Thọ trì Thiền Định để tu tập chánh định và thực hành Thiền Tuệ để tu
tập trí tuệ đến mức độ cao nhất nghĩa là đi trên con đường cao thượng
nhất dẫn đến an lạc vĩnh cửu và hạnh phúc bất diệt gọi là Nibbāna. Mọi
người được chào đón tham gia vào nhiệm vụ cao thượng đầy hoan hỷ này,
điều mà chắc chắn sẽ đem lại lợi ích to lớn ngay trong kiếp sống này.
"Tư tưởng Hoa Nghiêm trình bày vạn pháp
do tâm sanh. Tâm là thực thể của vạn pháp. Tâm vọng thì vạn pháp hoạt
hiện sai biệt hình hình sắc sắc, trùng trùng duyên khởi, cái này có cái
kia có và ngược lại, như lưới đế châu.
Luân hồi hình như luôn đi với sanh tử. Luân hồi sanh tử. Nghe cứ rờn
rợn. Có cách nào “giải thoát” không? Có đó. Đi tu! Đi tu để giải thoát
luân hồi sanh tử. Nghe nói vậy. Làm như tu thì không còn sanh tử nữa,
không còn luân hồi nữa, tu thì sống đời đời kiếp kiếp vậy!
Kinh Hoa Nghiêm, gọi đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, là
bộ kinh điển trọng yếu hiển bày ý nghĩa tuyệt vời về nhân hạnh quả đức
của Phật-đà như tạp hoa trang nghiêm rộng lớn viên mãn, vô tận vô ngại,
qua các vị Bồ-tát lớn Phổ Hiền, Văn-thù, sau khi Phật thành đạo tại các
nơi như Bồ Đề Tràng v.v…
Sự khai sinh ngôn ngữ cũng chính là sự khai sinh nhân loại. Mỗi từ là
phần đồng thanh tương ứng của một kinh nghiệm, nối liền với một tác nhân
nội hay ngoại tại. Quá trình này đòi hỏi một nỗ lực sáng tạo vĩ đại
trải qua khoảng thời gian vô cùng; và chính nhờ nỗ lực này mà con người
đã có thể vượt lên trên loài vật.
Trên lĩnh vực tín ngưỡng và văn hoá, bánh xe cũng là một biểu
tượng rất phổ biến trong các truyền thống tôn giáo tại nhiều châu lục
khác nhau. Đối với Đạo Phật, biểu tượng này đã trở thành một trong những
hình ảnh tiêu biểu, thiêng liêng, và có ý nghĩa nhất cho sự hiện hữu
cũng như sứ mạng của truyền thống tâm linh này đối với nhân loại trong
hơn hai ngàn năm qua.
Tuyển tập này rút từ những lời dạy của HT. Sayādaw U Janaka vào năm
1983 khi Ngài tổ chức khoá tu tại Trung Tâm Thiền Học Phật Giáo Malaysia
(Malaysian Buddhist Meditation Centre) ở Penang. Tuyển tập này lúc đầu
được Thượng toạ Sujīva, một phần rút từ các pháp thoại buổi tối do HT
thuyết giảng, còn lại chủ yếu từ các bữa trình pháp của Thiền sinh tại
khoá tu.
Ba tạng là: Tu đa la tạng (Sutra Pitaka), Tỳ nại da tạng (Vinaya Pitaka), A tỳ đạt ma tạng (Abhidharma Pitaka). Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Ðại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Ðối pháp.
Truyền thống Phật giáo Đại thừa luôn đề cao lý tưởng Bồ-tát
với việc thực hành sáu pháp ba-la-mật. Kinh điển Bát-nhã thường xem
Bát-nhã ba-la-mật là nhân tố tối quan trọng có ảnh hưởng đến năm pháp
ba-la-mật còn lại.
Pháp Sư Thái Hư cũng như Hòa Thượng Thích Minh Châu đều dùng các từ Như Lai Thiền để chỉ Thiền Nguyên Thủy và Tổ Sư Thiền để chỉ các hình thức Thiền Phát Triển sau này do các Tổ Sư các Thiền phái nổi danh đề xướng và truyền lại cho các đệ tử của mình. Cũng có người dùng các từ Thiền Tiểu Giáo (tức Thiền Tiểu Thừa) và Thiền Ðại Giáo (tức Thiền Ðại Thừa) như Trần Thái Tôn trong bài "Tọa Thiền Luận" của Khóa Hư Lục.
Các tin đã đăng: