Từ khóa: Tính Không vận dụng vào việc tham gia giao thông, Tính Không Long Thọ, giao thông ngày nay
Mở đầu
Phật giáo có sức sống bền bỉ trong chiều
dài lịch sử của dân tộc Việt Nam. Tạo cho nhân dân ta một niềm tin mạnh mẽ vào
khả năng trong sáng thuần khiết của bản thân để sống đúng và sống đẹp theo tinh
thần Chánh kiến, Chánh tư duy và Chánh mạng. Phật giáo đã đồng hành cùng dân
tộc, sự đồng hành nhất quán xuyên suốt thời gian, không gian và trong mọi giai
cấp tầng lớp của xã hội. Tính không trong Trung Quán Luận của bồ tát
Long Thọ (Nagarjuna, khoảng thế kỷ II- III) ra đời tại đất nước Ấn Độ, truyền
tới Trung Quốc, lan tỏa tới Việt Nam. Thuyết tính không cho rằng mọi sự vật,
hiện tượng (pháp) đều do nhân duyên hoà hợp mà thành, nên thực tướng của nó là
vô tướng. Tư tưởng “Không” hay “Tính Không” cũng là tư tưởng căn bản của toàn
thể Phật-giáo.

Ảnh giao thông giờ cao điểm tại Hải Phòng
Trong thế giới vô thường với vô vàn nhân duyên, vận động thay đổi theo
quy luật không ngừng phát triển, thì con người là tổng hòa của sự giao
thoa ấy. Khi đặt con
người trong sự vận động của xã hội thì con người có thể vừa được coi là chủ thể
sáng tạo ra xã hội và cũng là đối tượng bị xã hội chi phối. Tham gia
giao thông là hoạt động thường xuyên, tất yếu của con người, cũng chính sự phát
triển của giao thông đã đem lại văn minh cho nhân loại. Ngày nay, giao thông
ngoài mặt tích cực của nó mang lại thì trên thế giới mỗi ngày có hơn 3.500 người tử vong, khoảng 100.000 người bị thương do
tai nạn giao thông đường bộ. Ở nước ta theo báo cáo của Ủy ban An toàn giao
thông quốc gia, 7 tháng đầu năm 2013 toàn quốc
xảy ra 17.181 vụ TNGT, làm chết 5.635 người, bị thương 17.153 người, riêng
tháng 7 tai nạn giao thông(tính
từ ngày 16/6 đến 15/7/2013, toàn quốc xảy ra 2.368 vụ, làm chết 736 người, làm
bị thương 2.297 người …[1]
Như kết quả trên cho thấy, tai nạn giao thông làm thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe, tài sản con người, gây bất ổn trong xã hội, thiệt hại kinh tế của đất
nước. Theo Long Thọ, khi các duyên hòa hợp thì có nhân trước quả sau[2].
Ở đây, những người tham gia giao thông cần, mắt nhìn, tai nghe, ý tư duy nhận
thức tham gia giao thông đúng luật,… tạo thành một hệ thống thì trong khi điều
khiển giao thông không thể xẩy ra tai nạn giao thông. Tai nạn giao thông ở đây
là quả, các điều kiện trước quả là nhân duyên. Theo thuyết Duyên khởi để giải
thích về giao thông thì chúng không tướng trạng, không tướng trạng tức là Tính
Không. Như ta biết tốc độ tham gia giao thông với vận tốc càng cao thì vòng
sinh, trụ, dị, diệt càng ngắn. Tính Không trong giao thông, trong tai nạn giao
thông không có tướng trạng cố định. Do vậy, theo nguyên lý Tính Không thì tai
nạn giao thông không phải là một tất yếu, nó chỉ thể hiện quan hệ nguyên nhân
và kết quả, nếu người tham gia giao thông có sự chú ý tĩnh tâm, tuân thủ pháp
luật thì sẽ không bị vi phạm giao thông, không thể vào tù ra tội.
Nguyên nhân dẫn đến tai nạn xuất phát từ nhiều lý do
khác nhau như hệ thống đường xá xuống cấp, việc cải tạo, xây dựng hệ thống hạ tầng
đường bộ còn chấp vá, nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên, phần chính vẫn do
người tham gia giao thông, trực tiếp và gián tiếp vẫn chưa có sự tĩnh tâm trong
khi tham gia giao thông. Cho dù giao thông với tốc độ cao hay tốc độ thấp nào
đi chăng nữa, con người cũng cần phải làm chủ được tĩnh tâm, không chủ quan,
thì việc làm chủ điều khiển giao thông không thể xẩy ra tai nạn. Bên cạnh đó có
người khi tham gia giao thông còn dùng các chất kích thích như: rượu, bia, thuốc lắc... việc sử dụng các chất
kích thích đó làm cho thần kinh bị ức chế không kiểm soát được hành vi dẫn đến
bấn loạn tâm thức, hành động bị lệch lạc. Điều đó khiến cho việc điều khiển
phương tiện tham gia giao thông “cuồng loạn” dẫn tới tai nạn giao thông làm thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe của nhiều người khác. Chính trong cuộc sống ngày nay
đã có quá nhiều minh chứng về điều đó. Quá nhiều sinh mạng bị chết oan uổng, tức
tưởi, quá nhiều con người bị thương nặng nề mất đi một phần thân thể thậm chí cả
đời phải nằm liệt giường trở thành gánh nặng của xã hội và cũng có quá nhiều
gia đình bị ly tan mất mát cũng chính từ hành vi tham gia giao thông thiếu đạo
đức, thiếu trách nhiệm của của một số người.
Theo nguyên lý Tính Không của Long Thọ, đạo đức và hành
vi của người tham gia giao thông thực tướng của nó là Không, do vậy, chúng ta
không nên chấp vào tướng đạo đức và tướng hành vi đó, mà phải nhấn mạnh trách
nhiệm ý thức tốt, cần tất cả mọi người tham gia giao thông, là con người, biết
ham sống sợ chết, đều phải có ý thức tốt hơn. Nhiều khi người điều khiển xe
khách, hay xe bus chạy nhanh không đi vào làn đường mà lao cả lên hè phố xô cả
vào nhà dễ gây ra án mạng.
Ngày nay, khoa học, công nghệ, kỹ thuật phát triển làm ra
phương tiện giao thông siêu tốc, song lại càng làm cho chạm mạnh hơn, sức hủy
diệt lớn hơn.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có lần vận dụng Tâm Phật giáo
vào khi tham gia giao thông: lái xe máy hay xe đạp tới đèn đỏ, thời gian đèn đỏ
là để nhận thức được rõ lúc này là thân tâm được nghỉ ngơi, an lạc nhất, thời
gian đó là hạnh phúc nhất... Nhưng trong xã hội ngày nay không phải ai cũng nhận
thức được, cảm nhận được điều đó. Phải chăng họ vì một mục đích phải tìm hành
phúc phía trước, họ không nhận thức được hạnh phúc trong hiện tại. Hạnh phúc được
hiểu theo nhiều hướng khác nhau, có người cho hạnh phúc là thỏa mãn sự mong muốn,
sự thoải mái tức thời …, Một khi không có hạnh phúc trong hiện tại nên tham
(tham lam, tham không hợp với lý lẽ của cuộc đời), sân( nóng giận cố chấp, tâm
không ổn định), si (vô minh, không hiểu biết…), vội vàng, hấp tấp dẫn tới phải
bỏ thân xác nơi xa lộ quạnh hưu. Để tìm lời giải đáp vấn đề trên ta lấy Tính không trong
Trung Quán Luận Trong bài viết này chỉ bàn tới vấn đề Tính Không trong Trung Quán Luận vận dụng vào quán chiếu
tình trạng giao thông đường bộ đang diễn biến phức tạp tìm ra hướng khắc phục
đem lại cuộc sống bình yên cho con người, phát huy được lợi ích mà giao thông
mang lại.
1. Tính Không trong Trung Quán Luận
Toàn bộ
Trung Quán Luận của Long Thọ là sự
nhất quán thuyết Tính Không, mọi hiện tượng đều được quán chiếu trong tương
quan, tương sinh bởi chúng không có tính bản chất độc lập, không có tính cố
định. Cái này phụ thuộc, chi phối cái kia và ngược lại.
Phật giáo Đại Thừa chính thức thành danh phải nhờ công
Long Thọ kế thừa Tính không trong Kinh
Bát Nhã kết hợp với ý tưởng “Đại
thừa” của Mã Minh, Vô Trước theo tinh thần “Trung quán”. Trung Quán Luận là tác phẩm nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa, do
chính Long Thọ Bồ Tát trước tác. Trong đó tập trung triển khai triết lý Vô ngã,
Vô thường, Vô pháp, Duyên khởi của Phật giáo bằng phép biện chứng “Bát Bất”.

Ảnh giao thông giờ cao điểm tại Hà Nội
Trung Quán Luận tiếp tục khẳng
định bản thể luận Vô Thường ( Anitya, 無常), Vô
ngã (Anattā, 無 我) đã có từ Phật giáo Nguyên thủy. Vô thường chỉ bản chất
thay đổi liên tục của vạn vật theo thời gian. Vì bản thể của chúng đều do các
nhân duyên hòa hợp mà thành.
Long Thọ đã phân
tích nội hàm khái niệm “Không” trên tinh thần bản thể luận và nhận thức luận
siêu vượt tư duy thông thường:
“Các pháp do duyên sinh
Nên ta nói là không
Cũng gọi là giả danh
Cũng là nghĩa trung đạo”.
|
(Chúng nhân duyên sinh pháp
Ngã thuyết tức thị không
Diệc vi thị giả danh
Diệc thị trung đạo nghĩa).[3]
|
Khái niệm Không
của Bát Nhã nhất quán hơn với nghĩa rằng,
“Tính Không” là các pháp duyên sinh, là “Không”, cũng gọi là “giả danh”, đó
chính là nghĩa “Trung đạo.” Long Thọ thấy rằng, bất kỳ hiện hữu nào cũng thường
được nhìn qua hai mặt là “Không” và “ có”. Song “ có” cũng chỉ là giả danh. Ví
dụ: người điều khiển phương tiện tham gia giao thông quan sát các sự vật hiện
tượng ta thấy có người tham gia giao thông, thấy phương tiện tham gia giao
thông đó gọi là có thấy. Nhưng sự có thấy đó nó không có tướng cố định nên gọi
là Không, cái được gọi là người tham gia giao thông, điều khiển tham gia giao
thông ấy cũng chỉ là gia danh không thật có tướng. Hiểu như thế, ta mới điều
khiển tham gia thong thả được.
Long Thọ đã khẳng định được rằng Vô pháp là nhờ duyên sinh, có duyên sinh là vô
tướng tức Tính không như một bản chất đích thực của thực tại bằng một lời bất hủ
sau: “với Tính không, tất cả đều có thể, không có Tính Không tất cả đều không
thể”[4] Câu nói
này thật thú vị, rằng, một khi nhìn nhận quán sát các việc tham gia giao thông
thấy thực thể nó là vô Tướng mà vô tướng ấy là diệu hữu, cái diệu hữu đó nó chi
phối trong vào các vấn đề của thế gian, tham gia giao thông không ngoại lệ diệu
hữu đó.
Tính Không là một
vấn đề khó, khi vận dụng tính Không vào giao thông thông để ứng dụng giải quyết
vấn đề lại càng khó hơn. Nhưng khó hơn không phải không thể giải quyết được, thế
nên Long Thọ dùng đoạn kệ mở đầu Trung
Quán Luận bằng pháp phủ định bát bất sau, mà nó triệt để để hiểu Tính Không
trong giao thông triệt để diệu hữu sâu sắc cùng tận:
“ Chẳng
sinh cũng chẳng diệt
Chẳng thường cũng chẳng đoạn
Chẳng một cũng chẳng khác
Chẳng lại
cũng chẳng ra”.
“Chẳng” là dịch nghĩa của chữ Bất (不) trong Hán Văn. Người học Phật theo tư tưởng Không trong Trung Quán ứng dụng vào việc giao thông
ta thấy mối liên hệ, quán chiếu giao thông ở thể phân tích tức Không, hay quán
tưởng giao thông thấy Tính Không, lại có thể quán tưởng đương thể thấy Tính
Không. Do vậy, Bát bất trong kệ kia
là minh chứng cho tính Không trong việc tham gia giao thông. Để hiểu rõ được
Tính Không vận dụng được vào giao thông cần phải tu tập cho tâm trí trong sạch,
quán chiếu các pháp do nhân duyên hòa hợp mà thành mà tán, chúng là Không, từ
đó ta có an vui, có thể làm chủ được bản thân trước, trong và sau khi tham gia
giao thông có lợi ích thiết thực.
2.
Nhìn giao thông theo thuyết Tính Không trong Trung Quán Luận
Triết học Mác - Lê Nin có đề cập tới vận động như là một
phạm trù, dùng để chỉ về vận động như một phương
thức tồn tại của vật chất, cùng với cặp phạm trù không gian và thời gian, đó là sự thay
đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình diễn ra trong không gian, vũ trụ từ đơn giản đến phức tạp. Quá
trình vận động bao hàm trong nó đứng
im. Đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động đó là sự vận động trong
trạng thái cân bằng, tức là những tính chất của vật chất chưa có sự biến đổi về
cơ bản. Đứng im chỉ là hiện tượng tương đối và tạm thời. Theo Engels thì "mọi
sự cân bằng chỉ là tương đối và tạm thời »[5]
Quá
trình giao thông là sự tham gia của một tập hợp người cùng di chuyển trên một
địa bàn trong khoảng thời gian và không gian nhất định. Khi nhu cầu đi lại
thông thương, sinh sống phát sinh ắt sẽ có «đường», khi có đường ắt có quy tắc
của nó, khi có quy tắt buộc phải tuân theo.
Thế nên,
con người tham gia giao thông bị tác động bởi hai trạng thái trên đó. Và ở đây
ta có thể hiểu thêm rằng tĩnh là trạng thái im lặng và động là trạng thái vận động.
Giao thông gồm trạng thái « Tĩnh » ở tư duy với hệ thống đường
xá, hệ thống giao thông, hệ thống pháp luật; và “Động” ở tư duy với hoạt động
tham gia giao thông của con người cùng hoạt động của các lực lượng tham gia điều
hành và xử lý giao thông. Ở hai trạng này có mối liên hệ mật thiết tác động qua
lại với nhau qua nhân duyên Tính không???.
Qui luật vô thường thường chi phối các pháp (sự vật và
hiện tượng), nên đức Phật mượn tướng trạng vô thường trống không của những bọt
nước trôi dạt trên sông Hằng để nói lên bản chất của các pháp cũng như thế, tất
cả đều bị vô thường rồi cũng sẽ trống không như bọt nước. Bản chất của các pháp
là như vậy, nếu con người không thấy rõ không chấp nhận chúng, ngược lại sinh
ra thái độ cố chấp, ắt hẳn phát sinh đau khổ. Quá trình điều khiển giao thông
cũng vậy, nếu ta không quán chiếu rõ vô thường thì vô minh sẽ lấn át; nếu ta
không cẩn thận, thì hành vi điều khiển phương tiện giao thông bị bấn loạn,
tâm trí và thân xác rời xa nhau, giữa con người và vạn vật (đường xá, cây cối,
hạ tầng giao thông…) và giữa con người với nhau không tìm thấy sự chi phối, tác
động lẫn nhau lúc đó tai nạn giao thông là điều không thể tránh khỏi. Lúc này
tâm trí của con người đã mất đi trạng thái tĩnh rơi vào trạng thái động tức là
trạng thái nhận thức không bình thường ở đây là trạng thái nhận thức sai lầm,
điên cuồng dẫn đến hành xử tham gia giao thông bị lệch lạc, làm giao thông bị
hỗn loạn. Đây chính là một phần nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông, ví dụ
như: khi điều khiển xe mô tô đi trên đường do tâm trí bị bấn loạn nên họ không
thể quan sát, đi quá tốc độ dẫn đến va chạm gây tai nạn trên đường.
Vậy con người ta phải nhận thức thông đạt được trạng thái
tĩnh – động trên tinh thần Tính không trong Trung Quán Luận. Trung Quán Luận chỉ các pháp đều do tương duyên, tương sinh, nên
thực thể của nó không cố định, có nghĩa chỉ là vô pháp. Thậm chí Long Thọ phân
tích tới cùng khái niệm “vô pháp” và khẳng định rằng ngay cả “vô pháp” cũng chỉ
là “giả danh”, tức là chỉ có thể tạm mượn để diễn đạt sự chuyển động liên tục
(vô thường) của “có” và “không” trong quan hệ tương tác với nhau. Nhìn các “sắc
pháp” như đất, nước, gió, lửa, cỏ, cây, hoa, lá, con người… đều do duyên mà
sinh, đều tương duyên mà thành, mà diệt, nên ta tạm gọi là vô pháp. Con người
thể hiện thành quy luật: sinh, lão, bệnh, tử; với sự vật hữu tình thì thành quy
luật: sinh, trụ, dị, diệt; với sự vật vô tình thì thành quy luật: thành, trụ,
hoại, không. Hành vi tham gia giao thông của con người cũng nằm trong sự biến
chuyển “vô pháp” đó. Mạng lưới giao thông đan xen, hỗn độn và phức tạp ở đó có
nhiều yếu tố chi phối như: tình trạng đường xá, hệ thống chỉ dẫn giao thông, ý
thức của người tham gia giao thông…Nếu như mỗi ai thường quán được Tính Không,
hay ở vị trí nào, hoàn cảnh nào ta sẽ thấy bình an trong khi tham gia giao
thông, cũng có thể xử lý, làm chủ được chúng một cách hợp lý thỏa đáng, chứ
không phải trằn trọc vi phạm giao thông nuôi uất ức khổ đau giận hờn từ ngày
này sang tháng nọ.
Con người khi bắt
đầu tham gia giao thông phải quán “vô pháp” tức là nhìn diễn trình giao thông ở
điểm khởi và điểm kết. Giữ tâm ở thế tĩnh trong động, nhìn sự chuyển động của
các phương tiện khác trong thế tâm tĩnh từ đó điều chỉnh hành vi tham gia giao
thông của mình được chủ động. Vì tướng của các pháp là không cố định, mà biến
đổi không ngừng. Con người tham gia giao thông, phương tiện giao thông, đường
xá giao thông, tín hiệu giao thông…cũng đều do nhân duyên hòa hợp mà thành.
Chính nhờ hiểu được các pháp là Không sẽ yên tâm, bình tĩnh có thể loại được sự
hỗn độn trong tư duy góp phần hóa giải cái hỗn độn của giao thông, hướng nó
theo một trật tự của sự vận động. Như vậy, khi đã tham gia giao thông ta phải
để tâm trí ta đạt được trạng thái vô thường quán chiếu được sự vật đang biến
động và tác động đến ta để từ đó hành vi tuân theo các quy tắc giao thông mà
bản thân đang tham gia vào quá trình ấy.
Trong xã hội hiện đại, khi cá nhân tham gia vào nhiều
mối quan hệ xã hội khác nhau, thì họ sẽ có nhiều vai trò và buộc họ phải chấp
nhận các đòi hỏi riêng của chúng. Những đòi hỏi này ở một số vai trò có thể
được phối hợp với nhau, nhưng trong một số trường hợp khác thì hoàn toàn trái
ngược nhau, mâu thuẫn với nhau. Trong từng thời điểm cụ thể, cá nhân buộc phải
lựa chọn vai trò để thực hiện. Việc lựa chọn này hoàn toàn không dễ dàng đây là
một trong những nguyên nhâ có thể gây căng thẳng thần kinh (stress). Khi tham
gia giao thông cũng vậy, cá nhân với tư cách là một người tham gia giao thông
thì phải thực hiện tốt vai trò của mình nhưng cũng tại thời điểm đó cá nhân bị
ràng buộc bởi các vai trò khác trong mạng lưới xã hội mà mình tham gia, điều đó
đã chi phối vai trò tham gia giao thông của cá nhân, từ đó dẫn đến việc vi phạm
luật giao thông đường bộ, tai nạn giao thông… Để thoát khỏi tình huống căng
thẳng và xung đột vai trò này, cá nhân thường phải xác định vai trò quan trọng
và cấp bách hơn thì được ưu tiên và thực hiện trước. Thấy được mối
liên hệ có tính chất đối nghịch nhau và tìm ra quy luật tất yếu trong nội tại của
bên trong diễn biến tâm lý con người, thấy được sự vật và hiện tượng
không có tướng trạng cố định mà nó thay đổi theo chu kỳ. Con người thì thay đổi
theo quy luật “sinh, lão, bệnh, tử”, còn sự vật hiện thượng thì thay đổi theo
quy luật “thành, trụ, hoại, không”. Vô thường ở đây chỉ sự thay đổi không tướng
trạng, vô thường vừa là cái này thay đổi vừa là cái khác theo thời gian, được
giải thích qua hình tượng bọt nước, hoa đóm trong hư không, như giấc chiêm bao,
như ánh chớp, như nháy mắt. Sự chi phối của các vai trò xã hội ở một cá nhân
trong một thời điểm đó là sự móc xích giữa các phạm vi chức năng với nhau, có
những chức năng đồng nhất thúc đẩy nhau nhưng cũng có những chức năng đối nghịch
triệt tiêu nhau như áp lực công việc, áp lực xã hội, cuộc sống… mà cá nhân chưa
tìm ra hướng giải quyết, làm tinh thần và trí lực suy giảm. Nhưng dù là ở vị
trí vai trò xã hội có tác động tích cực hay tiêu cực thì mục đích cuối cùng đều
hướng tới sự bình an trong việc tham gia giao thông. Tức là việc giải quyết vấn
đề đều hướng tới hóa giải khúc mắc, gỡ bỏ tình trạng bị kẹt, bị chế ngự của vai
trò xã hội mà con người đang phải đối mặt để đạt được trạng thái an lạc, hạnh
phúc. Với vai trò là người tham gia giao thông
cần phải tập trung thực hiện hành động giao thông, phải gạt bỏ được những kích
thích mạnh làm mất tập trung thần kinh điều khiển phương tiện giao thông; ví dụ
người tham gia giao thông cần dừng lại khi đèn đỏ, đèn xanh mới đi, nếu trong
khi lái xe có nghe thấy lời nói đúng sai người lái xe cũng cần bình tĩnh không
giận nóng, có thời gian tư duy xử lý hợp lý có bình an cho mình cho mọi người
liên quan. Sự vật và hiện tượng không có tướng trạng cố định mà nó
thay đổi theo chu kỳ, vậy khi tham gia giao thông ta phải xác định hành vi tham
gia giao thông lành mạnh, chuẩn mực trong cuộc sống để thực hiện vai trò là người
tham gia giao thông điều đó sẽ giúp ta có được hạnh phúc, an bình.
Kiểm soát bên trong còn gọi là quá trình chủ thể xã hội (cá nhân, nhóm) tự
theo dõi, kiểm tra, suy xét, đối chiếu và đánh giá hành vi của chính mình so
với những chuẩn mực và quy tắc của xã hội. Khi tham gia giao thông cá nhân sẽ
sử dụng kiểm soát bên trong để điều chỉnh hành vi của mình. Ở đây, Tính
Không trong Trung Quán Luận thể hiện
một cách sinh động, không tiêu cực. Nó không phải là hư vô trống rỗng như ta
thường hiểu, không là không có gì trong đó. Trung
Quán Luận của Long Thọ cho rằng chấp Không là lỗi đồng như chấp Hữu. Cho
nên tư tưởng Không của Long Thọ có
nghĩa là “cái Không cũng không còn nữa”. Khi cá nhân biết "nội tâm hóa" các quy tắc an
toàn giao thông, tức là phải nhận thức cho được các yêu cầu của chuẩn mực hành
vi phải tuân thủ khi tham gia giao thông, chủ thể phải có thái độ tự giác, tôn
trọng những chuẩn mực đó, biết hổ thẹn với chính mình mỗi khi có những hành vi
không thích hợp (vượt đèn đỏ, không đội mũ bảo hiểm, không có bằng lái xe…),
biết căm ghét những hành vi lệch lạc của chính mình và của người khác. Khi đó,
những tác động của thế giới khách quan đã được con người nhập nội, suy xét,
chiêm nghiệm tức là biến cái vật chất bên ngoài là cái “có” thành cái nội lực
hóa, thành cái “không” bên trong. Nhưng chính cái “không” đó lại là “lõi đồng”
là cốt để điều chỉnh hành vi tham gia giao thông của chính con người đó.

Ảnh giao thông tại Sài Gòn giờ cao điểm
Theo Long Thọ, Tính Không là bản chất vốn có của vạn vật. Tính Không là cơ
sở cho mọi sự hình thành và biến đổi. Tính Không không những không làm tiêu tan
đi những gì thế gian đang có, đang sở hữu mà ngược lại, nhờ Tính Không mà vạn
pháp hiện hữu mới sinh động, uyển chuyển, tích cực như sự sống. Nên Long Thọ viết :
« Như vậy người nhiễm và pháp nhiễm...không
phải hợp không phải không hợp »[6].
Tựa như vậy, người khi tham gia giao thông cũng có đầy đủ lứa tuổi, giới tính với
các thành phần xã hội khác nhau, từ đó dẫn đến ý thức tham gia giao thông của họ
cũng khác nhau, nếu có ý thức tĩnh tâm làm chủ được đúng mực sẽ điều khiển giao
thông một cách an toàn.
Khi tham gia giao thông con người phải chịu sự điều tiết xã hội bao gồm hệ
thống luật pháp về giao thông đường bộ, phong tục và các chuẩn mực về đạo đức,
văn hóa. Nhưng không phải ai cũng tôn trọng và làm theo các
quy tắc của xã hội đó. Hành vi lệch chuẩn khi tham gia giao thông là hành vi đi
chệch khỏi những quy tắc, chuẩn mực của xã hội về giao thông. Những tập hợp người
cùng tham gia giao thông phải có trách nhiệm với cộng đồng cần phải nhận thức
đúng, tuân thủ pháp luật khi tham giao giao thông, đồng thời cần tìm hiểu rõ về
Tính Không diệu hữu liên hệ trong việc vận dụng giao thông để khi tham gia giao
thông sẽ thực sự đem lại sự an toàn cho bản thân mỗi con người và toàn xã hội
giảm bớt đi sự mất mát do tai nạn giao thông mang lại.
Kết luận
Tư tưởng “Không” hay “Tính Không” cũng là tư tưởng căn bản của toàn thể
Phật-giáo. Tư tưởng này quả khó chứng nghiệm. Do, cảnh giới của thực tướng liễu
ngộ Tính Không nhờ vào sự hội đắc của chính mình chứ không thể nương vào ai
khác, lại cũng không thể nương vào văn tự ngữ nghĩa biểu hiện để lý giải. Tư
tưởng “chân không diệu hữu” của Kinh Bát
Nhã chính là cốt lõi cơ bản của tư tưởng Đại thừa Phật giáo, mà Trung Quán Luận của Long Thọ đã kế thừa
phát triển.
Việc áp dụng tư tưởng Tính không vào quá trình tham gia giao thông của
con người hiện đại ngày nay là một kỳ tích, đã giúp cho chúng ta có cách nhìn
giao thông trong sự vận động đa chiều (biện chứng) nhìn cái luôn luôn vận động
trong thế tĩnh, nhìn cái luôn luôn tĩnh trong thế động để từ đó tìm được lời lý
giải phù hợp cho hành vi tham gia giao thông của con người, tìm được căn nguyên
của hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, từ
đó định hướng cho con người có tư duy khoa học lành mạnh, thân hành đúng đắn
khi tham gia giao thông.
Do vậy, việc nghiên cứu hành vi
tham gia giao thông đường bộ dưới sự quán chiếu của Tính Không sẽ giúp ta có
nhiều khả năng tiếp cận gần nhất tới nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện hành vi
sai lệch trong quá trình tham gia giao thông và đưa ra được những cơ sở vững
chắc cho công tác đấu tranh ngăn chặn những hành vi vi phạm quy định về giao
thông đường bộ trên cơ sở khoa học, đem lại hạnh phúc cho con người. Theo phẩm
Quán Điên đảo thứ 23 của Trung Quán Luận,
Thích Quảng Liên dịch và giải thích, Nxb Tôn Giáo, 2007 trang 226 ghi rằng: “Do ý nghĩ suy tưởng phân biệt, Nên phát sinh
hiện tham, sân, si. Tịnh và bất tịnh các điên đảo. Tất cả đều các duyên sinh ra”,
Nếu như trong khi tham gia giao thông mà suy tư phân biệt điên đảo, có tham,
sân, si dễ dẫn tới gây tai nạn giao thông. Lưu ý rằng để có được hạnh phúc thì
ở đâu, nơi nào, hay lúc tham gia giao thông ta luôn nhận biết là ta đang tư duy
đúng đắn làm việc đó, cần nhận thức đúng đắn trên tinh thần vô ngã tức Tính
Không với việc tham gia giao thông cho lợi ích lợi kỷ cũng như lợi tha. Và ta
có thể mượn những câu thơ sau để tạm kết cho bài viết này:
“Đi trong cõi mộng ta đừng mộng
Đứng giữa đất trời chẳng hướng trông
Ngồi đây soi bóng mình qua lại
Nằm ngủ mơ màng nhớ Tính không”.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Thích Nữ Giới Hương (2007), Bồ Tát Và Tánh Không Trong Kinh Tạng Pali Và
Đại thừa, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
[2].
Chánh Tấn Tuệ (dịch và giải, 2001), Trung
Quán Luận, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội
[3]. Đại
Tạng Kinh Việt Nam (1991), Kinh Tương Ưng Bộ, Tập III, Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam ấn hành, HN
[4]. Thích
Thiện Siêu dịch (2001), Trung Luận,.
Nxb. TP. Hồ Chí Minh
[5].
Thích Thiện Hoa (2008), Phật Học Phổ
Thông, Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành.
[6]. Thích Hạnh Bình (2007), Triết Học Có Và Không, Nxb. Phương Đông.
Hà Nội
[7]. Thích Quảng Độ soạn dịch (2000), Phật Quang Đại Từ
Điển, Hội văn hoá giáo dục Linh Sơn, Đài Bắc Xuất Bản, Đài Loan.
[8]. Trần Văn Thành, “Duyên khởi trong Trung
Quán Luận ảnh hưởng tới Thiền Phật giáo Việt Nam thời Lý – Trần”, Tạp
Chí Khuông Việt, số 22 tháng 4 – 2013, tr.46.
[9]. Huỳnh
Công Bá, (2012), Xã hội học, Nxb Thuận
Hóa.
[10].
Thích Quảng Liên (dịch và giải thích, 2007)
Trung Quán Luận, Nxb Tôn Giáo, HN
[11]. http://antoangiaothong.gov.vn/tai-nan-giao-thong/tinh-hinh-thang-7-va-7-thang-dau
[12].http://vi.wikipedia.org/wiki/ Marx_-_Lenin)
[13].
Quảng Liên (dịch và giải thích, 1994) Trung
Quán Luận, Tu viện Quảng Đức xuất bản.
[2] Theo Thích Thanh Từ dịch giảng Trung Luận, Nxb Tôn giáo trang 578.
[3] Thích Thiện Siêu dịch (2001), Trung
Luận,. Nxb. TP. Hồ Chí Minh.
[4] Thích Nữ Giới Hương (2007), Bồ Tát Và Tánh Không Trong Kinh Tạng Pali Và
Đại thừa, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, tr.230.