Phật giáo vào Việt  Nam từ lúc nào? Một câu hỏi 
chưa có lời giải. Theo Giáo sư Hà Văn Tấn:  “Phật giáo du nhập vào Việt 
Nam vào khoảng đầu công nguyên. Trong khoảng  thời gian đó, các ngôi 
chùa dần mọc lên trong các thời gian khác nhau  và trên các không gian 
khác nhau ở Việt Nam … 
Cho đến lúc, mỗi  làng có một ngôi chùa”(2). Có học giả cho rằng Phật 
giáo vào Việt Nam từ  rất sớm, dưới thời Vua Asoka (khoảng thế kỷ III 
trước công nguyên) ở  vùng Núi Bùn (Đồ Sơn)  thành phố Hải Phòng ngày 
nay. Những dấu vết khai  quật được ở tháp Tường Long dường như mới chỉ 
mách bảo cho chúng ta một  thời huy hoàng ở triều Lý (thế kỷ XI – XII).
Phật giáo đặt chân  đến Giao Châu sớm nhất là vùng Luy Lâu (huyện Thuận 
Thành, Bắc Ninh ngày  nay). Chùa Dâu với tháp Hoà Phong và một loạt các 
chùa quanh đó như Mãn  Xá, chùa Dàn, chùa Tướng... như nhắc chúng ta về 
dấu tích một thời của  hệ thống tứ pháp vào Việt Nam năm 189 sau công 
nguyên. 
Tứ pháp  là gì? Không đơn giản chỉ là 4 phép màu (mây, mưa, sấm, sét) mà
còn là  sự tích cô gái trẻ có tên Man Nương đến với Phật giáo Ấn Độ 
buổi đầu  công nguyên để hình thành nên một Phật giáo Việt Nam như ngày 
nay. Đó  chính là lời lý giải vì sao các tác giả Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn 
Kự và  Phạm Ngọc Long lại chọn chùa Dâu và hệ thống các chùa tứ pháp mở 
đầu cho  cuốn sách.
Vẫn trên cái trục thời gian lịch sử đó, các tác giả  đã giới thiệu cho 
chúng ta cái hay, cái tinh tuý của từng ngôi chùa để  bạn đọc, qua sách,
phần nào hình dung ra sự phát triển của Phật giáo  Việt Nam từng thời 
kỳ, thể hiện qua cách bài trí tượng Phật trong chùa,  tuỳ thuộc vào từng
kiến trúc chùa cụ thể như: đầu công nguyên, thời  Đinh, Lê, Lý, Trần, 
Lê, Nguyễn. Thậm chí có nhiều ngôi chùa mới được xây  mới gần đây cũng 
được các tác giả cập nhật như chùa Non (Hà Nội), chùa  Bái Đính (Ninh 
Bình), chùa Thanh Long (Bình Phước)…
Những bức  tượng được chụp rất sinh động từ một cách nhìn đa chiều sẽ 
giúp cho  người xem có thể cảm thụ được nghệ thuật điêu khắc, tạc tượng 
Phật của  nghệ nhân Việt ngày xưa cũng như sự hóm hỉnh mà các nghệ nhân 
đưa vào  tượng, như bức tượng nhịn ăn để mặc tương phản hẳn với bức 
tượng nhịn  mặc để ăn. Hai con người ấy vẫn chỉ là hiện thân của một Đức
Phật vậy mà  họ khác nhau đến thế.
Bức tượng Hộ pháp to lớn trong chùa mà  người đời mỗi khi vào chùa 
thường nhắc nhau đây là ông khuyến thiện có  gương mặt màu trắng, đây là
ông trừng ác có gương mặt màu hồng. Họ vốn  là các hoàng tử con vua chỉ
vì tranh nhau ngôi báu mà hại nhau, sau nhận  ra được sự thật, họ đã 
rời bỏ ngai vàng theo Phật và trở thành những  người bảo vệ đạo pháp 
Phật giáo. Vì vậy mới có tên Hộ pháp.
Còn  có biết bao pho tượng Phật và Bồ tát khác được các tác giả cuốn 
sách mô  tả khá chân thật như Thích Ca Phật đài trong giấc ngủ của Niết 
Bàn, hay  các tượng Quan Thế âm Bồ tát. Từ một hình tượng người phụ nữ 
nghệ nhân  Việt Nam đã đưa vào chùa có tới nhiều thể loại quan âm như: 
Quan âm  thiên thủ thiên nhãn hay còn gọi là ngàn mắt ngàn tay, Quan âm 
quá hải,  Quan âm tọa sơn, Quan âm tống tử (hay còn gọi là Quan âm tòng 
tử) là  những hình tượng hay gặp nhất trong các chùa.
 
Quan âm tòng tử có  nhiều nơi gọi là Quan âm Thị Kính, chết thầm lặng 
trong nỗi oan khiên  và nỗi oan này chỉ có Phật mới cứu xét và giúp đỡ 
được mà thôi. Quan âm  tòng tử có mặt trong nhiều ngôi chùa vì nó là đại
diện cho tầng lớp phụ  nữ phải chịu những oan khiên dưới chế độ phong 
kiến Việt Nam. Còn có bao  điều đáng nói qua các bức tượng, qua những 
bức ảnh mà nhóm tác giả muốn  gửi đến người xem lần này. 
Sách “Chùa Việt Nam” là công trình  kết tinh các hình ảnh và giá trị của
khối di sản văn hoá và tôn giáo -  tín ngưỡng, được các tác giả thể 
hiện tinh tế, súc tích qua bài dẫn luận  công phu của Giáo sư Hà Văn Tấn
về toàn cảnh chùa Việt Nam qua các thời  kỳ lịch sử và quá trình du 
nhập đạo Phật ở Việt Nam. 
Chúng ta  nhận thấy sự cố gắng lớn lao của các tác giả. Nếu như lần xuất
bản đầu  tiên năm 1993 mới chỉ giới thiệu được 42 ngôi chùa của 19 tỉnh
thành  phố, thì lần xuất bản này chúng ta đã thấy có mặt của 118 ngôi 
chùa của  61/63 tỉnh trong toàn quốc (còn 2 tỉnh Điện Biên và Lai Châu 
chưa phát  hiện được chùa), với trên một ngàn bức ảnh nghệ thuật rất đẹp
của các  tác giả Nguyễn Văn Kự, Phạm Ngọc Long, với sự cộng tác của một
số tác  giả khác, đặc biệt là ảnh của Đại đức Thích Minh Hiền trụ trì 
chùa Hương  Tích. Gần như là đại diện tiêu biểu cho các chùa theo Phật 
giáo Bắc  tông và Nam tông trên đất nước đều có. 
Là một nhà nghiên cứu  khảo cổ học – tôn giáo, có nhiều năm lăn lộn 
nghiên cứu và khai quật các  ngôi chùa cổ Việt Nam, chúng tôi xin ghi 
nhận những đóng góp quan trọng  của các tác giả, của ban biên tập. 
Xin trân trọng giới thiệu  cùng bạn đọc cuốn “Chùa Việt Nam”, một cuốn 
sách công phu nghiêm túc, in  và trình bày đẹp, có giá trị tựa như một 
bách khoa thư chuyên đề về  chùa Việt Nam.
| “Chùa Việt Nam”. Hà Văn 
Tấn -  Nguyễn Văn Kự - Phạm Ngọc Long. NXB Khoa học Xã hội Hà Nội – 1993
(song  ngữ Việt Anh); In lần thứ hai: NXB Thế Giới, 2008 (tiếng Anh, có
chỉnh  lý bổ sung).In lần thứ ba: NXB Thế Giới, 2009 (tiếng Việt có 
chỉnh lý bổ  sung).
 (2) Hà Văn Tấn - Nguyễn Văn Kự - Phạm Ngọc Long: “Chùa  Việt
Nam” - In lần thứ ba. NXB Thế giới, Hà Nội 2009, tr.2
 NXB Thế giới, vừa tái bản 
lần thứ 4 có  sửa chữa và bổ sung cuốn “Chùa Việt Nam” của các tác giả: 
Hà Văn Tấn -  Nguyễn Văn Kự - Phạm Ngọc Long. Biên tập: Lê Văn Lan – 
Nguyễn Duy Chiếm.  Sách dày 536 trang, khổ 22x28cm, với hơn 1.000 ảnh, 
bản vẽ, bản đồ giới  thiệu 118 ngôi chùa trong cả nước. 
 Giá sách: 496.000đ/cuốn  (chuyển đến tận nhà miễn phí)
 Liên hệ mua tại: Ban Biên tập Ngõ 378,  ngách 17, số 8A Lê 
Duẩn, Quận Đống Đa, Hà Nội. Tel: (04) 38521820  Mobile: 
0903265331.Email: nguyenvanku@gmail.com
 | 
Theo: Lao động