộ pháp vô sanh, chứng vô sanh pháp nhẫn. Pháp đã vô sanh thì làm gì có nghĩa lý để tranh cãi, để hỏi ? Cái hỏi đó đã có sanh khởi, đã có sự bắt đầu rồi !

Hỏi : Nếu nói vốn là vô sở hữu thì chúng con phải dụng công như thế nào ?

Đáp : “Vô sở hữu” cũng là lời nói, phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật.

Hỏi : Con có những điều nghi vấn, kính xin Sư phụ giảng rõ. Trước đây Sư phụ có nói mượn hữu hình giảng về vô hình, mượn tất cả nhân duyên “có”  mà nói “không”, mượn nhân duyên “không” mà nói “có”.

Trong tứ thời đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng nhập vào Thiền định thì mắt nhìn vào chỗ hư không, lỗ tai nghe vào chỗ hư không, mũi cũng ngửi chỗ hư không, thiệt nếm chỗ hư không, thân và tâm ý cũng ở trong hư không, thế thì con đã nhập được pháp giới tánh của chư Phật chưa ?

Đáp : Chưa.

Hỏi : Vậy làm sao để nhập được pháp giới tánh của chư Phật ?

Đáp : Phải hỏi câu thoại và nhìn vào chỗ không biết. Tại ông biết nhiều quá, mục đích tham thiền là chấm dứt sự hiểu biết, nay ông chẳng chịu chấm dứt lại phân biệt đủ thứ, cho là tri kiến cao siêu. Tất cả tri kiến đều phải quét sạch mới là đúng với Tổ Sư Thiền.

Hỏi : Phẩm “Tùng địa dũng xuất” thứ mười lăm trong Kinh Pháp Hoa nói: Để hộ trì Phật pháp nơi cõi Ta bà này, vì thế các vị Bồ Tát từ dưới đất vọt lên và xin để các ngài hộ trì, các ngài đó chính là đệ tử của Phật nơi quá khứ. Chính Đức Phật đã xác nhận rằng các ngài là đệ tử quá khứ, vì ngài đã thành Phật từ nhiều kiếp trước.

Nhưng theo giáo lý Đại thừa, có nhiều chỗ nói Đức Phật là Bồ Tát Hộ Minh từ trên cung Trời Đâu Suất giáng trần, mới thành Phật kiếp này ?

Đáp : Phẩm Như Lai Thọ Lượng trong Kinh Pháp Hoa dùng danh từ “trần điểm kiếp” để thí dụ, vì thời đó chưa có Đại số: Vi trần là đơn vị rất nhỏ, Phật đem thí dụ số kiếp rằng: Đem một đại thiên thế giới mà mài thành mực, rồi cứ đi qua mười đại thiên thế giới thì chấm một chấm mực, chấm hết tất cả mực. Thử hỏi số mực của một đại thiên thế giới là bao nhiêu ? Rồi lại cách mười đại thiên thế giới mới chấm một chấm mực. Sau khi chấm hết tất cả mực, lại đem những đại thiên thế giới có chấm mực và không chấm mực đều mài thành hạt bụi, vậy số đó đếm làm sao nổi ? Mà Đức Phật nói “Thọ của ta là hơn số đó !”

Kỳ thật, Phật đã nói trắng ra cho chúng ta biết là vô thỉ, tức chẳng có sự bắt đầu. Hễ có sự bắt đầu là có con số, dù gọi là trần sa số kiếp, nhưng đếm lâu ngày, lâu năm, lâu kiếp cũng sẽ đếm hết’ nói “không có bắt đầu” là vô số, vô số thì chẳng thể đếm, nên vô sanh.

Nay chúng ta nói Phật giáng sinh, nhưng giáo lý của Phật là vô sanh, nên người chứng quả là ngộ pháp vô sanh, tức được tự chứng phần rồi chứng tỏ chẳng có sự sanh khởi. Do đó, nói về số kiếp bắt đầu ấy chỉ là phương tiện mà thôi.

Trong lịch sử Thiền Tông, có một vị Tăng hỏi Mã Tổ:

- Sao ông nói tức tâm tức Phật?

- Tại muốn gạt con nít khóc.

- Sau khi nín thế nào?

- Chẳng phải tâm chẳng phải Phật.

Cho nên, tất cả lời Phật lời Tổ cũng chỉ là phương tiện thôi.

Hỏi : Phương pháp chiếu soi và hằng sống với bản giác của mình, đó có phải là bước đường từ phàm phu đến các đẳng vị Bồ Tát ?

Đáp : Bây giờ nói sống với bản giác của mình; bản giác của mình đâu có mất ? Ai ai cũng sống với bản giác, nếu không có bản giác thì chẳng thể sống. Dù không có tu cũng sống với bản giác, cái bản giác đó vẫn y nguyên. Bản giác tức Phật tánh, do tu mới dứt các tập khí phiền não, dứt tri kiến rồi bản giác mới hiện ra, nay dù chưa hiện nhưng không mất. Do đó, nói “sống với bản giác” ấy là thừa.

Hỏi : Con đọc trong Kinh Dược Sư, nói Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai chỉ đọc một câu thần chú là chúng sinh hết bệnh khổ, nghĩa đó như thế nào ? Xin Sư phụ giảng thuyết cho con được rõ.

Đáp : Kinh Dược Sư thuộc kinh bất liễu nghĩa, theo cách tu nhơn thiên thừa, tức tạm thời chẳng thể tu đến giải thoát, chỉ xây dựng nền tảng để sau này tiến lên con đường giải thoát.

Hiện nay, pháp Tịnh độ được hoằng dương nơi thế gian có ba thứ, phổ biến nhất là Di Đà Tịnh độ, cũng gọi là Tây phương Tịnh độ; Tịnh độ của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai gọi là Dược sư Tịnh độ, cũng gọi là Đông phương Tịnh độ. Ngoài ra còn có Đâu Suất Tịnh độ của Bồ Tát Di Lặc.

Phương pháp tu theo Tây phương Tịnh độ đối với phước báo của thế gian đều buông bỏ, tu theo Dược sư Tịnh Độ còn cầu phước báu thế gian, vẫn còn ở trong luân hồi, nhưng thích hợp với tư tưởng của người đời. Như hiện nay đa số Phật tử đến chùa là cầu phước báu, ít có cầu tu giải thoát.

Về Đâu Suất Tịnh độ của Bồ Tát Di Lặc: Bồ Tát Di Lặc hiện đang ở Nội viện cõi Trời Đâu Suất, trong Nội viện là những người tu giải thoát, còn Ngoại viện là của cõi Trời. Người được sanh vào Nội viện, đợi khi Bồ Tát Di Lặc giáng sinh nơi cõi Ta bà này nối tiếp Phật pháp của Phật Thích Ca, những vị này sẽ xuống để trợ giúp Phật Di Lặc hoằng dương Phật pháp.

Người cầu sanh nơi Đâu Suất Tịnh Độ thường là những vị pháp sư giảng kinh thuyết pháp có trí huệ cao, người tu Dược sư Tịnh Độ phần nhiều là người chỉ ham đắm phước báu, không có trí huệ, nhưng Đức Phật cũng đặt ra phương tiện để họ cầu cho đúng, sau này nhờ phước báu đó gặp được thiện tri thức rồi hướng dẫn tu theo con đường giải thoát.

Hỏi : Trong kinh Dược Sư có bảo chưng bốn mươi chín ngọn đèn, vậy phải chưng như thế nào ?

Đáp : Ấy chỉ là hình thức lễ nghi để cho người ta cầu phước báu; phải làm việc thiện để giúp đỡ cho người khác, sau này người khác trả ơn nên được phước báu. Nói ngọn đèn chỉ tượng trưng cho niềm tin, nếu bày đèn để cúng sao thì việc đó là mê tín, chẳng thuộc pháp môn Dược Sư Tịnh Độ.

Hỏi : Có một vị Sa di ra đời nhưng sợ thiếu nợ thí chủ, rồi đem tiền đến chùa đã ở trước kia để cúng dường, như vậy có hết thiếu nợ không ?

Đáp : Cúng dường thì được phước báu, còn nợ là phải trả riêng, chứ nhân quả chẳng thể bù trừ được. Tạo nghiệp thiện được thiện quả, gây ác nghiệp phải chịu ác quả, hai cái chẳng thể bù trừ, nhưng mình tu thì có thể sửa lại được.

Tu đến tâm lực mạnh hơn lúc tạo nghiệp ác đó thì sửa đổi được. Kỳ thực tâm lực của mọi chúng sinh đều bằng nhau, do bị che khuất nên nhờ sự tu mới hiện ra. Ví như tâm lực lúc tạo nghiệp ác chỉ có một độ, nay nhờ sự tu khiến tâm lực đến mười độ, thì quả báo của tâm lực lúc mười độ sẽ đến trước, điều đó cũng như sự thiếu nợ nơi thế gian, hễ ai có thế lực mạnh sẽ được trả trước, thế lực kém thì trả sau, nên nhân yếu nơi một độ được kéo về sau.

Nếu như tu đến tâm lực mười độ rồi ngưng không tu tiếp thì quả báo của mưòi độ trả hết đến chín độ, rồi tám độ … dần dần quả báo của một độ cũng sẽ đến. Nếu chúng ta không ngừng tu hành và tiến mãi đến hai mươi độ, ba mươi độ … đến khi kiến tánh thành Phật, thành Phật rồi ác nhân vẫn còn, nhưng đã thành Phật là Tự giác Giác tha, độ tất cả chúng sinh, kể cả chủ nợ; bất cứ chủ nợ mạng, chủ nợ thịt đều được ưu tiên độ trước, thì lúc đó nghiệp nhân mới hết. Điều đó phải tự mình sửa, chứ dùng tiền tài là không thể thay thế.

Thích Vân Phong biên tập

Các tin đã đăng: