Sau khi Phật
niết bàn, những lời dạy của Ngài đã được các vị thánh đệ tử kết tập lại
thành ba tạng kinh điển, trong đó triển khai tám vạn bốn ngàn pháp môn
tu tập, khai mở cho chúng sanh con đường dứt trừ vọng tưởng, thê nhập
chân như. Một trong vô số pháp môn tu tập, với sự hành trì rất đơn giản
nhưng thành tựu nhiệm mầu, đó là pháp môn Tịnh độ.
Khi
niệm Phật, quán tưởng, hồi hướng…, là chúng ta "đang sanh" vào Tịnh độ,
đang đi vào Tịnh độ. Bằng những thực hành ấy, chúng ta đang đi sâu hơn
vào Tịnh độ, hay nói cách khác, chúng ta đang đi lên các bậc Cửu phẩm
ngay ở đây và lúc này.
Một trong những bước đầu tiên trong việc đối phó với thói
nghiện ngập là tìm ra nguyên nhân mang tính cảm xúc của nó, cho dù đó là
sự sợ hãi, trầm cảm, lo lắng, hay bi quan. Rất nhiều lần, những suy
nghĩ và niềm tin ô nhiễm này đến từ những điều mà tôi gọi là "tâm thiếu
thốn." Trong tâm thức thiếu thốn của mình, chúng ta cảm thấy rằng trạng
thái bất hạnh hiện tại của mình chỉ có thể được khắc phục nếu chúng ta
có tiền bạc, có công việc, có mối quan hệ, có sự công nhận, hay có quyền
lực
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống
Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật
Giáo, pháp tu của Đạo Thiền, một phương pháp thưởng thức, yêu mến thiên
nhiên, chỉ có bạn trà trong Thiền lâm mới có thể liễu được, một nét văn
hóa ẩm thực, thể hiện sự thanh cao, hòa nhã, thanh tịnh đủ tính nết
thiền, của những con người "Thế ngoại đào viên".
Căn cứ theo Kinh Huyền Đô Đại Hiến của Đạo Giáo có chép:
“Ngày 15 tháng 7 là tiết Trung Nguyên vậy.... đây là ngày mà Đại Quan
kiểm tra xét hỏi, phân biệt các tội thiện ác dưới địa phủ. Chư Thiên và
Thánh chúng đều ở trong cung, kiểm tra sổ ghi kiếp số của các loài quỷ,
các loài ngạ quỷ đang bị tù ngục đều được thả ra...”.
Lý
tưởng A-la-hán thường được xem là lý tưởng dẫn đạo cho Phật giáo Nguyên Thủy và
lý tưởng Bồ tát là lý tưởng dẫn đạo của Phật giáo Đại Thừa. Nhận định này
không hoàn toàn đúng, vì truyền thống Nguyên Thủy đã thể nhập lý tưởng Bồ tát
trong giáo lý cơ bản và như vậy đã công nhận giá trị của quả vị A-la-hán và quả
vị Phật đều là hạnh nguyện tu tập của người xuất gia.
Chính buổi đầu đó, Đức Phật đã ngầm nhắc cho hàng đệ
tử học Phật sau này phải học vượt qua ngôn ngữ nói năng, văn tự ghi
chép, mới cảm thông được chỗ Phật muốn chỉ, muốn nói. Có nói ra chỉ là
phương tiện bất đắc dĩ của Phật mà thôi. Chân lý sống thì không ở trong
phương tiện đó. Giống như chiếc xe đưa mình đi đến thành phố, chiếc xe
không phải là thành phố, không phải là mục đích đến.
Ngày nay, Thiền tông đang phát triển nhanh ở nước Mỹ; ở những quốc gia phương Tây khác, thiền cũng được nhiều người quan tâm hơn, đặc biệt là giới trẻ. Tuy nhiên, dù có nhiều người cảm thấy thích thú đối với thiền ngay từ lúc đầu, nhưng chỉ có một số ít người theo đuổi cho đến mục đích cuối cùng. Tại sao như vậy?
Trong suốt chiều dài lịch sử Phật giáo, khi phát triển những nguyên lý cơ bản của giáo lý trên tinh thần mới, Thiền luôn đóng vai trò lý luận. Đến Thiền tông, tư tưởng Thiền Phật giáo đã đạt tới tầm triết học với hệ nguyên lý, khái niệm và cấu trúc đặc trưng và độc lập.
Kết quả của bất cứ hành động nào tùy thuộc trên động cơ. Tùy thuộc trên hoặc là có một cảm xúc phiền não hay một cảm xúc tích cực phía sau nó, cùng một hành động đưa đến những kết quả khác nhau. Ngay cả khi cùng một cảm xúc chung chung, lòng từ bi thương yêu như vậy, thúc đẩy một hành động, những sự hổ trợ tinh thần và xúc cảm của hành động ấy cũng tác động lên kết quả.
Các tin đã đăng: