Từ những đóng góp của các trí thức Phật giáo trong quan hệ bang giao Việt - Trung trong buổi đầu kỷ nguyên độc lập đến những suy ngẫm về nền giáo dục Phật giáo ngày nay
Tác giả: Ths. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
14/06/2012 07:43 (GMT+7)



Sau chiến thắng Bạch Đằng cuối năm 938, Việt Nam đã chặt được cái "xích" trước kia vẫn "xiềng" mình thành một châu, một quận của đại đế quốc Trung Quốc. Từ đây các triều đại Ngô, Đinh, Lê (Tiền Lê)... luôn đặt mối quan hệ bang giao với Trung Quốc lên vị trí đặc biệt quan trọng để làm sao vẫn bảo vệ nền tự chủ của mình trước nguy cơ xâm lược thường trực của các triều đại phong kiến Trung Quốc, mặt khác vẫn giữ được mối quan hệ ngoại giao hòa hiếu với họ với tư cách là một nước độc lập. Trong bối cảnh chưa có cơ quan chuyên trách về ngoại giao như bây giờ thì các hoạt động bang giao của triều đình phong kiến nước ta đều dựa vào những vị quan tài giỏi, những nhà văn hóa tinh thông địa lý, lịch sử, văn học, có tài năng mẫn tiệp, ứng đối nhanh trí, thông minh. Trong buổi đầu độc lập, họ trước hết là các tri thức Phật giáo - những trí thức đầu tiên của dân tộc, đóng vai trò quan trọng đối với nền chính trị quốc gia. Tăng thống Ngô Chân Lưu hiệu Khuông Việt đại sư và thiền sư Đỗ Pháp Thuận là hai trong số những trí thức yêu nước tiêu biểu ấy. Các ông không chỉ được biết đến như những nhà thiền sư tinh thông địa lý, lịch sử, văn hóa mà còn được biết đến như những nhà chính trị, ngoại giao tài đức, trí dũng song toàn - những người đã thành công trong việc tiếp nối truyền thống ngoại giao của cha ông và nâng nó lên một tầm cao mới trong bối cảnh lịch sử đầy thử thách.

1. Bối cảnh lịch sử tác động đến đường lối, phong cách ngoại giao của các bậc thiền sư

Điều rất đặc biệt ở các bậc thiền sư lúc bấy giờ là mặc dầu ngay từ thủa nhỏ đã xuất gia, theo đạo học với các vị sư nổi tiếng như Khuông Việt được thiền sư Vân Phong chùa Khai Quốc thu nhận làm đệ tử hay Đỗ Pháp Thuận được theo học với thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thụ[1], nhưng các ông không chỉ được tiếp nhận kiến thúc Phật giáo mà còn được hấp thụ cả kho kiến thức Nho học từ bậc thầy của mình. Bởi vậy mà các vị thiền sư này không chỉ am hiểu Nho học, tinh thông chữ Hán mà còn được hiểu rộng kinh điển Phật giáo, hiểu sâu yếu chí Thiền học. Chính điều này sẽ góp phần làm nên một sự kết hợp rất đặc biệt giữa cái thâm thúy của một nhà nho trác việt và sự ung dung, tĩnh tại của một nhà sư trong phong cách Khuông Việt Đại sư lẫn vị thiền sư họ Đỗ.

Theo Thiền Uyển Tập Anh, Khuông Việt Đại sư sinh năm 933 và mất năm 1011[2], còn thiền sư Đỗ Pháp Thuận sinh năm 914 và mất năm 990 [3]. Căn cứ theo đó, các vị thiền sư này sinh ra khi đất nước ta còn chìm trong ách nô lệ của phong kiến phương Bắc. Và rồi chính các ông lại được chứng kiến công cuộc củng cố, xây dựng, phát triển đất nước dưới các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê trong buổi đầu kỷ nguyên độc lập. Sống trong khoảng thời gian ấy, lịch sử dân tộc với biết bao biến cố, thăng trầm, bao khó khăn, thử thách đã hun đúc trong các ông đường hướng, phong cách ngoại giao của riêng mình.

Bấy giờ, sau khi giành độc lập, các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê,...bắt tay ngay vào công cuộc khôi phục, củng cố nền độc lập, đồng thời ra sức xây dựng, phát triển đất nước. Trong bối cảnh mới ấy, nhu cầu thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, tránh chiến tranh, xung đột giữa hai nước, đảm bảo môi trường hòa bình, on định để củng cố độc lập, xây dựng đất nước là vô cùng cần thiết mà bất cứ triều đại nào cũng dày công xây đắp. Trong khi đó, về phía Trung Quốc, để duy trì địa vị thống trị của mình, để trấn áp sự đối kháng liên hồi từ phía nhân dân trong nước và sự chống đối của các nước Kim, Liêu, Hạ ở phía Bắc, các triều đại phong kiến Trung Quốc đã liên tiếp dùng vũ lực để trấn áp các dân tộc xung quoanh, trong đó có Việt Nam ta. Vì thế ngay trong buổi đầu độc lập, chúng ta thấy quan hệ 2 nước nhiều lúc bị gián đoạn. Nhưng Việt Nam ta, với sức mạnh chính trị và vũ trang của mình, cộng với hoàn cảnh khách quan do sự suy yếu bên trong của kẻ thù đã bao lần bẻ gãy được “răng con cá lớn” Trung Quốc và đuổi nó đi. Khi nó đi rồi thì chúng ta lại cư xử mềm mỏng, mềm mỏng nhưng ngoan cường, không yếu hèn để buộc các triều đại phong kiến Trung Quốc phải tôn trọng mình.

Thực hiện đường lối, nguyên tắc ngoại giao ấy là nhiệm vụ cực kỳ khó khăn đè nặng lên vai các triều đại phong kiến nước ta trong vai trò là người đứng đầu một nước nhỏ luôn phải đối phó với âm mưu bành trướng của nước lớn muốn thôn tính, sát nhập nước ta thành quận huyện của chúng. Thực tế cho thấy, lúc bấy giờ trong quan hệ bang giao, ngoài những việc về lễ nghi như triều cống theo lệ, xin phong vương, báo tang, chúc mừng Thiên tử lên ngội, các nhà ngoại giao thời phong kiến chủ yếu có nhiệm vụ điều đình về việc các biên thần của Thiên triều lấn chiếm đất đai vùng biên giới nước ta, hạch sách nước ta đủ điều hoặc giải quyết hậu quả của chiến tranh giữa hai nước, những việc lớn liên quan đến an nguy của đất nước. Trong bối cảnh buổi đầu độc lập, ai sẽ là những người được triều đình phong kiến giao phó đảm đương sự nghiệp ngoại giao đầy thử thách ấy? Trong khi chưa có các cơ quan ngoại giao chuyên trách như bây giờ, các triều Ngô - Đinh - Tiền Lê cũng như các triều đại phong kiến về sau đều phải dựa vào những trí thức trong và ngoài triều - những người có trình độ văn hóa cao để làm sao đại diện cho một quốc gia có văn hiến như nước ta mà giao thiệp với Thiên triều Trung Hoa - một đại đế quốc phong kiến ở ngay sát cạnh mình. Liệu những trí thức yêu nước có văn hóa ấy là ai khi mà trong suốt hơn 1000 năm Bắc thuộc trước đó, người Hán luôn chủ trương hạn chế tối đa đào tạo trí thức người Việt? Chính trong hoàn cảnh ấy, Phật giáo ở nước ta với tư cách là quốc giáo đã phát huy mạnh mẽ vai trò của nó trong việc đào tạo ra một tầng lớp trí thức Việt đầu tiên - những trí thức Phật giáo cực kỳ tinh thông địa lý, lịch sử, văn hóa và rất am hiểu Nho học. Chính sự nô dịch hà khắc của chính quyền đô hộ trong suốt hơn 1000 năm Bắc thuộc trước đó và chính nhu cầu bức thiết phải khẳng định tính tự chủ của quốc gia mình sau khi giành độc lập đã gián tiếp hun đúc ở các vị thiền sư nước ta bấy giờ một ý thức dân tộc mạnh mẽ.

Thêm vào đó, tinh thần nhập thế tích cực, lấy con người làm đối tượng để phụng sự nhân sinh vốn có của Phật giáo càng thôi thúc họ phải nhập thế để hành động, giúp nước, giúp dân. Từ đây, họ không chỉ cống hiến tài năng của mình xây đắp nền văn hóa dân tộc mà còn luôn sát cánh cùng đất nước trong mọi hoạt động đối nội cũng như đối ngoại. Nếu như dưới thời Lý - Trần, chúng ta phải kể đến đóng góp của nhà sư Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viễn Thông, Đạo Hạnh, Minh Không, Giác Hải, Pháp Loa, Huyền Quang trong các hoạt động chính tri - xã hội - văn hóa của đất nước thì trong buổi đầu độc lập ở thế kỷ X, đặc biệt dưới triều Đinh - Tiền Lê, chúng ta phải kể đến Khuông Việt đại sư và thiền sư Đỗ Pháp Thuận, những người đã có công rất lớn trong nhiều hoạt động đối nội, đối ngoại của dân tộc, đã góp phần xây đắp nên một nền ngoại giao độc lập của một quốc gia dân tộc độc lập trong bối cảnh lịch sử mới đầy thử thách.

2. Đóng góp của Ngô Chân Lưu và Đỗ Pháp Thuận cho nền ngoại giao Việt Nam buổi đầu kỷ nguyên độc lập

Trong buổi đầu độc lập, khi mà Phật giáo được coi là quốc giáo, khi mà các nhà sư có học vấn đều được các vị vua nước ta trọng dụng thì Ngô Chân Lưu rồi Đỗ Pháp Thuận đã xuất hiện và bằng tài năng, sự thông tuệ khác thường của mình đã chinh phục trái tim, khối óc của những vị vua đứng đầu đất nước. Năm 40 tuổi, tài năng mẫn tiệp của Ngô Chân Lưu đã vang dội đến triều đình. Khâm phục trước tài ứng đối rành mạch, giảng luận tinh tường, vua Đinh liền phong cho ông giữ chức Tăng Thống. Hai năm sau đấy (971), vua Đinh tiếp tục ban phong cho Ngô Chân Lưu tước Khuông Việt[4] đại sư, giữ lại tu hành ở kinh đô để tiện hỏi han, bàn bạc việc nước. Còn thiền sư họ Đỗ tuy từ chối không nắm giữ chức vụ gì trong triều đình song ông luôn được vua Lê Đại Hành nể trọng và được xem như cố vấn đắc lực cho công cuộc trị nước, an dân của mình. Từ đây, các vị thiền sư không chỉ chăm lo việc tu hành, giảng đạo mà còn nhập thế, coi việc nước, việc dân cũng là việc đạo. Chính trong hoàn cảnh ấy, nhân cách của một nhà ngoại giao trí dũng song toàn trong các ông có dịp bộc lộ rõ nét.

Đối với quốc sư Khuông Việt cũng như thiền sư Đỗ Pháp Thuận, muốn khẳng định được tính độc lập, thế mạnh của đất nước mình trong quan hệ bang giao với nước ngoài thì trước hết thế nước phải on định và phải khẳng định được sức sống riêng, giá trị văn hóa riêng của dân tộc mình. Muốn cho thế nước ổn định, hơn ai hết các bậc thiền sư thời bấy giờ hiểu rằng phải thu phục lòng dân. Chính vì nhận thức như vậy nên qua các đời vua Đinh - Tiền Lê, quốc sư Khuông Việt luôn trăn trở làm sao giúp vua vạch ra đường lối trị nước cốt nhằm ổn định nhân tâm. Chắc hẳn người đời không thể nào quên được những lời căn dặn chí tình của ông đối với vua Đinh rằng: ‘Hoàng thượng nay đã làm vua nên vâng theo lời Phật tổ dạy: thứ nhất phải như mặt trời soi sáng khắp thế gian; thứ hai phải như mặt đất nuôi dưỡng muôn loài; thứ ba phải như cái cầu không quản khó nhọc đem lưng ra tế độ mọi người; thứ tư phải như cái cân không vì họ hàng thân thích mà n ghiêng lệch, không vì kẻ yêu, người ghét mà nặng, nhẹ; thứ năm phải như người mẹ hiền, ruột thắt gan mòn nuôi nấng con dân .”[5]. Tư tưởng an dân ấy một lần nữa lại được thiền sư Đỗ Pháp Thuận khảng khái trả lời khi vua Lê Đại Hành hỏi về kế sách của bề tôi để giữ nước vào năm 982.

“Quốc tộ như đằng lạc,

Nam thiên lý thái bình

Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh ”

Dịch:

Vận nước như dây quấn

Trời Nam hưởng thái bình

Vô vi nơi điện các,

Chốn chốn dứt đao binh[6]

Bài thơ nêu cao tư tưởng hòa bình, thương dân, thể hiện một tầm nhìn mang tính chiến lược. Với thiền sư họ Đỗ cũng như Khuông Việt đại sư, muốn giữ nước trước hiểm họa xâm lăng luôn thường trực thì phải luôn đặt dân lên trên hết và có hòa bình thì mới an dân, đất nước mới thịnh vương. Tư tưởng hòa bình, hòa hiếu ấy là tư tưởng xuyên suốt trong đường hướng ngoại giao của các ông và tư tưởng ấy góp phần tạo dựng cho các ông một phong cách ngoại giao rất riêng mang đậm dấu ấn của một bậc thiền sư.

Lúc bấy giờ, nhà Tống sau khi dùng biện pháp đe dọa ngoại giao[7] bằng tối hậu thư không thành, tháng 4 năm 981, đã phái quân theo 3 đường tiến vào xâm lược nước ta. Nhưng trên cả 3 đường hành quân, giặc đều bị quân ta, dưới sự lãnh đạo tài tình của Lê Hoàn đánh cho bại trận. Và đúng như dự đoán của Khuông Việt đại sư, sau thất bại thảm hại này, quân Tống buộc phải thông hiếu với triều Lê. Thực tế trong thời gian từ năm 982 đến 985, sứ thần hai nước, ta và Tống thường qua lại với nhau. Đặc biệt, đến cuối năm 986, vua Tống cho 2 quan văn là Lý Nhược Chuyết và Lý Giác sang ta để nhận tù binh và mang sắc vua Tống phong Lê Hoàn chức ‘Tiết độ sứ”[8]. Rõ ràng là hơn ai hết, Khuông Việt đại sư hiểu rằng, nhà Tống cũng như các triều đại phong kiến phương Bắc khác, chỉ công nhận quan hệ bang giao với nước ta khi không thể nào phủ nhận được sự thất bại của chúng về mặt quân sự. Và ông cũng nhân thức sâu sắc rằng, để khẳng định được tính độc lập, tự chủ, sự ngang hàng của mình trong quan hệ ngoại giao với một đế quốc phong kiến khổng lồ như Trung Hoa, trước hết chúng ta phải tỏ rõ và khẳng định cho họ thấy dân tộc ta là một dân tộc có văn hiến lâu đời với những con người có học thức, đầy tài năng, không thua kém gì đất nước và con người Trung Hoa. Có như thế Thiên triều Trung Hoa mới từ bỏ thái độ hống hách, coi thường nước ta như là một nước Man Di. Bởi vậy, năm Đinh Hợi (987), khi được tin nhà Tống cử sứ giả sang ta, ngay lập tức Khuông Việt đại sư đã bày tỏ dứt khoát với vua Lê rằng: ‘Hai lần trước sứ Tống sang thấy triều quan thưa thớt, trong bụng họ không khỏi khinh thường nước Việt thiếu văn tài. Vậy, lần này phải tỏ cho họ biết trong nước mình không hiếm người có học thức và người nước mình khác người nước họ ở chỗ không phải ai cũng học chỉ để ra làm quan”[9]. Rồi sau đó chính ông đã tiến cử sư Đỗ Thuận làm giang lệnh[10] chở đò đón sứ giả phương Bắc với lập luận rằng: “Thầy tăng họ Đỗ thông nho học, tính lại hay nói thơ, nói văn, có thể làm cho sứ Tống giật mình kinh sợ mà bỏ thói kiêu ngạo”[11]. Và thực tiễn lịch sử đã minh chứng hùng hồn cho con mắt tinh tường, sự nhạy cảm tuyệt vời về ngoại giao của Khuông Việt đại sư. Quả nhiên, Đỗ Pháp Thuận đã không phụ sự ủy thác này.

Lúc này đây, sứ giả mà nhà Tống cử sang là Lý Giác - một Quốc tử giám bác sĩ[12] nổi tiếng học vấn uyên thâm, văn hay chữ tốt. Đoàn đón sứ của ta bố trí cho Lý Giác đi trên chiếc thuyền có nhà sư Đỗ Thuận mang danh chủ thuyền, cùng một vài quan lại của ta tham dự vào việc nghênh đón Lý Giác trên suốt dọc đường đi. Chuyện kể rằng: có một buổi Đỗ Thuận cầm chèo đưa thuyền đi, sứ Tống đứng ở mạn thuyền, ngắm cảnh trời mây, sông nước, nhìn thấy hai con ngỗng bơi lội tung tăng dưới sông liền ngâm hai câu thơ:

“Nga nga lưỡng nga nga

Ngưỡng diện hướng thiên gia.

Dịch:

Ngỗng ngỗng, hai một đôi

Vươn cổ ngước chân trời.

Lái đò Đỗ Thuận ngay lập tức gieo vần họa lại:

“Bạch mao phô lục thủy

Hồng trạo bãi thanh ba.

Dịch:

Nước xanh ngời lông trắng

Sóng biếc chèo hồng bơi.[13]

Bốn câu thơ hợp lại thành một bài thơ hay:

Nga nga lưỡng nga nga

Ngưỡng diện hướng thiên gia

Bạch mao phô lục thủy

Hồng trạo bãi thanh ba.

Dịch:

Ngỗng ngỗng, hai một đôi

Vươn co ngước chân trời

Nước xanh ngời lông trắng

Sóng biếc chèo hồng bơi.

Sứ thần Lý giác phải tỏ rõ sự khâm phục và rất đỗi ngạc nhiên của mình. Khâm phục bởi sự thông minh, uyên bác của Đỗ Thuận vì Lý Giác ngâm hai câu thơ có sẵn trong một bài thơ tứ tuyệt của nhà thơ nổi tiếng thời Đường là Lạc Tân Vương và thay đổi một vài chữ cho phù hợp với cảnh vật lúc ấy, vậy mà Đỗ Thuận cũng ngâm tiếp hai câu thơ chính là hai câu cuối trong bài thơ của Lạc Tân Vương và cũng thay đổi vài chữ cho thích hợp với hoàn cảnh. Lý Giác cũng rất đỗi ngạc nhiên bởi Đỗ Thuận chỉ là một người lái đò bình thường thôi mà lại tinh thông Nho học và có tài ứng đối vô cùng mẫn tiệp. Qua tài trí của người lái đò, chắc hẳn Lý Giác cũng thầm khâm phục trình độ văn hiến và tài năng của nhân dân ta. Vậy là nhiệm vụ ngoại giao của vua Lê nhằm “tỏ rõ cho họ biết trong nước mình không hiếm người có học thức và người nước mình khác người nước họ ở chỗ không phải ai cũng học chỉ để làm quan” đã đạt được.

Thán phục tài năng của người lái đò thi sĩ, khi đặt chân đến Hoa Lư, Lý Giác đã làm một bài thơ gửi tặng, bày tỏ tấc lòng ngưỡng mộ đối với người lái đò xứ Giao Châu và cũng là sự kính nể dành cho vua Việt.

“Hạnh ngộ minh thì tán thịnh du

Nhất thân nhị độ sứ Giao Châu

Đông Đô lưỡng biệt tâm vưu luyến

Nam Việt thiên trùng vọng vị hư

Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch

Xa trì thanh chướng phiếm trường lưu

Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu

Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu[14]

Rõ ràng, thiền sư Pháp Thuận bằng tài năng mẫn tiệp và thái độ ứng xử mềm dẻo, thông minh của mình đã gieo vào lòng vị sứ giả vốn nổi tiếng tài cao học rộng như Lý Giác sự mến phục vô cùng. Từ lòng mến phục dành cho những con người như Pháp Thuận, Lý Giác đã nâng lên thành lòng tôn quý dành cho nước Việt. “Đông Đô lưỡng biệt tâm vưu luyến - Nam Việt thiên trùng vọng vị hư” nghĩa là hai lần từ biệt Đông Đô đi sứ, tấm lòng lưu luyến Nam Việt nghìn dặm xa xôi vẫn mong muốn được trở lại. Ở đây, Lý Giác đã đem chữ Nam Việt đối với chữ Đông Đô tiêu biểu cho nước Tống, có khác nào là công nhận Nam Việt cũng là một nước như Trung Quốc. Hay nhất là hai câu kết bài thơ: “Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu - Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu ” nghĩa là ngoài trời lại có trời nữa nên chiếu xa, bởi khe đầm lặng sóng thấy hiện vầng trăng thu. Như vậy là theo Lý Giác, ngoài hoàng đế Trung Hoa, còn có hoàng đế Nam Việt và hai nước sống với nhau hòa hiếu trong cảnh thanh bình. Qủa là một trường hợp thật hiếm có. Các sứ thần phương Bắc sang Việt Nam, thường cậy mình là người thay mặt Thiên tử, Thiên triều nên vốn rất ngạo nghễ, hống hách. Vậy mà ở đây sứ Tống đã phải thốt lên những vần thơ bằng tất cả sự kính nể của mình dành cho con người và đất nước Việt. Đây quả là một thắng lợi ngoại giao to lớn mà triều Tiền Lê đạt được trong quan hệ bang giao với Trung Hoa lúc bấy giờ.

Không chỉ mềm dẻo trong việc đón tiếp sứ thần nhà Tống mà khi có dịp, các vị thiền sư của nước ta cũng tỏ rõ thái độ kiên quyết, đầy dứt khoát của mình trong việc khẳng định tính độc lập bền vững của dân tộc. Câu chuyện sau đây là một minh chứng rõ nét cho điều đó.

‘Một lần, khi đón tiếp sứ thần Lý Giác ở vườn chùa Quốc sư, Lý giác thấy có mộ con hươu đang bứt lá. Dù thấy người nhưng vì đã quen nên hươu không chạy. Lý Giác khen ngợi:

Nhà chùa thật từ bi, đến hươu nai cũng tự nhiên như chỗ rừng rậm núi cao của chúng.

Khuông Việt không nói gì, từ từ tiến lại gần con vật rồi bất thình lình vung gậy thiên trượng vụt tới tấp. Con vật hoảng sợ kêu rống lên và co cẳng chạy trốn.

Khuông Việt nhìn Lý Giác, cười hỏi:

Ông chánh sư thấy lão tăng có ác không? Vậy đó! Cái lũ chúng là chúa tham lam. Vì thương nó nên lão tăng mới đánh nó, để nó chừa cái thói xông bừa vào vườn nhà người ta đi! Nếu không, đến khi nó mò vào vườn nhà người khác thì họ không đánh đuổi nó đâu, mà sẽ bắt nó để lột da xẻ thịt! Có phải không ông chánh sư?”[15].

Là một người nổi tiếng thông minh, học rộng tài cao như Lý Giác, ắt hẳn hiểu được những điều đại sư Khuông Việt muốn nói đằng sau câu chuyện của chú hươu kia. Tại sao chú hươu đã quen ăn lá chùa lâu rồi mà nay Khuông Việt đại sư lại đánh đuổi nó ngay trước mặt chánh sứ Trung Hoa. Phải chăng ông muốn mượn chuyện đánh đuổi hươu để răn đe, cảnh cáo triều Tống. Nếu thiên triều Trung Hoa có ý đánh xâm chiếm đất đai, bờ cõi của nước Việt, nước Việt ta sẽ kiên quyết đánh trả để bảo vệ nền độc lập. Chắc rằng Lý Giác cũng chưa thể nào quên được thất bại nặng nề mà triều Tống phải nếm trải ở Đại Việt cách đấy 5 năm. Dư âm nặng nề của thất bại ấy luôn đè nặng trong lòng Lý Giác mỗi khi lĩnh mệnh đi sứ sang nước Việt ta và lời răn đe thâm thúy của đại sư Khuông Việt lần này sẽ lại khắc sâu thêm nỗi ám ảnh khôn nguôi ấy. Lời nhắc nhở, răn đe đầy kiên quyết mà thật thâm thúy, nhẹ nhàng. Nhắc nhở Lý Giác - một sứ thần do Thiên triều cử sang chính là sự cảnh cáo, răn đe gián tiếp đối với âm mưu xâm lược thường trực của Thiên triều Trung Hoa đương thời.

Đứng trước thực trạng biên cương đất nước thường xuyên bị de dọa và nhà Tống luôn mượn tiếng cử sứ thần sang sách phong cho ta nhưng thực ra là để dò xét tình hình chính sự trong nước ta và ra sức sách nhiễu, đòi cống biếu các vật phẩm quý hiếm, quốc sư Khuông Việt đã thay mặt vua Lê mượn lời văn nhẹ nhàng, thâm thúy trong bài từ diệu tiễn biệt Lý Giác “Tống Vương Lang qui” để bày tỏ rõ ràng sự bất đồng của mình.

“Tường quang phong hảo cẩm phàm trương

Dao vọng thần tiên phục đế hương

Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang

Cửu Thiên quy lộ trường

Tình thảm thiết, đối ly thương

Phan luyến sư tinh lang

Nguyện tương thâm ý vị biên cương

Phân minh tấu ngã hoàng ”

Dịch:

Trời quang gió thuận, buồm gấm căng

Xa trông thần tiên trở về trời

Muôn trùng non nước lênh đênh trên song biếc

Đường về chin tầng trời còn dài

Tình cảm thiết cất chén chia tay

Lòng quyến luyến sứ thần không nỡ.

Xin đem thâm ý vì biên cương

Tâu rõ ràng lên đức hoàng đế.[16]

Tiễn biệt sứ Tống mà bài hát lại được soạn theo điệu hát đang thịnh hành ngay trong triều đại của sứ giả nhà Tống khiến Lý Giác càng kính nể tài năng và thành ý của vị đại sư Khuông Việt cũng như của cả triều đình nhà Lê lúc bấy giờ. Điều đáng nói là đằng sau lời tiễn biệt thiết tha ấy là thâm ý sâu xa mà nước ta muốn nhắn gửi đến Thiên triều Trung Hoa. Hai nước Trung Quốc và Việt Nam nghìn trùng sông núi cách trở, mỗi lần sứ thần qua lại thật muôn phần vất vả. Chi bằng có việc gì hệ trọng cứ giao thư cho viên quan ở đầu biên giới nhận chuyển về triều. Rõ ràng thông qua từ khúc tặng tiễn Lý Giác, đại sư đã gián tiếp bày tỏ ý muốn bãi bỏ lệ sứ giả mang chiếu thư hay chế sách của Thiên triều sang đất Việt, với bao lễ nghi đón rước, tiễn đưa phiền toái. Kết quả là: từ đó, chỉ trừ trường hợp đặc biệt, nhà Tống mới sai sứ sang tận kinh đô Hoa Lư. Nước Đại Cồ Việt dưới thời Lê Hoàn theo đó mà đã giảm bớt được nạn sứ giả sách nhiễu. Cho đến năm Đinh Dậu (997), Tống Nhân Tông lên ngôi đã ra lệnh bãi bỏ hẳn việc cử sứ sang Nam Việt, chỉ sai quan giữ biên giới đến nhận mệnh.

Như vậy là bằng tài năng mẫn tiệp và phong cách mềm mỏng, khéo léo, thiền sư Đỗ Pháp Thuận và quốc sư Khuông Việt đã hoàn thành nhiệm vụ ngoại giao một cách viên mãn, một mặt giữ gìn được quốc thể, không làm nhục mệnh vua, mặt khác buộc đối phương phải tôn trọng, kính nể mình. Đúng như Phan Huy Chú đã nhận xét: “Nhà Tiền Lê tiếp đãi sứ thần nhà Tống, tình ý và thơ văn rất chu đáo. Thơ văn và khúc hát hay cũng đủ khoe có nhân tài, mà quốc thể được thêm tôn trọng, làm cho người Bắc phải khuất phục”[17]. Cũng chính tự đây, một mô thức mới trong việc tiếp đón sứ thần Trung Quốc ra đời. Đó là “Mỗi khi sứ Trung Quốc về nước đều có đưa thơ tiễn tống để khoa trương văn hóa”[18] tăng thêm sự tôn trọng quốc thể, đồng thời qua đó mà khuất phục được sứ thần phương Bắc.

Rõ ràng, mỗi thắng lợi, mỗi bước tiến của triều Đinh - Tiền Lê trong mối quan hệ bang giao với phong kiến Trung Hoa đều thấp thoáng bóng dáng của các tri thức Phật giáo tinh thông địa lý, lịch sử, văn hóa, có tài năng mẫn tiệp và khả năng ứng đối tuyệt vời. Chúng ta tìm thấy ở các bậc thiền sư đáng kính ấy không chỉ Tài - Đức quyện hòa mà còn Trí - Dũng vẹn toàn. Trí ở chỗ tinh thông Nho học, hiểu biết tường tận địa lý, lịch sử, chính trị, văn hóa của đối phương cũng như của nước mình. Dũng ở chỗ dám đề xuất những nhận định, suy nghĩ chủ quan có lợi cho dân, cho nước và dám gánh vác, đảm đương những trọng trách ngoại giao nặng nề mà không phút đắn đo .Thiết nghĩ đó cũng chính là những phẩm chất, trí tuệ cần có của mỗi bậc Thiền sư mà nền giáo dục Phật giáo ngày nay phải hướng tới để Phật giáo thật sự đi vào cuộc sống, gắn liền với công cuộc đối nội, đối ngoại của quốc gia.

ThS. NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH

Khoa Việt Nam học - Đại học Sư phạm Hà Nội


[1] Theo Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga (dịch và chú thích). Thiền Uyển Tập Anh, Nxb Văn học, Hà Nội, 1990, tr.40,42.

[2] Theo Thiền Uyển Tập Anh, sđd, tr.42.

[3] Theo Thiền Uyển Tập Anh, sđd, tr.40

[4] Hai chữ Khuông Việt có nghĩa là giúp đỡ, sửa sang, khuông - phù nước Việt

[5] Xem: Hoàng Tuấn Phổ, Văn Lang, Nguyễn Anh. Truyện danh nhân Thanh Hóa, tập 1, Nxb Thanh Hóa, 1983, tr.89.

[6] Xem: Nhiều tác giả. Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr.204.

[7] Hay còn gọi là biện pháp “Phật giao” tức dùng ngoại giao để đe dọa, nạt nộ, lừa gạt người để bắt người phải hàng phục, phải cống nạp, phải chịu sự thống trị của mình. “Phạt giao” thành công thì khỏi phải vũ trang xâm lược.

[8] Trên thực tế, Lê Hoàn vẫn là hoàng đế của một nước độc lập, không phải tiết độ sứ của một địa phương nào của Tống.

[9] Xem: Truyện danh nhân Thanh Hóa, Sđd, tr.98.

[10] Giang lệnh: tức người trông coi một khúc sông

[11] Xem: Truyện danh nhân Thanh Hóa, Sđd, tr.98.

[12] Quốc tử giám bác sĩ: tương tự giáo sư đại học bây giờ.

[13] Xem: Thiền Uyển Tập Anh, Sđd, tr. 180-181.

[14] Xem: Truyện danh nhân Thanh Hóa, Sđd, tr. 103.

[15] Xem: Truyện danh nhân Thanh Hóa, Sđd, tr.102.

[16] Xem: Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loại chí, tập IV, Nxb Sử học, Hà Nội, 1961, tr. 178.

[17] Xem: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, tr.178.

[18] Xem: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, tr. 178.

Các tin đã đăng: