Con người ta bị trôi lăn trong luân hồi cũng vì tạo tác những
nghiệp ác, những nghiệp ấy do từ hành động (thân), lời nói (khẩu), và
tưởng nghĩ (ý) mà sanh ra; để diệt trừ những nghiệp ác, đức Phật có nói
Kinh Mười Điều Thiện (Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh), nó là muôn gốc lành,
sẽ được thân tướng tốt đẹp, ở cõi thanh tịnh trang nghiêm, thành tựu
viên mãn.
Khi phiền muộn, muốn hết buồn phải biết rõ nguyên nhân chủ
yếu của nó cũng chính là nguyên nhân đau khổ. Nếu quán xét vấn đề, tự
mình sẽ hiểu rõ ràng rằng bất cứ lúc nào trong tâm sanh khởi niệm bất
thiện hoặc không tốt thì chắc chắn sẽ có ưu phiền. Các tâm niệm xấu,
không thanh tịnh hoặc ô nhiễm (bất thiện) không bao giờ có mặt chung với
tâm an vui và hòa hợp.
Tâm Định Tuệ là ông chủ minh triết hoà bình, là trí tuệ vô
sư, là trí tuệ siêu việt của chính mình. Tâm Định Tuệ là cực lạc thiên
đường, là mái ấm tinh thần, là quê hương tâm linh vĩnh hằng.
Đức Phật khám phá lý nhân quả, vô thường, duyên sinh, cuối
cùng đạt đến chỗ siêu nhiên, tức phi thiện phi ác, là cảnh giới của
người giải thoát. Đến với Đạo Phật, học hiểu đạo lý để chuyển hóa bản
thân, bớt những đắm nhiễm, đam mê vật chất.
Tam tạng Nikaaya cũng như văn học sớ giải đã nỗ lực giải
thích ý nghĩa chuẩn xác thuật ngữ bồ-đề (bodhi). Vì thế, theo
Sa'myutta-Nikaaya, bồ-đề chính là đạt được trí tuệ về Bốn Ðiều Chân Thật
Vi Diệu (Tứ Thánh Ðế).
@
Wiki: Chữ Vạn (tiếng Phạn: स्वस्तिक svastika) là một biểu tượng chữ
thập với bốn đầu mút cong về góc trái và hướng sang bên trái, có hướng
xoay cùng chiều kim đồng hồ. Tên gọi svastika (gồm chữ sv và asti ghép
lại) hiểu theo tiếng Phạn có nghĩa là "phúc lộc, an khang, thành công
thịnh vượng". Biểu tượng chữ Vạn của Ấn Độ giáo, đôi khi còn được trang
trí thêm các chấm tròn ở các góc một phần tư.
Đức Phật là nơi nương tựa của mọi Phật tử chúng ta. Ngài là người tự mình chứng nghiệm Giáo Pháp cao thượng bao gồm Giới, Định, Huệ và giải thoát. Sau khi khám phá ra chân lý, chứng nghiệm Niết Bàn, Đức Phật đem những điều mình thực chứng ra giảng dạy trong suốt bốn mươi lăm năm cho những ai muốn tìm đường giải thoát như Ngài. Người nào tinh tấn thực hành giáo pháp của Ngài sẽ thoát khỏi khổ đau.
Trên
bước đường tu hành, chúng ta phải thấy nhứt quán về giáo pháp,
nghĩa là có một sự nối kết xuyên suốt từ giáo lý Nguyên thủy cho đến các
kinh điển Đại thừa. Không nên nhìn cục bộ và nghĩ rằng mình tu theo
Nguyên thủy, hay theo Đại thừa một cách tách biệt. Và nếu theo pháp tu
của Đại thừa lại còn chia ra pháp môn Tịnh độ, Thiền, hay Mật tông, cho
đến phân chia thành 20 tông phái khác nhau, mỗi tông phái lại có lập
trường tu khác nhau nữa. Nghĩ như vậy sẽ dẫn đến việc chống phá lẫn
nhau, là sai lầm nghiêm trọng làm cho Phật giáo bị băng hoại.
Giác ngộ là gì? Đây là câu hỏi và đề tài thật phức
tạp luôn gây tranh cãi. Bởi vậy, khi tìm trong sách hoặc search trên
mạng, quí vị sẽ không tìm thấy câu trả lời thật rõ ràng và thật thỏa
mãn cho mình. Ngược lại các câu trả lời luôn luôn có vẻ rất khác nhau,
rất mơ hồ và …rất bế tắc! Nói theo kiểu Thiền Tông Trung Quốc là “không
thể giải bày” (bất khả ngôn thuyết).
Khóa
tu Phật thất lần đầu tiên được tổ chức tại chùa Hoằng Pháp từ ngày 2/ 5
đến 9/ 5/ 1999 (17/ 3 đến 24/ 3 Kỷ Mão) với số lượng 68 Phật tử tham
dự. Đến nay là khóa thứ 6 được tổ chức từ ngày 17/ 9 đến 24/ 9/ 2000
(20/ 8 đến 27/ 8 Canh Thìn) với số lượng Phật tử tham dự là 313 vị. Đây
là một mô hình tổ chức khá mới lạ, nên dù đã mở được 6 khóa tu, và số
Phật tử đến tham dự ngày càng đông, nhưng vẫn có nhiều người chưa hiểu
rõ được về ý nghĩa của khóa tu.
Các tin đã đăng: