Thử nhìn xuống một hồ nước. Khi mặt hồ yên tĩnh, trong xanh ta dễ dàng
nhìn rõ được mọi vật dưới đáy. Trái lại, khi làn nước gợn sóng, hình ảnh
sẽ bị phản chiếu lệch lạc. Bộ não con người cũng giống như vậy. Khi
tinh thần yên tĩnh, tập trung, tâm trí sẽ sáng suốt.
Thời đại cởi mở nên muốn tìm chân lí phải đi từ nhiều phía khách quan,
xuất phát từ những nơi khác nhau, những tôn giáo khác nhau, những nhà tư
tưởng khác nhau. Chân lí không chỉ có ở trong đạo Phật...
Cùng một việc dứt thở, bỏ xác, tại sao
ở người thế-gian, gọi là chết, còn ở Phật lại gọi là “nhập Niết-bàn”?
Vậy sự
sai khác giữa đôi đàng như thế nào và Niết-bàn có nghĩa là gì? Đó
là hai điểm mà tôi xin đề-nghị cùng chư quý đạo-hữu tìm hiểu, xuyên qua
các
sách vở đã được viết ra rất nhiều về vấn-đề này.
Biết pháp là biết mười hai bộ kinh để dễ phân biệt về sau. Biết pháp cũng còn có nghĩa là biết rành mọi pháp ở thế gian, ngay trong cõi mình đang sống, nhờ đắc Nhất thiết chủng trí. Ðại Bồ tát y theo kinh Ðại Bát Niết Bàn trụ nơi bảy pháp lành này (Biết pháp..., Biết tôn ty) thành tựu trọn vẹn Phạm hạnh nhưng cũng chưa đầy đủ. Phạm hạnh là một hạnh rất lớn, gồm cả Tứ vô lượng tâm.
Ðức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn. Cảnh giới an vui hạnh phúc này còn gọi là niết bàn là do chính chúng ta tạo ra, không phải là ở một nơi xa xăm nào đó hoặc là ai đó ban thưởng đến cho chúng ta.
Dẫu tìm cầu và bắt gặp cơ duyên thì người muốn đạt ngộ vẫn
phải có sẵn nền tảng tu tập, phải tích sẵn chất nổ để khi đốt ngòi nổ là
sẽ bùng cháy. Bản chất của Ngộ là sự tự chứng sau khi đúc kết, tích lũy
trong cả quá trình nên không thể thiếu một yếu tố quan trọng: sự trải
nghiệm đời sống.
Kinh Bát Ðại Nhân Giác do ngài An Thế Cao dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán, vào thời Hậu Hán đời vua Hán Hoàn Ðế, niên hiệu Kiến Hòa năm thứ 2 (148 CN). Ngài là Thái tử xứ An Tức (Parthie), nay một phần thuộc Ba Tư (Persia, Iran) một phần thuộc A Phú Hãn (Afghanistan). Lúc bấy giờ Ðạo Phật từ Ấn Ðộ truyền sang rất thịnh hành trong vùng đó.
Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya). Chúng ta có Trường Bộ (Dīgha-nikāya), Trung Bộ (Majjhima-nikāya), Tương Ưng Bộ (Samyutta-nikāya), Tăng Chi Bộ (Anguttara-nikāya). Ngoài ra chúng ta còn có một bộ nhỏ gọi là Tiểu Bộ, trong Tiểu Bộ có một tập gọi là Kinh Tập (Sutta-nipāta).
Câu hỏi đặt ra là tại sao quan sát hơi thở? Quan sát hơi thở có gì hay?
Tại sao không chọn các đối tượng khác để quan sát? Thật ra quan sát cái
gì cũng được, nhưng quan sát hơi thở có lợi thế hơn. Tim đập lúc nhanh
lúc chậm, khó theo dõi, hoàn toàn ngoài ý thức, khó can thiệp. Dạ dày
làm việc âm thầm, khó quan sát.
Sự
mô tả về địa ngục trong Phật Giáo hoàn toàn khác đối
với những tôn giáo khác, ngoại trừ một vài nét giống với Ấn giáo. Trước
hết chúng ta cần hiểu về cái chết. Một nguyên tắc chung có thể đo
lường được đó là định luật bảo toàn năng lượng (The law of conservation
of energy), cho chúng ta thấy được làm thế nào vật chất và năng lượng
là có thể chuyển biến nhưng không mất đi mà chỉ chuyển từ dạng này sang
dạng khác.
Các tin đã đăng: