Những người học thiền thường nghe câu: “ Đản nguyện không chư sở hữu, thiết vật thật
chư sở vô ”: chỉ cốt thấy mọi hiện tượng đều là không, nhưng nhất thiết đừng
làm cho cái không ấy trở thành thực có. Có nghĩa là đừng “chấp không”. Bởi vì
có rất nhiều thứ “không” tùy nơi chốn, tùy trình độ tu chứng.
T rong hơn 40 năm thuyết pháp độ
sinh, Đức Phật chỉ dùng lời nói dạy mọi người nghe chớ không dùng chữ viết để
truyền lại, cho nên sau khi Phật nhập Niết-Bàn, trong giáo-hội có nhiều ý tưởng
sai khác, bất đồng về giáo-nghĩa và giới luật, khiến phát sinh ra nhiều bộ phái
chống đối nhau; bộ phái nào cũng cho tư tưởng và lập luận của mình là đúng đắn
và chân chánh, y như lời Phật dạy. Cuộc tranh chấp này làm nẩy sinh ra nhiều
mưu mô để hạ uy tín đối phương và đề cao giáo-lý bộ phái của mình.
Kinh Ðại Bổn Di Ðà nói: Một hôm Ðức Phật Thích Ca dung
nhan khác lạ, ngài A Nan mới hỏi có nhân duyên gì mà Ðức Thế Tôn hoan hỷ như
vậy? Ðức Phật nói có pháp môn niệm Phật Di Ðà rất thích hợp với chúng sanh, đặc
biệt vào thời mạt pháp khi căn cơ chúng sanh bị giới hạn đi nhiều và bất cứ ai cũng
có thể trì niệm được. Ðây là nguyên do đầu tiên.
T heo ngôn ngữ thiền thì công
việc quáùn sát từng động niệm của tâm để tu tâm gọi là “chăn trâu”. Mã Tổ hỏi
Thạch Củng: “Chú làm gì đây?”. Đáp: “Chăn trâu”. Lại hỏi: “Chăn như thế nào?”.
Đáp: “Mỗi khi nó chạy a vào đồng cỏ, thì xỏ mũi kéo lui lại”.
N gười thẩm sát công án niệm
Phật, phải đơn độc đề cử một âm thanh “A Di Đà Phật” làm thoại đầu. Nơi đề
khởi, phải hạ nghi tình, thẩm vấn xem người niệm Phật là ai. Lại đề cử lại thẩm
xét, xem coi rốt ráo người niệm Phật là ai. Quyết bám tựa câu thoại đầu này như
thế, thì tất cả vọng tưởng tạp niệm đều bị đốn đoạn, như chặt dây nhợ. Lại
không dung dưỡng cho chúng khởi lên, (vì nơi khởi tức tâm liễu giác bị che
mất), mà chỉ còn một niệm; đơn độc sáng suốt rõ ràng, như mặt trời lơ lững trên
không trung, thì vọng niệm không sanh, hôn mê tự thối tán, tức tịch tịch tỉnh
tỉnh.
Khi nói đến Vô thường liền hiểu ngay đó là luật tuần hoàn của
vũ trụ. Nơi nào có sự vận hành, chuyển biến, đổi dời, nơi đó có Vô
thường. Vì vậy Vô thường là một định luật phổ biến, bao gồm cả vũ trụ và
nhân sinh.
Tính không thì khác với Phật
quả. Nó là thực tại tối hậu của mọi
thứ. Để tịnh hóa tâm thức, điều cần yếu
để biết tính bản nhiên của thực tại, mà đấy là tính không. Những cảm xúc phiền não sinh khởi từ một nhận
thức sai lầm về thực tại. Nhằm để loại
trừ khổ đau, chúng ta phải thiền quán trên tính không.
Chúng tôi muốn trình bày vài điều để giới
thiệu cách thực hành thiền. Như đa số mọi người, từ người phương Tây đến người
Á châu, đều rất hâm mộ thiền định, bởi vì bị lôi cuốn bởi sự thực hành và đạt
được nhiều lợi lạc từ đó. Tuy nhiên, dù rất nhiều người áp dụng thiền trong đời
sống, nhưng chỉ có một số ít là hiểu được sâu xa mục đích của thiền.
T hiền là phương pháp tu hành chủ
yếu của nhà Phật. Khi Đức Phật Thích Ca
còn tại thế, các đệ tử của Ngài đều lấy việc hành thiền làm cơ bản. Các phương pháp hành thiền này đều nương theo
các kinh, luật và luận đã thuyết; như thiền Qúan Niệm Hơi Thờ, thiền Tứ Niệm
Xứ, Thiền Na Ba La Mật..v..v..Tu các pháp thiền này được chứng nhập tuần tự
theo thứ bậc, tuỳ theo trình độ và thời gian hành trì của hành giả. Loại thiền này được gọi là Như Lai Thiền. Còn Tổ Sư Thiền thì ngược lại không có thứ
bậc, là pháp trực tiếp chỉ thẳng vào bản thể chân Tâm Phật tánh.
Nghiệp bao gồm cả ba kiếp là quá khứ, hiện tại, vị lai và
bao gồm cả không gian mười phương vô tận. Cái gọi là vũ trụ tức là gồm có thời
gian và không gian vô hạn. Trong cái thời-không đó hình thành mọi thế gian quốc
độ: khí thế gian, và hữu tình thế gian. Trái đất mà chúng ta đang sống là khí
thế gian, cũng là quốc độ thế gian.
Các tin đã đăng: