Tổ Sư Thiền này là do đường lối chánh thức của Tổ Sư truyền xuống, gọi là Tham thiền. Tham thiền không phải là ngồi thiền, ngồi thiền cũng không phải là Tham thiền. Nhiều người lầm tưởng rằng ngồi thiền tức tham thiền kỳ thực Tham thiền không cần ngồi cũng được. Như Tổ dạy: Phải khi lao động mà tập Tham được mới tốt, nếu chỉ thích ngồi yên một chỗ vắng lặng mà tập Tham thì khó hy vọng kiến tánh.
Sau thời gian tập thở và lắng
nghe hơi thở (lâu mau tuỳ ý), thì chuyển qua lắng nghe những nói năng
trong tâm trí. Đây gọi là thiền định tự tri (tức là quán tâm). Lắng nghe
tâm trí mang năng lượng thiện ích cực lớn, cho mình và cho toàn vũ
trụ, cho toàn thể chúng sinh, vì đó là hạnh nguyện đại thừa. Sự thông
minh tối thượng sẽ tự biết cách lắng nghe tâm trí; đó là trí vô sư.
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (phiên latinh từ Phạn ngữ: Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra, Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經; âm Hán Việt: Bát nhã ba la mật đa tâm kinh) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. Kinh này được hầu hết các Phật tử tại Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, Tây Tạng, và Trung Quốc biết đến và rất thường dùng trong việc đọc tụng.
Trong các bộ luận nổi tiếng của Ngài thì Trung
Quán Luận là xuất sắc hơn cả. Bởi lẽ, nó chứa một nội dung tư tưởng triết
học với Tính Không, Trung Đạo, Giả danh, hay duyên khởi là căn bản. Duyên Khởi
ra đời giúp cho mọi mười hiểu được các sự vật, hiện tượng (pháp) trên thế gian
này đều do nhân duyên hoà hợp mà thành, thực tướng của nó là vô tướng, nên quán
như thế thì sẽ thoát ra khởi sự “chấp pháp: chấp đại thừa và chấp tiểu thừa. Và Duyên khởi trong Trung Quán Luận ảnh hưởng tới Thiền Phật giáo thời Lý - Trần.
Tánh
“không” là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo
và cũng là học thuyết bị người khác hiểu sai lầm nhiều nhất. Họ thường
không hiểu rõ hay ngộ nhận ý nghĩa của hai chữ sắc và không trong đạo
Phật. Họ lẫn lộn hoặc lợi dụng vào hiện tượng đồng âm dị tự trong tiếng
Việt và Hán Việt, đánh đồng hai khái niệm hoàn toàn khác nội dung làm
một, để bôi bác giáo lý của đạo Phật. Hai khái niệm đó là – phủ định từ
“không” – đối lập với có, và tính “không” (sunyata) tức tính “không thực
thể” của mọi sự vật hiện tượng.
Vì là một quốc gia Phật giáo nên đa số người Việt Nam từ nhỏ đã có thói
quen đi chùa tương tự như người phương Tây đi nhà thờ... Do vậy, thật
khó tưởng tượng rằng bạn có thể bắt gặp một thầy Tây dạy thiền cho người
Việt Nam.
C ó
lợi gì khi đi vào trạng thái an tịnh, cho phép tâm đứng yên trong tình
trạng tự nhiên của bất động? Đó là vì chừng nào mà bạn có thể phát triển
được sự tĩnh lặng của tâm, bạn mới có thể kiểm soát hay chế ngự những
vọng tưởng hư dối trong tâm trí. Chúng sẽ tiếp tục khởi lên và kiểm soát
tâm. Cách duy nhất để đối phó và chấm dứt chuyện đó là đạt tới tâm tịch
tĩnh . Khi đã hoàn tất điều đó thì cũng đạt được các thần thông như
thiên nhãn thông, tha tâm thông, túc mệnh thông.
Bất sinh diệc bất diệt Bất thường diệc bất đoạn Bất nhất diệc bất dị Bất lai diệc bất khứ.
Chúng tôi muốn trình bày vài điều để giới thiệu cách thực
hành thiền. Như đa số mọi người, từ người phương Tây đến người Á châu,
đều rất hâm mộ thiền định, bởi vì bị lôi cuốn bởi sự thực hành và đạt
được nhiều lợi lạc từ đó.
Ở
Việt Nam, trong lịch sử, Phật giáo đã từng là Quốc giáo. Bởi thế, danh
từ “Thiền” không xa lạ. Tuy danh từ thì không xa lạ, nhưng do người ta
cố gắng tiếp cận bằng tư duy (lý trí) nên Thiền bỗng dưng trở nên xa
lạ, khó hiểu, mù mờ như đám sương mù, nhiều trường hợp gây ngộ nhận đến
mức buồn cười…
Các tin đã đăng: