TẠP A-HÀM QUYỂN 12
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây 
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: 
“Nếu đối với pháp kết sử hệ phược mà tùy thuận nếm 
vị, rồi đoái tưởng, tâm hệ lụy, thì ái sanh[2]; 
ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già chết, ưu, bi, 
khổ, não và tụ tập thành thuần một khối khổ lớn như vậy. Như người trồng 
cây, ban đầu cây còn nhỏ yếu mềm, cần yêu quí bảo vệ làm cho nó an ổn, vun 
bồi dất, tùy thời tưới nước, nóng lạnh điều hòa. Nhờ những nhân duyên này 
nên cây mới lớn dần. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, đối với các pháp kết sử 
ràng buộc mà nếm vị, chăm sóc cho lớn, thì ân ái sanh; ái duyên thủ, thủ 
duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già chết, ưu, bi, khổ, não và tụ tập 
thành thuần một khối khổ lớn như vậy. 
“Nếu đối với các pháp kết sử ràng buộc mà thùy 
thuận quán vô thường, quán trụ, sanh, diệt, quán vô dục, quán tịch diệt, 
quán xả, chẳng sanh đoái tưởng, tâm không hệ lụy, thì ái diệt; ái diệt thì 
thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì 
lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não diệt và khối khổ lớn đã tụ tập thuần thành 
cũng diệt. Cũng giống trồng cây, ban đầu cây còn nhỏ, mềm yếu, mà không 
yêu quý bảo vệ, không làm cho nó an ổn, không vun bồi phân đất, không tưới 
nước theo thời, không tạo sự thích hợp nóng lạnh, thì cây ấy sẽ không thể 
tăng trưởng. Lại còn chặt gốc, bẻ cành, cắt ra từng đoạn, chia ra từng 
phần, để cho gió thổi nắng táp; hay dùng lửa thiêu đốt, cây cháy thành 
tro; hoặc để cho gió lốc bốc lên; hoặc bị quăng xuống nước, thì này các 
Tỳ-kheo, ý các ông thế nào, làm như vậy há không phải là chặt đứt gốc rễ 
cây này, cho đến thiêu đốt khiến cho nó bị tiêu diệt, thành pháp không 
sanh khởi trong đời vị lai chăng?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng như vậy.”
“Như vậy, này các Tỳ-kheo, đối với các pháp kết sử 
ràng buộc mà tùy thuận quán vô thường, quán trụ, sanh, diệt, quán vô dục, 
quán tịch diệt, quán xả, chẳng sanh đoái tưởng, tâm không hệ lụy, thì ái 
diệt; ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, 
sanh diệt thì lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não diệt và khối khổ lớn đã tụ 
tập thuần thành cũng diệt.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây 
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: 
“Nếu đối với pháp bị chấp thủ mà tùy thuận nếm vị, 
tham luyến, tâm hệ lụy, tâm dong ruổi, đuổi theo danh sắc[4]; 
danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, 
ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão, bệnh, tử, ưu, 
bi, khổ, não và tụ tập thành một khối khổ lớn như vậy. Thí như gốc cây 
lớn, có rễ, có cành, nhánh, lá, hoa, quả; rễ nó được trồng sâu, bền chắc, 
được vun đắp phân tro, dùng nước để tưới, thì cây ấy vững chắc, trọn đời 
không bị mục hư. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, đối với pháp bị chấp thủ mà 
tùy thuận nếm vị, tham luyến, tâm hệ lụy, tâm dong ruổi, đuổi theo danh 
sắc; danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên 
ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão, bệnh, tử, 
ưu, bi, khổ, não và tụ tập thành một khối khổ lớn như vậy.
“Nếu đối với pháp bị chấp thủ, mà tùy thuận quán vô 
thường, quán trụ, sanh, diệt, quán vô dục, quán tịch diệt, quán nhàm tởm, 
tâm không tham luyến, không hệ lụy, thức không dong ruổi chạy theo danh 
sắc, do đó danh sắc diệt. Danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt 
thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ 
diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì lão, 
bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não sẽ diệt và như vậy thuần khối khổ lớn đã tụ tập 
cũng sẽ diệt. Giống như trồng cây, nếu không tùy thời bảo vệ để cho cây an 
ổn, không bón phân đất, không tùy thời tưới nước, để cho lạnh nóng bất 
thường, thì cây sẽ không tăng trưởng được. Lại còn chặt gốc, bẻ cành, cắt 
ra từng đoạn, chia ra từng phần, để cho gió thổi nắng táp; hay dùng lửa 
thiêu đốt, cây cháy thành tro; hoặc để cho gió lốc bốc lên; hoặc bị quăng 
xuống nước, thì này các Tỳ-kheo, ý ngươi thế nào, làm như vậy há không 
phải là chặt đứt cây này, cho đến thiêu đốt khiến cho nó bị tiêu diệt, 
thành pháp không sanh khởi trong đời vị lai chăng?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng như vậy.”
“Như vậy, này các Tỳ-kheo, đối với pháp bị chấp thủ 
mà tùy thuận quán vô thường, quán trụ, sanh, diệt, quán vô dục, quán tịch 
diệt, quán nhàm tởm, tâm không tham luyến, không hệ lụy, thức không dong 
ruổi chạy theo danh sắc, do đó danh sắc diệt. Danh sắc diệt thì lục nhập 
diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái 
diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, 
sanh diệt thì lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não sẽ diệt và như vậy thuần 
khối khổ lớn đã tụ tập cũng sẽ diệt.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây 
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: 
“Ta nhớ về kiếp trước, khi chưa thành Chánh giác, 
sống một mình ở chỗ thanh vắng, chuyên cần tinh tấn thiền định, tư duy, 
khởi nghĩ như vầy: ‘Thế gian bị hãm nhập tai họa[6]; 
đó là sanh, già, bệnh, chết, đổi dời, thọ sanh. Nhưng chúng sanh lại không 
biết như thật về bên trên và sở y[7] 
của sanh, già, bệnh, chết.’ 
“Ta nghĩ rằng: ‘Do có pháp gì nên có sanh, do pháp 
gì làm duyên nên có sanh?’ Ta liền tư duy chân chánh và như thật phát khởi 
vô gián đẳng và khởi lên nhận thức[8]: 
‘Do có hữu nên có sanh, duyên hữu nên có sanh.’ 
“Ta lại tư duy: ‘Do có pháp gì nên có hữu, do pháp 
gì làm duyên nên có hữu?’ Ta liền tư duy chân chánh và như thật phát khởi 
vô gián đẳng và khởi lên nhận thức: ‘Do có thủ nên có hữu, duyên thủ nên 
có hữu.’ 
“Ta lại nghĩ rằng: ‘Thủ lại do duyên gì và vì có 
pháp gì nên có thủ, vì duyên pháp gì nên có thủ?’ Ta liền tư duy chân 
chánh và như thật phát khởi vô gián đẳng và khởi lên nhận thức: ‘Đối với 
pháp bị chấp thủ mà tham đắm vị, tham luyến, tâm hệ lụy, ái dục tăng 
trưởng. Vì ái kia có nên có thủ. Do ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên 
sanh, sanh duyên lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não và tụ tập thành thuần một 
khối khổ lớn như vậy.’
“Này các Tỳ-kheo, ý các ông nghĩ sao? Giống như nhờ 
dầu, tim đèn, nên đèn được đốt sáng, vậy khi thường xuyên dầu và tim được 
thêm lên, thì ánh sáng ngọn đèn này có tồn tại lâu không?”
“Bạch Thế Tôn, tồn tại lâu vậy.”
“Này các Tỳ-kheo, đối với sắc bị chấp thủ, mà tham 
đắm vị, tham luyến, tâm hệ lụy, ái dục tăng trưởng. Vì ái kia có nên có 
thủ. Do ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão, bệnh, 
tử, ưu, bi, khổ, não và tụ tập thành thuần một khối khổ lớn như vậy. 
“Lúc ấy Ta lại nghĩ: ‘Do không có pháp gì mà không 
có lão, bệnh, tử này? Vì pháp gì diệt mà lão, bệnh, tử bị diệt?’ Ta liền 
tư duy chân chánh và như thật phát khởi vô gián đẳng và khởi lên nhận 
thức: ‘Vì không có sanh nên không có lão, bệnh, tử; và vì sanh diệt nên 
lão, bêïnh, tử diệt.’ 
“Ta lại suy nghĩ như vầy:‘Vì không có pháp gì mà 
không có sanh? Do pháp gì diệt mà sanh diệt?’ Ta liền tư duy chân chánh và 
như thật phát khởi vô gián đẳng và khởi lên nhận thức: ‘Vì không có hữu 
nên không có sanh; vì hữu diệt nên sanh diệt.’
“Ta lại tư duy: ‘Vì không có pháp gì nên không có 
hữu? Vì pháp gì diệt nên hữu diệt?’ Ta liền tư duy chân chánh và như thật 
phát khởi vô gián đẳng và khởi lên nhận thức: ‘Pháp bị chấp thủ là vô 
thường, là sanh diệt, ly dục, diệt tận, xả ly, tâm không tham luyến, tâm 
không hệ lụy, thì diệt ái. Vì diệt ái nên thủ bị diệt; vì diệt thủ nên hữu 
bị diệt; vì diệt hữu nên sanh bị diệt; vì diệt sanh nên lão, bệnh, tử, ưu, 
bi, khổ, não diệt và luôn khối khổ lớn thuần nhất đã tụ tập như vậy cũng 
diệt.’ 
“Này các Tỳ-kheo, ý các ông nghĩ sao? Thí như dầu, 
tim đèn, nếu không châm thêm dầu và sửa tim, thì phải chăng ánh sáng của 
cây đèn này trong vị lai không còn nữa và nó sẽ bị tắt mất chăng?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
“Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, đối với các pháp bị 
chấp thủ nên quán sát là vô thường, sanh diệt, ly dục, diệt tận, xả, tâm 
không tham luyến, tâm không hệ lụy, thì ái diệt; ái diệt thì thủ diệt, cho 
đến luôn khối khổ lớn thuần nhất đã tụ tập như vậy cũng diệt.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây 
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: 
“Ta nhớ về thuở trước, khi chưa thành Chánh giác, 
sống một mình ở chỗ thanh vắng, chuyên cần tinh tấn thiền định, tư duy. 
Nói đầy đủ như kinh trên, chỉ có một vài sự sai biệt là:
“Ví như vác mười bó củi, hai mươi bó, ba mươi bó, 
bốn mươi bó, năm mươi bó, trăm bó, ngàn bó, trăm ngàn bó, gom chất lại 
thành một đống, đốt lên thành một đống lửa lớn. Nếu có người nào cho thêm 
củi và cỏ khô vào, thì các Tỳ-kheo, các ông nghĩ sao, lửa này có tiếp tục 
cháy mãi được không?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, có như vậy.”
“Như vậy, này các Tỳ-kheo, đối với pháp bị chấp 
thủ, mà tham đắm vị, tham luyến, tâm hệ lụy, thì ái dục tăng trưởng. Ái 
này lấy thủ làm duyên. Thủ duyên hữu và cho đến tụ tập thuần một khối khổ 
lớn.
“Này các Tỳ-kheo, nếu đống lửa đang cháy kia mà 
không thêm củi và cỏ khô vào, thì các Tỳ-kheo nghĩ sao, lửa kia có bị tắt 
không?”
“Bạch Thế Tôn, có như vậy.”
“Như vậy, này các Tỳ-kheo, đối với các pháp bị chấp 
thủ nên quán sát là vô thường, sanh diệt, ly dục, diệt tận, xả, tâm không 
tham luyến, tâm không hệ lụy, thì ái diệt. Ái diệt thì thủ diệt; nói đầy 
đủ như vậy cho đến, khối khổ lớn thuần nhất đã tụ tập kia cũng diệt.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây 
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: 
“Ta nhớ về thuở trước, khi chưa thành Chánh giác, 
một mình ở chỗ vắng, tinh tấn chuyên cần thiền định tư duy, khởi nghĩ như 
vầy: ‘Do có pháp gì nên có già chết; duyên pháp gì nên có già chết?’ Ta 
liền tư duy chân chánh và như thật phát khởi vô gián đẳng và khởi lên nhận 
thức[11]: 
‘Vì có sanh nên có già chết; vì duyên sanh nên có già chết; và đối với 
hữu, thủ, ái, thọ, xúc, lục nhập, danh sắc cũng như vậy.
“Do có pháp gì nên có danh sắc, vì duyên pháp gì 
nên có danh sắc?’Ta liền tư duy chân chánh và như thật phát khởi vô gián 
đẳng và khởi lên nhận thức: ‘Vì có thức nên có danh sắc, vì duyên thức nên 
có danh sắc.’ Khi Ta tư duy như vậy, ngang đến thức thì quay trở lại, 
không thể vượt qua nó được[12]. 
Nghĩa là duyên thức nên có danh sắc. Duyên danh sắc nên có lục nhập. Duyên 
lục nhập nên có xúc. Duyên xúc nên có thọ. Duyên thọ nên có ái. Duyên ái 
nên có thủ. Duyên thủ nên có hữu. Duyên hữu nên có sanh. Duyên sanh nên có 
lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não và tụ tập thuần một khối khổ lớn như vậy.
“Bấy giờ, Ta suy nghĩ: ‘Do không có pháp gì nên 
không có già chết; do pháp gì diệt nên già chết diệt?’ Ta liền tư duy chân 
chánh và như thật phát khởi vô gián đẳng và khởi lên nhận thức: ‘Vì không 
có sanh nên không già chết; vì sanh diệt nên già chết diệt.’ Đối với sanh, 
hữu, thủ, ái, thọ, xúc, lục nhập, danh sắc, thức, hành cũng như vậy. 
Nói đầy đủ như kinh trên.
“Ta lại tư duy: ‘Do không có pháp gì, nên không có 
hành; do pháp gì diệt nên hành diệt?” Ta liền tư duy chân chánh và như 
thật phát khởi vô gián đẳng và khởi lên nhận thức: ‘Vì không có vô minh 
nên không có hành; vì vô minh diệt nên hành diệt. Do hành diệt nên thức 
diệt; thức diệt nên danh sắc diệt; danh sắc diệt nên lục nhập diệt; lục 
nhập diệt nên xúc diệt; xúc diệt nên thọ diệt; thọ nên ái diệt; ái diệt 
nên thủ diệt; thủ diệt nên hữu diệt; hữu diệt nên sanh diệt; sanh diệt nên 
lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não diệt và thuần một khối khổ lớn tụ tập cũng 
bị diệt.’ 
“Bấy giờ, Ta nghĩ rằng: ‘Ta đã gặp được con đường 
của cổ Tiên nhân, lối mòn của cổ Tiên nhân; dấu chân của cổ Tiên nhân. Cổ 
Tiên nhân đã từng đi theo dấu này, nay Ta cũng đi theo[13].’ 
Ví như có người đi giữa đồng hoang, vạch lối tìm đường đi, chợt gặp đường 
cũ chỗ người xưa đã đi, người kia liền theo đó mà đi. Đi lần về trước, 
thấy được thành ấp cũ, cung điện vua xưa, vườn cảnh, ao tắm, rừng cây sạch 
sẽ, người ấy nghĩ rằng: ‘Bây giờ ta nên đến tâu cho vua biết.’ Người ấy 
vội vàng đi đến quốc vương tâu: ‘Đại vương biết cho, tôi đang đi giữa đồng 
hoang, vạch lối tìm đường đi, chợt gặp đường cũ chỗ người xưa đã đi, người 
kia liền theo đó mà đi. Đi lần về trước, thấy được thành ấp cũ, cung điện 
vua xưa, vườn cảnh, ao tắm, suối rừng sạch trong. Đại vương có thể đến đó 
nghỉ ngơi.’ Quốc vương liền đến đó, cư trú nơi đó, rất an lạc, yên ổn và 
nhân dân cũng được phồn thịnh. 
“Nay Ta cũng như vậy, gặp được con đường của cổ 
Tiên nhân, lối mòn của cổ Tiên nhân; dấu chân của cổ Tiên nhân; chỗ Tiên 
nhân xưa đã đi, nay Ta cũng đi theo. Con đường đó là tám Thánh đạo: Chánh 
kiến, chánh chí, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, 
chánh niệm, chánh định. Ta từ nơi đạo này mà thấy được lão, bệnh, tử; sự 
tập khởi của lão, bệnh, tử; sự diệt tận của lão, bệnh, tử; con đường đưa 
đến sự diệt tận của lão, bệnh, tử; thấy được về sanh, hữu, thủ, ái, thọ, 
xúc, lục nhập xứ, danh sắc, thức, hành, thấy sự tập khởi của hành, sự diệt 
tạân của hành, con đường đưa đến sự diệt tận của hành. Ta đối với pháp này 
tự biết, tự giác ngộ, thành tựu Đẳng chánh giác. Rồi khai thị, hiển phát, 
vì an lạc và lợi ích của các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-ba-tắc, Ưu-bà-di và 
các Sa-môn, ngoại đạo, Bà-la-môn, tại gia, xuất gia, cả bốn chúng, được 
nghe, chân chánh hướng theo, khởi lòng tin ưa, biết pháp lành, khiến cho 
phạm hạnh thêm rộng.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà nơi 
thành Vương xá. Khi ấy Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la cùng 
ở trong núi Kỳ-xà-quật. 
Bấy giờ là buổi chiều, sau khi từ thiền tịnh tỉnh 
giấc, Tôn giả Xá-lợi-phất đến chỗ Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, cùng nhau hỏi 
thăm, chúc tụng, rồi ngồi xuống xuống một bên, bạch Tôn giả Ma-ha 
Câu-hi-la:
“Tôi có điều muốn hỏi, Hiền giả có rảnh để giải đáp 
cho không?”
Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la đáp lời Tôn giả 
Xá-lợi-phất:
“Nhân giả cứ hỏi, điều gì biết được tôi sẽ trả 
lời.”
Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la:
“Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, thế nào, có sự già 
không?”
Đáp:
“Bạch Tôn giả Xá-lợi-phất, có.”
Lại hỏi:
“Có sự chết không?”
Đáp:
“Có.”
Lại hỏi:
"Thế nào, già chết là tự tác hay tha tác, là tự và 
tha tác, hay là chẳng phải tự chẳng phải tha mà vô nhân tác chăng?”
Đáp:
“Bạch Tôn giả Xá-lợi-phất, già chết chẳng phải tự 
tác, chẳng phải tha tác, chẳng phải tự và tha tác, cũng chẳng phải chẳng 
tự tha tác mà vô nhân tác. Nhưng do duyên sanh nên có già chết.” 
“Như vậy, sanh, hữu, thủ, ái, thọ, xúc, sáu nhập 
xứ, danh sắc có phải là tự tác, là tha tác, là tự và tha tác, hay là chẳng 
phải tự tha tác mà vô nhân tác chăng?”
Đáp:
“Bạch Tôn giả Xá-lợi-phất, danh sắc chẳng phải tự 
tác, chẳng phải tha tác, chẳng phải tự và tha tác, cũng chẳng phải chẳng 
tự tha tác mà vô nhân tác. Nhưng danh sắc này do duyên thức mà sanh.”
Lại hỏi:
“Thức này có phải là tự tác, là tha tác, là tự và 
tha tác, hay là chẳng phải tự tha tác mà vô nhân tác chăng?”
Đáp:
“Bạch Tôn giả Xá-lợi-phất, thức này chẳng phải tự 
tác, chẳng phải tha tác, chẳng phải tự và tha tác, cũng chẳng phải chẳng 
tự tha tác mà vô nhân tác. Nhưng thức này do duyên danh sắc mà sanh.”
Tôn giả Xá-lợi-phất lại hỏi:
“Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, trước đây Hiền giả nói 
danh sắc chẳng phải tự tác, chẳng phải tha tác, chẳng phải tự và tha tác, 
chẳng phải chẳng tự và tha, vô nhân tác, nhưng danh sắc này duyên thức mà 
sanh ra. Bây giờ, lại nói danh sắc duyên thức, vậy nghĩa này là thế nào?”
Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la đáp:
“Nay tôi sẽ nói thí dụ, nếu là người trí thì nhờ 
thí dụ sẽ hiểu được. Thí như ba cây lau được dựng lên nơi đất trống, nhờ 
nương tựa vào nhau mà có thể đứng vững; nếu lấy ra một cây thì hai cây kia 
cũng không đứng được; nếu lấy đi hai cây thì một cây cũng không đứng vững, 
vì chúng phải nương vào nhau mới có thể đứng được. Thức duyên danh sắc lại 
cũng như vậy, phải nương tựa lẫn nhau mới sanh trưởng được.”
Tôn giả Xá-lợi-phất nói:
“Lành thay! Lành thay! Trong hàng Thanh văn đệ tử 
của Thế Tôn, Tôn giả Câu-hi-la là người trí tuệ sáng suốt, khéo điều phục, 
không sợ hãi, thấy pháp cam lộ, tự thân chứng nghiệm đầy đủ với pháp cam 
lộ. Nghĩa là Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la có nghĩa biện tài[15] 
sâu xa như vậy, thì có thể giải đáp tất cả các nạn vấn. Như ngọc quý vô 
giá, mà thế gian đội trên đầu; nay tôi cũng xin đội Tôn giả Ma-ha 
Câu-hi-la trên đầu. 
“Bạch Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, hôm nay tôi rất vui 
mừng vì đã được nhiều lợi ích từ nơi Tôn giả. Còn những người phạm hạnh 
khác nhiều lần gặp được Tôn giả thì chắc chắn cũng được thiện lợi, vì Tôn 
giả khéo thuyết pháp. Nay tôi sẽ đem những điều được nghe từ Tôn giả Ma-ha 
Câu-hi-la thuyết pháp, dùng ba mươi cách tán thán mà khen ngợi, tùy hỷ.
“Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, nói già, chết là đáng ghê 
tởm, ly dục, diệt tận, đó gọi là Pháp sư. Hay nói rằng: Sanh, hữu, thủ, 
ái, thọ, xúc, lục nhập, danh sắc, thức là đáng chán chê, ly dục, diệt tận, 
thì đó cũng gọi là Pháp sư. Nếu Tỳ-kheo nào, đối với già, chết mà nhàm 
tởm, lo sợ, hướng đến ly dục, diệt tận, thì đó gọi là Pháp sư. Cho đến, 
đối với thức mà nhàm tởm, lo sợ, hướng đến ly dục, diệt tận, thì đó cũng 
gọi là Pháp sư. Nếu Tỳ-kheo nào, đối với già chết mà nhàm tởm, lo sợ, ly 
dục, diệt tận, không khởi các lậu, tâm khéo giải thoát, thì đó gọi là Pháp 
sư. Cho đến, đối với thức mà nhàm tởm, lo sợ, ly dục, diệt tận, không khởi 
các lậu, tâm khéo giải thoát, thì đó gọi là Pháp sư.”
Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la nói với Tôn giả 
Xá-lợi-phất:
“Lành thay! Lành thay! Trong hàng Thanh văn đệ tử 
của Thế Tôn, người có trí tuệ sáng suốt, khéo điều phục, không sợ hãi, 
thấy pháp cam lộ, tự thân chứng nghiệm đầy đủ với pháp cam lộ. Vì Tôn giả 
Xá-lợi-phất là người có khả năng hỏi những điều sâu xa của chánh trí. 
Giống như hạt châu vô giá được người thế gian đội trên đầu. Ngày nay Tôn 
giả cũng vậy, được tất cả phạm hạnh cung kính, phụng sự một cách trân 
trọng. Hôm nay tôi rất vui mừng, vì được nhiều lợi ích nhờ cuộc đàm luận 
với Tôn giả về diệu nghĩa.”
Hai vị Chánh sĩ tùy hỷ lẫn nhau, mỗi người trở về 
chỗ ở của mình.
*
 
 
Tôi nghe như vầy: 
Môt thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà nơi 
thành Vương xá. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Phàm phu ngu si vô học[17], 
đối với thân bốn đại mà ghê tởm, lìa dục, quay lưng xả bỏ. Nhưng không 
phải là đối với thức. Vì sao? Vì họ thấy thân bốn đại có thêm, bớt, có 
lấy, bỏ. Nhưng đối với tâm, ý, thức, thì kẻ phàm phu ngu si vô học không 
thể sanh nhàm tởm, lìa dục, giải thoát. Vì sao? Vì họ từ lâu đời ở nơi đây[18] 
mà ấp ủ, nâng niu, hệ lụy ngã, hoặc sở đắc, hoặc chấp thủ, nói rằng ‘Đây 
là ta, đây là của ta, hay ở trong nhau[19].’ 
Cho nên kẻ phàm phu ngu si vô học không thể ở nơi đây này mà sanh nhàm 
tởm, lìa dục, quay lưng xả bỏ được. Kẻ phàm phu ngu si thà ở nơi thân do 
bốn đại mà chấp là ngã, là ngã sở, chứ không thể ở nơi thức mà chấp là 
ngã, là ngã sở. Vì sao? Vì thân do bốn đại, hoặc thấy chỉ tồn tại trong 
khoảng mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, cho đến trăm năm rồi thì tiêu 
vong, hoặc kéo dài hơn một chút. Còn tâm, ý, thức này thì sự sanh diệt, 
biến chuyển, đổi khác, ở trong từng ngày, từng đêm, từng giờ, từng khắc, 
trong từng thoáng chốc. Cũng như con vượn rong chơi trong rừng cây kia, 
thoáng chốc ở nơi này, chợt thoắt đi nơi khác, chuyền từ cành này qua 
nhánh nọ, buông cây này nắm cây kia. Tâm, ý, thức cũng lại như vậy, thoáng 
sanh, thoáng diệt. 
“Đa văn Thánh đệ tử đối với các duyên khởi khéo tư 
duy quán sát như vầy: Lạc xúc làm duyên sanh ra lạc thọ. Khi cảm giác lạc 
thọ, biết như thật là đang có cảm giác lạc thọ. Khi lạc xúc kia diệt, thọ 
do lạc xúc làm nhân duyên sanh ra cũng diệt mất, mát mẻ, tịch tĩnh. Như 
lạc thọ; các thọ sanh bởi nhân duyên là khổ xúc, hỷ xúc, ưu xúc, xả xúc 
cũng vậy. Khi cảm giác xả thọ, biết như thật là đang có cảm giác xả thọ. 
Khi xả xúc kia diệt; xả thọ do xả xúc làm nhân duyên sanh ra cũng diệt 
mất, mát mẻ, tịch tĩnh. Người ấy tư duy rằng: ‘Thọ này sanh bởi xúc, lạc 
do xúc, hệ lụy xúc. Do có lạc bởi xúc thế này thế kia mà có lạc bởi thọ 
thế này thế kia. Khi lạc do xúc chạm thế này thế kia ấy diệt thì lạc do 
cảm thọ thế này thế kia ấy cũng diệt, mát mẻ, tịch tĩnh. Như vậy, đa văn 
Thánh đệ tử đối với sắc sanh ra nhàm tởm; đối với thọ, tưởng, hành, thức 
cũng sanh ra nhàm tởm. Vì nhàm tởm nên không ưa thích. Vì không ưa thích 
nên giải thoát, giải thoát tri kiến: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã 
lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau 
nữa.’” 
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Môt thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà nơi 
thành Vương xá. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Phàm phu ngu si vô học, đối với thân bốn đại mà 
ghê tởm, lìa dục, quay lưng xả bỏ. Nhưng không phải là đối với thức. Vì 
sao? Vì họ thấy thân bốn đại có thêm, bớt, có lấy, bỏ. Nhưng đối với tâm, 
ý, thức, thì kẻ phàm phu ngu si vô học không thể sanh nhàm tởm, lìa dục, 
giải thoát. Vì họ từ lâu đời ở nơi đây mà ấp ủ, nâng niu, hệ lụy ngã, hoặc 
sở đắc, hoặc chấp thủ, nói rằng ‘Đây là ta, đây là của ta, hay ở trong 
nhau.’ Cho nên kẻ phàm phu ngu si vô học không thể ở nơi đây mà sanh nhàm 
tởm, lìa dục, quay lưng xả bỏ được. 
“Kẻ phàm phu ngu si thà ở nơi thân do bốn đại mà 
chấp là ngã, là ngã sở, chứ không thể ở nơi thức mà chấp là ngã, là ngã 
sở. Vì sao? Vì thân do bốn đại, hoặc thấy chỉ tồn tại trong khoảng mười 
năm, hai mươi năm, ba mươi năm, cho đến trăm năm rồi thì tiêu vong, hoặc 
kéo dài hơn một chút. Còn tâm, ý, thức này thì sự sanh diệt, biến chuyển, 
đổi khác, ở trong từng ngày, từng đêm, từng giờ, từng khắc, trong từng 
thoáng chốc. Cũng như con vượn rong chơi trong rừng cây kia, thoáng chốc ở 
nơi này, chợt thoắt đi nơi khác, chuyền từ cành này qua nhánh nọ, buông 
cây này nắm cây kia. Tâm, ý, thức cũng lại như vậy, thoáng sanh, thoáng 
diệt. 
“Đa văn Thánh đệ tử đối với các duyên khởi khéo tư 
duy quán sát như vầy: Lạc xúc làm duyên sanh ra lạc thọ. Khi cảm giác lạc 
thọ, biết như thật là đang có cảm giác lạc thọ. Khi lạc xúc kia diệt, thọ 
do lạc xúc làm nhân duyên sanh ra cũng diệt mất, mát mẻ, tịch tĩnh. Như 
lạc thọ; các thọ sanh bởi nhân duyên là khổ xúc, hỷ xúc, ưu xúc, xả xúc 
cũng vậy. Khi cảm giác xả thọ thì biết như thật là đang có cảm giác xả 
thọ. Khi xả xúc kia diệt; xả thọ do xả xúc làm nhân duyên sanh ra cũng 
diệt mất, mát mẻ, tịch tĩnh.
“Ví như hai thanh gỗ cọ xát vào nhau, hòa hợp sanh 
ra lửa. Nếu hai thanh gỗ rời nhau, thì lửa cũng theo đó mà diệt mất. Cũng 
vậy, các thọ duyên xúc mà tập khởi, do xúc mà sanh, do xúc mà tập khởi; 
nếu khi sự xúc chạm thế này thế kia mà tập khởi, thì những cảm thọ thế này 
thế kia cũng tập khởi. Khi sự tập khởi của sự xúc chạm thế này thế kia 
diệt, thì sự tập khởi của cảm thọ thế này thế kia cũng diệt mất, mát mẻ, 
tịch tĩnh. 
“Đa văn Thánh đệ tử quán sát như vậy, đối với sắc 
được giải thoát; và đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng được giải thoát; 
đối với sanh già bệnh chết ưu bi não khổ cũng được giải thoát. Ta nói 
người này đối với khổ đã được giải thoát.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, nơi 
thành Vương xá. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ta đã nói về nội xúc pháp[22], 
các ông có bắt nắm[23] 
không?”
Bấy giờ, có một Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa 
lại y phục, cúi đầu lễ dưới chân Phật, chắp tay bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, pháp nội xúc được nói, con đã bắt 
nắm rồi.”
Lúc Tỳ-kheo này ở trước Phật tự mình xác nhận như 
vậy, nhưng dù là như vậy Thế Tôn vẫn tỏ vẻ không hài lòng. Bấy giờ, Tôn 
giả A-nan đang đứng phía sau cầm quạt hầu Phật. Phật bảo A-nan:
“Nội xúc pháp theo như pháp luật của bậc Thánh, 
khác với những điều Tỳ-kheo này nói.”
A-nan, bạch Phật:
“Nay thật đúng lúc, cúi xin Thế Tôn vì các Tỳ-kheo 
mà nói về nội xúc pháp trong pháp luật của Hiền thánh. Các Tỳ-kheo nghe 
xong sẽ lãnh thọ, thực hành.”
Phật bảo A-nan:
“Này, A-nan, lành thay! Các Tỳ-kheo hãy lắng nghe, 
suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ông mà nói. 
“Này các Tỳ-kheo, khi nắm bắt nội xúc pháp, nên tư 
duy như vầy: ‘Có nhiều loại khổ khác nhau của chúng sanh; khổ này do cái 
gì là nhân, cái gì là tập, cái gì sanh, cái gì xúc[24]? 
Lúc nắm bắt như vậy, nên biết cái khổ này do nhân là ức-ba-đề[25], 
tập là ức-ba-đề, sanh bởi ức-ba-đề, chuyển hiện[26] 
ức-ba-đề.’ 
“Lại nữa, này các Tỳ-kheo, với nội xúc pháp, lại 
nữa, ức-ba-đề do cái gì là nhân, cái gì là tập, cái gì sanh, cái gì chuyển 
hiện[27]? 
Vị ấy, trong khi nắm bắt, biết rằng, ức-ba-đề do ái là nhân, ái là tập, do 
ái mà sanh, do ái mà chuyển hiện. Lại nữa này các Tỳ-kheo, khi nắm bắt nội 
xúc pháp, nên biết ái do cái gì là nhân, cái gì là tập, cái gì sanh, cái 
gì chuyển hiện? Khi nắm như vậy, thì nên biết rằng sắc được thế gian quan 
niệm là đẹp đẽ[28]; 
ở nơi sắc này, ái sanh khi sanh nơi đó, ái hệ lụy khi hệ lụy nơi đó, ái cư 
trú khi cư trú nơi đó[29].
“Nếu các Sa-môn, Bà-la-môn nào, đối với sắc được 
thế gian quan niệm là đẹp đẽ, mà khởi tưởng là thường, tưởng là hằng, 
tưởng an ổn, tưởng không bệnh; tưởng là ngã, là ngã sở, thì ở nơi sắc này 
ái càng tăng trưởng. Khi ái đã tăng trưởng thì ức-ba-đề tăng trưởng; 
ức-ba-đề tăng trưởng thì khổ tăng trưởng. Nếu khổ tăng trưởng thì chắc 
chắn sẽ không giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não. Ta 
nói người này đối với khổ không giải thoát. 
“Ví như ao nước trong mát ở bên đường, đầy đủ hương 
vị, có người lén lấy chất độc bỏ vào ao. Tháng nắng mùa xuân, người đi 
đường bị gió nóng làm bức khát, tranh nhau muốn đến uống nước. Có người 
nói rằng: ‘Này các anh, đây là ao nước trong mát, đầy đủ hương vị sắc màu, 
nhưng trong ấy có chất độc, các anh chớ uống; nếu uống vào các anh sẽ 
chết, hoặc sẽ bị khổ như sắp chết.’ Những người khát nước này không tin 
lời, cứ uống; tuy được vị ngon, nhưng trong chốc lát lại bị chết, hoặc bị 
khổ đến gần chết. Cũng vậy, các Sa-môn, Bà-la-môn nào, đối với sắc được 
thế gian quan niệm là đẹp đẽ, mà khởi tưởng là thường, tưởng là hằng, 
tưởng an ổn, tưởng không bệnh; tưởng là ngã, là ngã sở, (chi tiết như 
trên, cho đến) sẽ không giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, 
khổ, não. 
“Nếu các Sa-môn, Bà-la-môn nào đối với sắc đẹp đẽ 
được thế gian quan niệm là đẹp đẽ, mà quán sát như bệnh, như ung nhọt, như 
gai nhọn, như giết hại, là vô thường, khổ, không, vô ngã, thì đối với ái 
này chắc chắn được dứt lìa. Vì ái lìa nên ức-ba-đề lìa, ức-ba-đề lìa nên 
khổ lìa, khổ đã lìa nên sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não lìa. 
“Ví như bên đường có ao nước trong mát, đầy đủ 
hương vị, có kẻ lén dùng chất độc bỏ vào trong nước. Tháng nắng mùa xuân, 
người đi đường bị gió nóng làm bức khát, tranh nhau muốn đến uống nước. Có 
người nói rằng: ‘Này các anh, đây là ao nước trong mát, đầy đủ hương vị 
sắc màu, nhưng trong ấy có chất độc, các anh chớ uống; nếu uống vào các 
anh sẽ chết, hoặc sẽ bị khổ như sắp chết.’ Những người kia nghĩ thầm: 
‘Nước này có chất độc, nếu ta uống vào thì sẽ chết, hoặc bị khổ đến gần 
chết. Thôi ta cố chịu khát, ăn đỡ cơm khô, không dám uống nước.’
“Cũng như vậy, Sa-môn, Bà-la-môn nào đối với sắc 
được thế gian quan niệm là đẹp đẽ, mà quán sát như bệnh, như ung nhọt, như 
gai nhọn, như giết hại, là vô thường, khổ, không, vô ngã, cho đến… sẽ giải 
thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não. 
“Vì vậy, này A-nan, đối với pháp này thấy như vậy, 
nghe như vậy, cảm nhận như vậy, nhận thức như vậy; đối với quá khứ, hiện 
tại, vị lai, cũng theo như đạo lý này nên quán sát như vậy.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, 
thành Vương xá. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Tư lương quán sát như thế để chân chánh diệt tận 
khổ, đạt đến nơi tột cùng của mé khổ? Khi tư lương về tất cả những cái khổ 
khác nhau của chúng sanh; các khổ này do cái gì là nhân, cái gì là tập, 
cái gì sanh, cái gì xúc[31]? 
Khi suy nghĩ thì biết rằng, do thủ làm nhân, thủ tập, thủ sanh, thủ xúc. 
Nếu thủ này diệt, không còn sót, thì chắc chắn các khổ này cũng sẽ diệt. 
Vị ấy biết như thật con đường đưa đến diệt tận khổ mà mình đang đi, tu 
hành hướng đến tùy thuận pháp[32]; 
đó gọi là Tỳ-kheo chân chánh diệt khổ, cứu cánh biên tế khổ, nghĩa là thủ 
đã diệt. 
“Lại nữa, Tỳ-kheo tư lương quán sát, để chân chánh 
diệt khổ và đạt đến nơi tột cùng của mé khổ; khi ấy, tư duy thủ kia do cái 
gì là nhân, cái gì là tập, cái gì sanh, cái gì xúc? Tư duy, thủ này do ái 
làm nhân, ái tập, ái sanh, ái xúc. Khi ái này vĩnh viễn diệt, không còn, 
thì thủ cũng theo đó mà diệt. Vị ấy biết như thật con đường đưa đến diệt 
tận khổ mà mình đang đi, tu hành hướng đến tùy thuận pháp; đó gọi là 
Tỳ-kheo chân chánh diệt khổ, cứu cánh biên tế khổ, nghĩa là ái đã diệt.
“Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy quán sát, để chân chánh 
diệt khổ và đạt đến nơi tột cùng của mé khổ; khi ấy, tư duy ái này do cái 
gì là nhân, cái gì là tập, cái gì sanh, cái gì xúc? Tư lương ái là do thọ 
làm nhân, thọ tập, thọ sanh, thọ xúc. Khi thọ này vĩnh viễn diệt, không 
còn, thì ái cũng bị diệt. Vị ấy biết như thật con đường đưa đến diệt tận 
khổ mà mình đang đi, tu hành hướng đến tùy thuận pháp; đó gọi là Tỳ-kheo 
chân chánh diệt khổ, cứu cánh biên tế khổ, nghĩa là thọ diệt.
“Lại nữa, này các Tỳ-kheo, khi tư lương quán sát, 
để chân chánh diệt khổ và đến nơi tột cùng của mé khổ; tư duy thọ này do 
cái gì là nhân, cái gì là tập, cái gì sanh, cái gì xúc? Nên biết thọ này 
do xúc làm nhân, xúc tập, xúc sanh, xúc duyên. Khi xúc này vĩnh viễn diệt 
mất, không còn sót, thì thọ cũng bị diệt. Vị ấy biết như thật con đường 
đưa đến diệt tận khổ mà mình đang đi, tu hành hướng đến tùy thuận pháp; đó 
gọi là Tỳ-kheo chân chánh diệt khổ, cứu cánh biên tế khổ. 
“Lại nữa, này các Tỳ-kheo, khi tư lương quán sát, 
để chân chánh diệt khổ và đến nơi tột cùng của mé khổ; tư duy xúc này do 
cái gì là nhân, cái gì là tập, cái gì sanh, cái gì xúc? Nên biết xúc này 
do sáu nhập xứ làm nhân, sáu nhập xứ tập, sáu nhập xứ sanh, sáu nhập xứ 
xúc. Khi sáu nhập xứ này diệt, không còn sót, thì xúc cũng bị diệt. Vị ấy 
biết như thật con đường đưa đến diệt tận khổ mà mình đang đi, tu hành 
hướng đến tùy thuận pháp; đó gọi là Tỳ-kheo chân chánh diệt khổ, cứu cánh 
biên tế khổ. 
“Lại nữa, này các Tỳ-kheo, khi tư lương quán sát, 
để chân chánh diệt khổ và đến nơi tột cùng của mé khổ; tư duy sáu nhập xứ 
này do cái gì là nhân, cái gì là tập, cái gì sanh, cái gì xúc? Nên biết 
sáu nhập xứ này là do danh sắc làm nhân, danh sắc tập, danh sắc sanh, danh 
sắc xúc; nên khi danh sắc này diệt hết, không còn sót, thì sáu nhập xứ 
cũng bị diệt. Vị ấy biết như thật con đường đưa đến diệt tận khổ mà mình 
đang đi, tu hành hướng đến tùy thuận pháp; đó gọi là Tỳ-kheo chân chánh 
diệt khổ, cứu cánh biên tế khổ, nghĩa là danh sắc diệt.
“Lại nữa, này các Tỳ-kheo, khi tư lương quán sát, 
để chân chánh diệt khổ và đến nơi tột cùng của mé khổ; tư duy danh sắc này 
do cái gì là nhân, cái gì là tập, cái gì sanh, cái gì xúc? Nên biết danh 
sắc là do thức làm nhân, thức tập, thức sanh, thức xúc; khi thức này diệt 
không còn, thì danh sắc cũng bị diệt. Vị ấy biết như thật con đường đưa 
đến diệt tận khổ mà mình đang đi, tu hành hướng đến tùy thuận pháp; đó gọi 
là Tỳ-kheo chân chánh diệt khổ, cứu cánh biên tế khổ, nghĩa là thức diệt.
“Lại nữa, này các Tỳ-kheo, khi tư lương quán sát, 
để chân chánh diệt khổ và đến nơi tột cùng của mé khổ; tư duy thức này do 
cái gì là nhân, cái gì là tập, cái gì sanh, cái gì xúc? Nên biết thức này 
là do hành làm nhân, hành tập, hành sanh, hành xúc. Khi làm các phước hành[33], 
thì thiện thức sanh; làm những hành không phước, không thiện thì thức bất 
thiện sanh; làm hành vô sở hữu[34], 
thì thức vô sở hữu sanh. Vì cái thức này do hành làm nhân, hành tập, hành 
sanh, hành xúc; nên khi hành kia diệt, không còn thì thức cũng bị diệt. Vị 
ấy biết như thật con đường đưa đến diệt tận khổ mà mình đang đi, tu hành 
hướng đến tùy thuận pháp; đó gọi là Tỳ-kheo chân chánh diệt khổ, cứu cánh 
biên tế khổ, nghĩa là hành diệt.
“Lại nữa, này các Tỳ-kheo, khi tư lương quán sát, 
để chân chánh diệt khổ và đến nơi tột cùng của mé khổ; tư duy hành này do 
cái gì là nhân, cái gì là tập, cái gì sanh, cái gì xúc? Nên biết hành này 
do vô minh làm nhân, vô minh tập, vô minh sanh, vô minh xúc. Phước hành 
này do vô minh làm duyên, phi phước hành cũng do vô minh làm duyên, phi 
phước phi phi phước hành cũng do vô minh làm duyên. Nên biết hành này do 
vô minh là nhân, vô minh tập, vô minh sanh, vô minh xúc. Khi vô minh này 
hoàn toàn bị diệt không còn, thì hành này cũng bị diệt. Vị ấy biết như 
thật con đường đưa đến diệt tận khổ mà mình đang đi, tu hành hướng đến tùy 
thuận pháp; đó gọi là Tỳ-kheo chân chánh diệt khổ, cứu cánh biên tế khổ, 
nghĩa là vô minh diệt.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Ý các ông nghĩ sao? Nếu không ái nhiễm vô minh mà 
sanh minh[35] 
thì người ấy còn duyên vô minh này làm các phước hành, phi phước hạnh, 
hoặc làm vô sở hữu hành chăng[36]?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật: 
“Bạch Thế Tôn, không vậy. Vì sao? Vì đa văn Thánh 
đệ tử không ái nhiễm vô minh thì sanh minh; vô minh diệt thì hành diệt, 
hành diệt thì thức diệt, như vậy cho đến sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, 
khổ, não diệt và thuần một khối khổ lớn như vậy cũng diệt.”
Phật nói: 
“Lành thay! Lành thay! Này các Tỳ-kheo, Ta cũng nói 
như vậy, các Tỳ-kheo cũng biết như vậy. Ở nơi pháp này pháp kia mà khởi 
lên pháp này pháp kia; sanh pháp này pháp kia, diệt pháp này pháp kia, 
diệt, tĩnh chỉ, thanh lương, tịch tĩnh. Đa văn Thánh đệ tử nếu ly nhiễm 
đối với vô minh mà sanh minh, khi cảm giác về cảm thọ trong giới hạn thân 
phần chừng nào[37], 
thì biết như thật cảm giác về cảm thọ trong giới hạn thân phần chừng ấy; 
khi cảm giác về cảm thọ trong giới hạn thọ mạng chừng nào, thì biết như 
thật cảm giác về cảm thọ trong giới hạn thọ mạng chừng ấy; khi thân hoại, 
mạng sống chấm dứt, thì ở đây tất cả cảm thọ được cảm nghiệm này đều diệt 
hết, không còn sót. 
“Ví như người lực sĩ lấy món đồ gốm vừa mới nung, 
còn nóng, đặt trên đất, chỉ trong chốc lát vật này bị tan hoại, sức nóng 
cũng tan mất. Cũng vậy, Tỳ-kheo ly nhiễm đối với vô minh mà sanh minh, khi 
cảm giác về cảm thọ trong giới hạn thân phần chừng nào, thì biết như thật 
cảm giác về cảm thọ trong giới hạn thân phần chừng ấy; khi cảm giác về cảm 
thọ trong giới hạn thọ mạng chừng nào, thì biết như thật cảm giác về cảm 
thọ trong giới hạn thọ mạng chừng ấy; khi thân hoại, mạng sống chấm dứt, 
thì ở đây tất cả cảm thọ được cảm nghiệm này đều diệt hết, không còn sót.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà nơi 
thành Vương xá. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ta đã vượt nghi, dứt trừ do dự, nhổ sạch gai tà 
kiến, không còn thoái chuyển, tâm không chấp trước nữa, thì nơi nào có 
ngã? Ta vì các Tỳ-kheo thuyết pháp, Ta vì các Tỳ-kheo nói pháp tùy thuận 
duyên khởi xuất thế của bậc Hiền thánh tương ưng với Không. Nghĩa là cái 
này có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia khởi; tức là duyên vô minh 
nên có hành, duyên hành nên có thức, duyên thức nên có danh sắc, duyên 
danh sắc nên có lục nhập xứ, duyên lục nhập xứ nên có xúc, duyên xúc nên 
có thọ, duyên thọ nên có ái, duyên ái nên có thủ, duyên thủ nên có hữu, 
duyên hữu nên có sanh, duyên sanh nên có lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não 
và tụ tập thuần một khối khổ lớn như vậy, (chi tiết ….) cho đến, 
thuần khối khổ lớn tụ tập như vậy bị diệt.
“Thuyết pháp như vậy, nhưng Tỳ-kheo kia vẫn còn 
nghi hoặc, còn do dự. Trước chẳng đắc mà tưởng đắc, chẳng đạt mà tưởng 
đạt, chẳng chứng mà tưởng chứng. Nay nghe pháp xong tâm sanh lo khổ, hối 
hận, mê mờ, chướng ngại. Vì sao? Vì đây là chỗ sâu xa, tức là pháp duyên 
khởi. Lại càng sâu xa, khó thấy gấp bội, đó là lìa tất cả thủ, ái tận, vô 
dục, tịch tĩnh, Niết-bàn. Như hai pháp này, là pháp hữu vi và vô vi. Hữu 
vi, hoặc sanh. hoặc trụ, hoặc dị, hoặc diệt. Vô vi, là chẳng sanh, chẳng 
trụ, chẳng dị, chẳng diệt. Này các Tỳ-kheo, đó gọi là các hành là khổ; 
Niết-bàn là tịch diệt. Nhân tập nên khổ tập; nhân diệt nên khổ diệt; cắt 
đứt các nẻo, diệt hẳn tương tục. Tương tục diệt[38], 
đây gọi là khổ biên. Này các Tỳ-kheo, cái gì diệt? Đó là khổ hữu dư. Cái 
ấy nếu diệt, tĩnh chỉ, thanh lương, tịch tĩnh, nghĩa là đã diệt hết tất cả 
thủ, ái tận, vô dục, tịch tịnh, Niết-bàn.” 
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà nơi 
thành Vương xá. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Kẻ phàm phu ngu si không học bị vô minh che lấp, 
ái duyên ràng buộc, nên có được thức thân[40] 
này. Bên trong thân có thức này, ngoài thân có danh sắc. Hai nhân duyên 
này sanh ra xúc. Bị xúc chạm sáu xúc nhập[41] 
này, phàm phu ngu si không học cảm nghiệm các cảm thọ khổ lạc, nhân đây 
khởi lên các thứ sai biệt. Những gì là sáu? Nhãn xúc nhập xứ; nhĩ, tỷ, 
thiệt, thân, ý xúc nhập xứ. 
“Người có trí thông bác, bị vô minh che mờ, ái 
duyên ràng buộc nên có được thức thân này. Như vậy, bên trong có thức 
thân, ngoài có danh sắc. Hai duyên này sanh ra sáu xúc nhập xứ. Bị xúc 
chạm bởi sáu xúc, người trí cảm nghiệm các cảm thọ khổ và lạc, nhân đây 
khởi lên những thứ sai biệt. Những gì là sáu? Nhãn xúc nhập xứ; nhĩ, tỷ, 
thiệt, thân, ý xúc nhập xứ. 
“Người ngu tối và người trí tuệ, hai hạng người này 
ở nơi Ta tu các phạm hạnh, có cái gì sai khác không?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Thế Tôn là căn bản của pháp, là con mắt pháp, là 
sở y của pháp. Lành thay, bạch Thế Tôn, cúi xin diễn nói, các Tỳ-kheo nghe 
xong, sẽ lãnh thọ và thực hành.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ông mà 
nói. 
“Này các Tỳ-kheo, đối với kẻ phàm phu ngu si không 
học vì bị vô minh che khuất, ái duyên ràng buộc, nên có được thức thân 
này. Vô minh chẳng dứt, ái duyên chẳng hết, nên sau khi chết rồi lại tái 
sanh. Vì trở lại thọ thân nên không được giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, 
chết, ưu, bi, khổ, não. Vì sao? Vì kẻ phàm phu ngu si vốn chẳng tu phạm 
hạnh, chân chánh hướng đến dứt sạch khổ, tận cùng của mé khổ, nên người 
này sau khi chết trở lại tái sanh. Bởi thọ thân trở lại nên không giải 
thoát khỏi sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não. 
“Người trí tuệ vì bị vô minh che khuất, ái duyên 
ràng buộc, nên có được thức thân này. Kia vô minh dứt trừ, ái duyên hết 
sạch. Do vô minh dứt trừ, ái duyên hết sạch, nên sau khi chết không còn 
tái sanh nữa. Vì chẳng thọ sanh trở lại nên giải thoát khỏi sanh, lão, 
bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não. Vì sao? Vì người này trước đây đã tu phạm 
hạnh, chân chánh hướng đến dứt sạch khổ, tận cùng của mé khổ, nên người 
này sau khi chết không tái sanh trở lại. Bởi không thọ thân nên giải thoát 
khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não. Đó là chỗ sai khác giữa phàm 
phu và người trí tuệ khi ở nơi Ta tu các phạm hạnh.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, nơi 
thành Vương xá Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Thân này chẳng phải sở hữu của các ông, chẳng phải 
là sở hữu của người khác. Nghĩa là sáu xúc nhập xứ, vốn do ước nguyện mà 
tu hành trước kia[43] 
nên thọ được thân này. Những gì là sáu? Nhãn xúc nhập xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, 
thân, ý xúc nhập xứ. Đa văn Thánh đệ tử đối với các duyên khởi mà khéo tư 
duy, quán sát chân chánh là có sáu thức thân, sáu xúc thân, sáu thọ thân, 
sáu tưởng thân, sáu tư thân này. Nghĩa là vì cái này có nên sẽ có sanh, 
già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não trong tương lai và tụ tập thuần một khối 
khổ lớn như vậy. Đó gọi là có nhân có duyên để tập khởi thế gian. Trái 
lại, nếu cái này không, thì sáu thức thân không; sáu xúc thân, sáu thọ 
thân, sáu tưởng thân, sáu tư thân cũng không. Nghĩa là vì cái này không, 
nên không có sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não trong tương lai, 
thuần một khối khổ lớn tụ tập cũng diệt. 
“Đa văn Thánh đệ tử, nếu đối với sự tập khởi của 
thế gian, sự diệt tận của thế gian, mà chánh trí như thật, khéo léo thấy, 
khéo tỉnh giác, khéo thể nhập, thì đó gọi là Thánh đệ tử chiêu cảm được 
pháp lành này, đạt được pháp lành này, biết pháp lành này, nhập pháp lành 
này; giác ngộ biết, giác ngộ thấy được sự sanh diệt của thế gian; thành 
tựu được sự xuất ly của Hiền thánh, dứt sạch khổ và đến nơi tận cùng của 
mé khổ một cách chân chánh. Vì sao? Vì đa văn Thánh đệ tử đã biết như thật 
về sự tập khởi của thế gian, về sự diệt tận của thế gian, nên khéo thấy, 
khéo tỉnh giác, khéo thể nhập.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà nơi 
thành Vương xá. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: 
“Nay Ta sẽ nói pháp nhân duyên và pháp duyên sanh.
“Thế nào là pháp nhân duyên[45]? 
Là cái này có nên cái kia có, như duyên vô minh nên có hành, duyên hành 
nên có thức, cho đến, tụ tập thuần một khối khổ lớn như vậy. 
“Thế nào là pháp duyên sanh[46]? 
Là vô minh, hành,... dù Phật có xuất hiện hay chưa xuất hiện ở thế gian 
thì pháp này vẫn thường trụ, pháp trụ, pháp giới[47]. 
Pháp này Như Lai đã tự giác tri, thành Đẳng chánh giác, vì người diễn nói, 
chỉ dạy, hiển bày rằng: Duyên vô minh có hành, cho đến, duyên sanh nên có 
già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não. 
“Dù Phật có xuất hiện hay chưa xuất hiện ở thế gian 
thì pháp này vẫn thường trụ, pháp trụ, pháp giới. Pháp này Như Lai đã tự 
giác tri, thành Đẳng chánh giác, vì người diễn nói, chỉ dạy, hiển bày 
rằng: duyên sanh nên có già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não. 
“Các pháp này, pháp trụ, pháp không[48], 
pháp như, pháp nhĩ, pháp chẳng lìa như, pháp chẳng khác như, chân đế, chân 
thật, không điên đảo. Tùy thuận duyên khởi như vậy, đó gọi là pháp duyên 
sanh[49]. 
Tức là: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, 
sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não. Đó gọi là pháp duyên sanh. 
“Đa văn Thánh đệ tử đối với pháp nhân duyên và pháp 
duyên sanh này bằng chánh tri mà thấy rõ như thật, không truy tìm về đời 
trước[50] 
mà nói rằng: ‘Tôi trong đời quá khứ hoặc có, hay không có? Tôi trong quá 
khứ là loài gì, tôi trong quá khứ như thế nào[51]?’ 
Không truy tìm tương lai mà nói rằng: ‘Tôi ở đời vị lai hoặc có, hay không 
có? Tôi là loài gì, tôi sẽ như thế nào?’ Bên trong chẳng do dự[52]: 
‘Đây là những thứ gì? Tại sao có cái này? Trước đây chúng là cái gì? Sau 
này chúng sẽ là cái gì? Chúng sanh này từ đâu đến? Ở đây mất rồi sẽ đi về 
đâu[53]?’
“Nếu các Sa-môn, Bà-la-môn nào khởi các kết sử kiến[54] 
phàm tục, tức là, kết sử của ngã kiến, kết sử của chúng sanh, kết sử của 
thọ mệnh, hoặc kết sử của kiến chấp cữ kiêng tốt xấu[55]. 
Khi tất cả những điều đó được đoạn tận, được biến tri, cắt đứt gốc rễ, như 
chặt ngọn cây đa-la, ở đời vị lai thành pháp bất sanh. Đó gọi là đa văn 
Thánh đệ tử đối với pháp nhân duyên và pháp duyên sanh bằng chánh trí mà 
như thật khéo thấy, khéo tỉnh giác, khéo tu tập, khéo thể nhập.” 
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại xóm Điều ngưu[56], 
Câu-lưu-sưu. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ta sẽ vì các ông nói pháp, khoảng đầu, khoảng giữa 
và khoảng sau cùng đều thiện; thiện nghĩa, thiện vị, thuần nhất thanh 
tịnh, phạm hạnh trong sạch; đó gọi là kinh Đại không pháp. Các Tỳ-kheo hãy 
lắng nghe, khéo tư duy. Ta sẽ vì các ông mà nói.
“Thế nào là kinh Đại không pháp? Cái này có nên cái 
kia có, cái này khởi nên cái kia khởi; tức là duyên vô minh nên có hành, 
duyên hành nên có thức,… cho đến tụ tập thuần một khối khổ lớn. 
“Vì duyên sanh nên có già chết. Nếu có người hỏi: 
‘Ai già chết, già chết thuộc về ai?’ Người ấy sẽ đáp: ‘Ngã chính là già 
chết, nay già chết thuộc về ngã, già chết là ngã.’ Điều được nói rằng: 
‘Mệnh tức là thân,’ hoặc nói ‘Mệnh khác, thân khác,’ thì đây chỉ có một 
nghĩa mà lại nói có nhiều loại. Nếu thấy rằng ‘Mệnh tức là thân’, với 
người tu phạm hạnh, điều này không có. Hoặc lại thấy rằng ‘Mệnh khác, thân 
khác’, với người tu phạm hạnh, điều này cũng không có. Đối với hai bên 
này, tâm chẳng theo bên nào, mà chân chánh hướng Trung đạo. Hiền thánh 
xuất thế chánh kiến như thật, chẳng điên đảo, nghĩa là duyên sanh nên có 
già chết… 
“Cũng vậy sanh, hữu, thủ, ái, thọ, xúc, lục nhập 
xứ, damh sắc, thức, hành; do duyên vô minh nên có hành. Nếu lại hỏi: ‘Cái 
gì là hành, hành thuộc về ai?’ Người này sẽ đáp: ‘Hành là ngã, hành là của 
ngã.’ Điều được nói rằng: ‘Mệnh tức là thân,’ hoặc nói ‘Mệnh khác, thân 
khác,’ thì đây chỉ có một nghĩa mà lại nói có nhiều loại. Nếu thấy rằng 
‘Mệnh tức là thân’, với người tu phạm hạnh, điều này không có. Hoặc lại 
thấy rằng ‘Mệnh khác, thân khác’, với người tu phạm hạnh, điều này cũng 
không có. Đối với hai bên này, tâm chẳng theo bên nào, mà chân chánh hướng 
Trung đạo. Hiền thánh xuất thế chánh kiến như thật, chẳng điên đảo, nghĩa 
là vô minh duyên hành. Nếu các Tỳ-kheo, ly nhiễm đối với vô minh mà sanh 
minh, thì còn ai già chết, già chết thuộc về ai? Khi già chết đã dứt trừ, 
thì biết là đã dứt hẳn cội gốc của nó, như chặt ngọn cây đa-la, đời vị lai 
không thể tái sanh.
“Nếu Tỳ-kheo nào ly nhiễm đối với vô minh mà sanh 
minh, thì còn ai sanh, sự sanh thuộc về ai, cho đến ai hành, hành thuộc về 
ai? Khi hành đã chắc chắn dứt trừ, thì biết là đã dứt cội gốc của nó, như 
chặt ngọn cây đa-la, đời sau không thể tái sanh.
“Nếu Tỳ-kheo nào ly nhiễm đối với vô minh mà sanh 
minh, thời khi vô minh này diệt, hành cũng diệt, cho đến việc tụ tập thuần 
một khối khổ lớn cũng bị diệt. Đó gọi là kinh Đại không pháp.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại xóm Điều ngưu, Câu-lưu-sưu. 
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Nay Ta sẽ thuyết pháp, thuyết nghĩa[58] 
về pháp duyên khởi, các ông hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ông 
mà nói.
“Thế nào là thuyết pháp về pháp duyên khởi? Cái này 
có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia khởi. Tức là do duyên vô minh 
nên có hành… cho đến thuần một khối khổ lớn. Đó gọi là pháp thuyết về pháp 
duyên khởi.
“Thế nào là thuyết nghĩa? Tức là, duyên vô minh nên 
có hành. Thế nào là vô minh? Nếu chẳng biết tiền tế, chẳng biết hậu tế, 
chẳng biết cả tiền hậu tế; chẳng biết trong, chẳng biết ngoài, chẳng biết 
cả trong lẫn ngoài; chẳng biết nghiệp, chẳng biết báo, chẳng biết nghiệp 
báo; chẳng biết Phật, chẳng biết Pháp, chẳng biết Tăng; chẳng biết Khổ, 
chẳng biết Tập, chẳng biết Diệt, chẳng biết Đạo; chẳng biết nhân, chẳng 
biết pháp sanh khởi bởi nhân; chẳng biết thiện, bất thiện, có tội, không 
tội, tập, không tập; hoặc kém, hoặc hơn; nhiễm ô, hoặc thanh tịnh; phân 
biệt duyên khởi, tất cả đều chẳng biết; đối với sáu xúc nhập xứ không giác 
tri như thật, đối với các pháp này không thấy không biết, không hiện quán[59], 
bị si ám, không có minh, tối mù mịt, đó gọi là vô minh. 
“Duyên vô minh nên có hành. Thế nào là hành? Hành 
gồm có thân hành, miệng hành, ý hành. 
“Duyên hành nên có thức. Thế nào là thức? Chỉ sáu 
thức thân: nhãn thức thân, nhĩ thức thân, tỷ thức thân, thiệt thức thân, 
thân thức thân, ý thức thân.
“Duyên thức có danh sắc; thế nào là danh? Chỉ bốn 
ấm vô sắc: thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm. Thế nào là sắc? Chỉ bốn 
đại, sắc do bốn đại tạo thành. Sắc này hợp cùng với danh đã nói ở trên, 
gọi là danh sắc. 
“Duyên danh sắc nên có sáu nhập xứ. Thế nào là sáu 
nhập xứ? Sáu nội nhập xứ; nhãn nhập xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý nhập xứ.
“Duyên sáu nhập xứ nên có xúc. Thế nào là xúc? Chỉ 
sáu xúc thân: nhãn xúc thân, nhĩ xúc thân, tỷ xúc thân, thiệt xúc thân, 
thân xúc thân, ý xúc thân. 
“Duyên xúc nên có thọ. Thế nào là thọ? Ba thọ: thọ 
khổ, thọ vui, thọ chẳng khổ chẳng vui. 
“Duyên thọ nên có ái. Thế nào là ái? Ba ái: dục ái, 
sắc ái, vô sắc ái. 
“Duyên ái nên có thủ. Thế nào là thủ? Bốn thủ: dục 
thủ, kiến thủ, giới thủ, ngã thủ. 
“Duyên vào thủ nên có hữu. Thế nào là hữu? Ba hữu: 
dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu. 
“Duyên hữu nên có sanh. Thế nào là sanh? Nếu mỗi 
mỗi chúng sanh kia nơi mỗi mỗi chủng loại thân kia[60], 
siêu việt, hòa hợp, xuất sanh[61], 
được ấm, được giới, được nhập xứ, được mệnh căn. Đó gọi là sanh.
“Duyên sanh nên có già chết. Thế nào là già? Như 
tóc bạc đầu hói, da nhăn, các căn suy sụp, tay chân yếu ớt, lưng còm, đầu 
cúi, rên rỉ, hơi thở ngắn, mệt nhọc, chống gậy đi, thân thể đen sạm, tay 
chân nổ ban đốm, lú lẫn, làm việc gì cũng khó khăn, kém cỏi. Đó gọi là 
già. Thế nào là chết? Là mỗi mỗi chúng sanh kia nơi mỗi mỗi chủng loại 
thân kia chết đi, tuổi thọ chấm dứt, thân hoại, đổi dời, hơi ấm lìa thân, 
mệnh sống kết thúc, là đã đến lúc từ bỏ cái ấm thân. Đó gọi là chết. Chết 
này cùng già đã nói trước, gọi chung là già chết. Đó là thuyết nghĩa duyên 
khởi.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại xóm Điều ngưu, Câu-lưu-sưu. 
Bấy giờ có Tỳ-kheo đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ Phật, rồi ngồi qua một 
bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, pháp duyên khởi mà Ngài nói, là do 
Thế Tôn làm ra hay do người khác làm ra?”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Pháp duyên khởi chẳng phải do Ta tạo ra, cũng 
chẳng phải do người khác tạo ra. Nhưng dù Như Lai có xuất hiện hay chưa 
xuất hiện ở thế gian thì pháp giới này vẫn thường trụ. Như Lai tự giác ngộ 
pháp này, thành Đẳng chánh giác, vì tất cả chúng sanh mà phân biệt, diễn 
nói, chỉ dạy hiển bày; đó là: Cái này có nên cái kia có, cái này khởi nên 
cái kia khởi. Tức là do duyên vô minh nên có hành, … cho đến việc tụ tập 
thuần một khối khổ lớn. Do vô minh diệt nên hành cũng diệt,… cho đến việc 
thuần một khối khổ lớn tụ tập cũng bị diệt.” 
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại xóm Điều ngưu, Câu-lưu-sưu. 
Bấy giờ có một Bà-la-môn đến chỗ Phật; cùng Đức Thế Tôn đón chào vui vẻ. 
Sau khi vui vẻ chào hỏi, rồi ngồi qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Cù-đàm, thế nào, tự mình làm và tự mình cảm 
thọ chăng[63]?”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Ta nói điều này không khẳng định. Tự mình làm và 
tự mình cảm thọ, điều này không được khẳng định[64].”
Bà-la-môn hỏi:
“Bạch Cù-đàm, người khác làm và người khác cảm thọ 
chăng?”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Người khác làm và người khác cảm thọ; điều này 
không khẳng định[65].”
Bà-la-môn bạch Phật:
“Tôi hỏi, tự mình làm và tự mình cảm thọ chăng? 
Ngài đáp không khẳng định. Tôi hỏi, người khác làm và người khác cảm thọ 
chăng? Ngài đáp không khẳng định, nghĩa này như thế nào?”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Nếu tự mình làm và tự mình cảm thọ thì sẽ rơi vào 
thường kiến. Nếu người khác làm và người khác cảm thọ thì sẽ rơi vào đoạn 
kiến. Thuyết nghĩa, thuyết pháp là lìa hai bên này, Ta thuyết pháp ở nơi 
Trung đạo. Tức là nói rằng: ‘Cái này có nên cái kia có, cái này khởi nên 
cái kia khởi, duyên vô minh nên có hành… cho đến thuần một khối khổ lớn tụ 
tập. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, cho đến việc thuần một khối khổ lớn 
bị diệt.’”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại nhà khách trong rừng sâu, xóm 
Na-lê[67]. 
Bấy giờ Tôn giả Tán-đà Ca-chiên-diên[68] 
đi đến chỗ Phật, đảnh lễ, ngồi qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, như Ngài nói ‘Chánh kiến.’ Vậy thế 
nào là chánh kiến? Bạch Thế Tôn, vì sao Thế Tôn thi thiết chánh kiến?”
Phật bảo Tán-đà Ca-chiên-diên:
“Thế gian có hai sở y, hoặc có hoặc không[69], 
bị xúc chạm bởi thủ. Do bị xúc chạm bởi thủ nên hoặc y có hoặc y không. 
Nếu không có chấp thủ này vốn là kết sử hệ lụy của tâm và cảnh[70]; 
nếu không thủ, không trụ, không còn chấp ngã, thì khi khổ sanh là sanh, 
khổ diệt là diệt, đối với việc này không nghi, không hoặc, không do người 
khác mà tự biết; đó gọi là chánh kiến. Đó gọi là chánh kiến do Như Lai thi 
thiết. Vì sao? Thế gian tập khởi, bằng chánh trí mà quán sát như thật, thì 
thế gian này không phải là không[71]. 
Thế gian diệt, bằng chánh trí mà thấy như thật, thế gian này không phải là 
có. Đó gọi là lìa hai bên, nói pháp theo Trung đạo. Nghĩa là, ‘Cái này có 
nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia khởi; tức là, duyên vô minh nên 
có hành,… cho đến, thuần một khối khổ lớn. Do vô minh diệt nên hành diệt,… 
cho đến, thuần một khối khổ lớn diệt.’”
Phật nói kinh này xong, Tôn giả Tán-đà 
Ca-chiên-diên nghe những gì Phật đã dạy, chẳng khởi các lậu, tâm được giải 
thoát, thành A-la-hán.
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Khi Đức Phật ở núi Kỳ-xà-quật, thành Vương xá. Bấy 
giờ vào lúc sáng sớm, Đức Thế Tôn đắp y, mang bát ra khỏi núi Kỳ-xà-quật, 
vào thành Vương xá khất thực. Bấy giờ, A-chi-la Ca-diếp[73] 
có chút việc đi ra khỏi thành Vương xá, hướng về núi Kỳ-xà-quật, từ xa 
trông thấy Đức Phật, vọâi vàng đi đến, bạch Phật:
“Bạch Cù-đàm, tôi có điều muốn hỏi, Ngài có rảnh để 
giải đáp cho không?”
Phật bảo Ca-diếp:
“Nay không phải là lúc để bàn luận. Ta đang vào 
thành khất thực. Chờ khi trở về, Ta sẽ nói cho ông nghe.”
Đức Phật nói như vậy lần thứ hai.
Ca-diếp lại bạch lần thứ ba.
“Bạch Cù-đàm, sao lại làm khó tôi! Tại sao có sự 
khác biệt này?[74] 
Nay tôi có điều muốn hỏi, xin Ngài giải đáp cho[75].”
Phật bảo A-chi-la Ca-diếp:
“Vậy thì tùy ý ông hỏi.”
A-chi-la Ca-diếp bạch Phật:
“Bạch Cù-đàm, thế nào, khổ, lạc có phải do tự tác 
không?”
Phật đáp:
“Nói khổ, lạc do tự tác, điều này Ta không khẳng 
định.”
Ca-diếp lại hỏi:
“Bạch Cù-đàm, thế nào khổ, lạc là do người khác làm 
ra chăng?”
Phật bảo Ca-diếp:
“Nói khổ do ngưới khác làm ra, điều này Ta cũng 
không khẳng định.”
Ca-diếp lại hỏi:
“Khổ, lạc do tự mình và người khác làm ra chăng?”
Phật bảo Ca-diếp:
“Nói khổ do tự mình và người khác làm ra, điều này 
Ta cũng không khẳng định.”
Ca-diếp lại hỏi:
“Bạch Cù-đàm, thế nào, khổ chẳng phải tự, chẳng 
phải tha, vô nhân tác chăng?”
Phật bảo Ca-diếp:
“Khổ chẳng phải tự, chẳng phải tha, vô nhân tác, 
điều này Ta cũng không khẳng định.”
Ca-diếp hỏi:
“Bạch Cù-đàm, thế nào, tôi hỏi khổ tự tác chăng? 
Ngài đáp không ký thuyết. Tôi hỏi khổ tha tác, tự tha tác chăng? Chẳng 
phải tự, tha, vô nhân tác chăng? Ngài cũng đáp là không ký thuyết. Vậy, 
nay không có cái khổ này chăng?”
Phật bảo Ca-diếp:
“Chẳng phải không có cái khổ này, mà thật có cái 
khổ này.”
Ca-diếp bạch Phật:
“Lành thay, bạch Cù-đàm! Ngài nói có cái khổ này. 
Vậy xin vì tôi thuyết pháp khiến cho tôi biết khổ, thấy khổ.”
Phật bảo Ca-diếp: 
“Nếu thọ tức là tự cảm thọ[76], 
thì Ta mới có thể nói nói khổ do tự tạo. Nếu người khác thọ người khác tức 
là thọ giả[77], 
thì Ta nói là tha tạo. Nhưng nếu nói thọ, vừa tự thọ vừa cái khác cảm thọ 
rồi mang lại khổ, như thế thì tự làm vừa do người khác làm, nhưng Ta cũng 
chẳng nói như vậy. Hoặc chẳng phải nhân tự, tha, mà là vô nhân sanh ra 
khổ, Ta cũng chẳng nói như vậy. Như Lai thuyết pháp lìa hai bên này mà nói 
Trung đạo; tức là ‘Cái này có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia 
khởi, nghĩa là duyên vô minh nên có hành,… cho đến thuần một khối khổ lớn. 
Nếu vô minh diệt thì hành diệt,… cho đến thuần một khối khổ lớn bị diệt.”
Phật nói kinh này xong, A-chi-la Ca-diếp liền lìa 
trần cấu, được mắt pháp thanh tịnh. Bấy giờ, A-chi-la Ca-diếp thấy pháp, 
đắc pháp, biết pháp, thâm nhập pháp, vượt qua mọi hồ nghi, không do người 
khác mà biết, chẳng do người khác độ thoát, đối với Chánh pháp luật, tâm 
được không sợ hãi.
Ca-diếp chắp tay bạch Phật:
“Thế Tôn, nay con đã được Phật hóa độ, từ hôm nay 
con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, suốt đời làm Ưu-bà-tắc, xin 
Ngài chứng tri cho con.”
A-chi-la Ca-diếp nghe Phật dạy xong, vui mừng, hài 
lòng làm lễ mà đi.
A-chi-la Ca-diếp sau khi từ giã Phật đi không lâu, 
thì bị một con nghé đực húc chết. Lúc mạng chung, các căn thanh tịnh, sắc 
mặt tươi sáng.
Bấy giờ, Thế Tôn vào thành khất thực. Lúc ấy cũng 
có nhiều Tỳ-kheo vào thành Vương xá khất thực, nghe đồn A-chi-la Ca-diếp 
được nghe pháp từ Thế Tôn; sau khi từ giã Phật chẳng bao lâu bị một con 
nghé đực húc chết, khi mạng chung các căn thanh tịnh, sắc mặt tươi sáng. 
Các Tỳ-kheo khất thực xong trở về, thu cất y bát, rửa chân, đến chỗ Phật, 
cúi đầu lễ dưới chân Phật, rồi ngồi qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, sáng sớm nay nhiều Tỳ-kheo vào thành 
khất thực, nghe chuyện A-chi-la Ca-diếp, sau khi được nghe pháp luật, ra 
về chẳng bao lâu bị tai nạn một con nghé đực húc chết. Lúc từ trần các căn 
thanh tịnh, sắc mặt tươi sáng. Bạch Thế Tôn, A-chi-la Ca-diếp sanh vào 
loài nào, thọ sanh nơi đâu và có sở đắc gì?”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Ông ấy đã thấy pháp, biết pháp và thứ pháp[78], 
không còn chấp thủ nơi pháp, đã đạt đến Bát-niết-bàn. Các ông nên đến cúng 
dường thân A-chi-la Ca-diếp.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn thọ ký A-chi-la Ca-diếp bậc 
nhất.
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở núi Kỳ-xà-quật, tại thành Vương 
xá. Bấy giờ vào lúc sáng sớm, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào thành Vương 
xá khất thực, dọc đường gặp tu sĩ ngoại đạo tên là Điếm-mâu-lưu[80], 
có chút việc đi đến núi Kỳ-xà-quật, từ xa trông thấy liền đi đến chỗ Thế 
Tôn; hai bên chào đón ân cần xong, rồi đứng sang một bên, bạch Phật:
“Bạch Cù-đàm, tôi có vài điều muốn hỏi, Ngài có 
rảnh để giải đáp cho chăng?”
“Nay không phải là lúc để bàn luận; Ta đang vào 
thành khất thực. Chờ khi trở về, Ta sẽ nói cho ông nghe.”
Đức Phật nói như vậy lần thứ hai.
Điếm-mâu-lưu lại bạch lần thứ ba.
“Bạch Cù-đàm, sao lại làm khó tôi! Tại sao có sự 
khác biệt này? Nay tôi có điều muốn hỏi, xin Ngài giải đáp cho.”
Phật bảo Điếm-mâu-lưu:
“Vậy thì tùy ý ông hỏi.”
Xuất gia ngoại đạo Điếm-mâu-lưu liền hỏi Sa-môn 
Cù-đàm:
“Bạch Ngài, khổ, lạc do tự tạo chăng?”
Phật bảo xuất gia ngoại đạo Điếm-mâu-lưu:
“Bảo khổ, lạc do tự tạo, điều này Ta không ký 
thuyết.”
Lại hỏi Sa-môn Cù-đàm:
“Khổ, lạc có phải do người khác tạo chăng?”
Phật bảo xuất gia ngoại đạo Điếm-mâu-lưu:
“Nói khổ, lạc do người khác tạo, điều này Ta không 
ký thuyết.”
Lại hỏi Sa-môn Cù-đàm:
“Khổ, lạc tự người khác tạo chăng?”
Phật bảo xuất gia ngoại đạo Điếm-mâu-lưu:
“Nói khổ, lạc do tự người khác tạo, điều này Ta 
không ký thuyết.” 
Lại hỏi Cù-đàm:
“Khổ, lạc chẳng phải do tự, chẳng phải do người 
khác, vô nhân tác chăng?
Phật bảo xuất gia ngoại đạo Điếm-mâu-lưu:
“Nói rằng khổ, lạc chẳng phải tự, chẳng phải người 
khác, vô nhân tạo, điều này Ta không ký thuyết.”
Phật dạy đầy đủ như kinh A-chi-la Ca-diếp ở trên, 
cho đến Thế Tôn thọ ký cho xuất gia ngoại đạo Điếm-mâu-lưu đầu tiên.
*
[1].   
Nguyên Đại Chánh quyển 12. Ấn Thuận xếp 
lại, đưa xuống quyển 13, Tương ưng nhập xứ sẽ tiếp tục từ kinh 304, 
tụng iii Tạp nhân tụng. Quốc Dịch, cũng quyển 13, bắt đầu tụng iii. 
Nhân duyên tụng. Tương đương Pāli, S. ii. Nidāna-vaggo. Tương ưng Nhân 
duyên, Ấn Thuận, Quốc Dịch đồng, gồm các kinh, Đại Chánh: 283-303, 
343-378. Tương đương Pāli, S. 12. Nidāna-saṃyutta. Trồng cây, Phật 
Quang, kinh 321. Pāli, S. 12. 57. Taruṇa.
 
[2].   
Pāli: saṃyujaniysu dhammesu 
assādānupassino viharato taṇhā pavaḍḍhati. Sống với sự tìm kiếm vị 
ngọt trong các pháp bị kết buộc, thì khát ái tăng trưởng.
 
[3].   
Cây lớn. Pāli, S. 12. 55-56. Mahārukkha.
 
[4].   
Pāli, upādāniyesu, bhikkhave, dhammesu 
assādānupassino viharato taṇhā pavaḍḍhati; taṇhāpaccayā upādānaṃ, sống 
tìm kiếm vị ngọt trong các pháp bị chấp thủ thì ái tăng trưởng. Duyên 
ái có thủ.
 
[5].   
Pāli, S. 12. 10 Gotama.
 
[6].   
Pāli: 
kicchaṃ vatāyaṃ loko āpanno, quả thật, thế gian này đang rơi vào khổ 
nạn.
 
[7].   
Thượng cập sở y 
上及所依; không rõ nghĩa. 
Pāli: 
atha ca panimassa dukkhassa nissaraṇaṃ nappajānāti jarāmaṇassa, nhưng 
lại không biết sự thoát ly của khổ già và chết này. Trong bản Hán, 
nissaraṇana (thoát ly), được đọc là nissaya, sở y.
 
[8].   
Pāli: 
yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo, bằng như lý tác ý, bằng trí 
tuệ, ta có hiện quán (chứng nghiệm thực tế).
 
[9].   
Pāli, S. 12. 52. Upādāna.
 
[10].  
Pāli, S. 12. 65. Nagaraṃ.
 
[11].  
Xem cht.8 kinh 285.
 
[12].  
Pāli: 
paccudāvattati kho idaṃ viññāṇaṃ nāmarūpamhā na paraṃ gacchati, rồi 
thức này quay trở lại; nó không đi quá danh sắc.
 
[13].  
Pāli: 
adhigato mayhaṃ maggo bodhāya, Ta đã đến con đường dẫn đến giác ngộ.
 
[14].  
Lau sậy. Pāli, S. 12. 67. Naḷakalāpiya.
 
[15].  
Nghĩa biện 
義辯,
hay nghĩa biện tài, một trong bốn biện tài hay vô ngại 
giải (Pāli: 
paṭisambhidā).
 
[16].  
Không nghe, chỉ phàm ngu không được nghe 
chánh pháp. Pāli, S. 12. 61. Assutavā.
 
[17].  
Nguyên Hán: vô văn 
無聞. 
Pāli: assutavā.
 
[18].  
Tức ở nơi tâm, ý, thức.
 
[19].  
Pāii: 
etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā ti, cái này là của tôi, cái này là 
tôi, cái này là tự ngã của tôi (là cái tôi của tôi: Hán dịch, tương 
tại?).
 
[20].  
Pāli, S. 12. 62. Assutavā.
 
[21].  
Pāli. S. 12. 66. Sammasaṃ.
 
[22].  
Nội xúc pháp 
內觸法,
sự tiếp xúc bằng nội tâm. Pāli: sammasatha no 
tumhe bhikkhave antaraṃ sammasanti, các ông có nắm bắt sự tiếp xúc của 
tâm ý chăng?
 
[23].  
Thủ ?,
lấy hay nhận lấy, ở đây hiểu là tư duy, nghiệm 
xét. Pāli: sammasati, tiếp xúc bằng tâm ý, phán xét. Danh từ phát 
xuất: sammasa, Hán dịch là nội xúc.
 
[24].  
Trong bản: xúc 
觸,
Theo văn đoạn dưới, nên sửa lại là chuyển
轉
. Xem chú thích 27 ở dưới. Có lẽ chính xác là
duyên 
? , 
trong bốn hành tướng của tập đế, theo Hữu bộ (nhân, 
tập, sanh duyên). Pāli: 
idaṃ kho dukkhaṃ kiṃnidānaṃ kiṃsamaudayaṃ kiṃ jātikaṃ kiṃ pabhavaṃ, 
khổ này, cái gì là nguyên do (nhân duyên), cái gì là tập khởi, cái già 
là sanh, cái gì là hiện khởi.
 
[25].  
Ức-ba-đề nhân 
億波提因. 
Pāli: upadhi-nidānaṃ. Nghĩa gốc của upadhi là cơ bàn hay cơ sở; theo 
nghĩa kinh, là sở y của tồn tại. Hán dịch: y, vật, sự, uẩn, tư, tham 
ái, phiền não.
 
[26].  
Nhân, tập, sanh, chuyển 
因集生轉.
 Pāli: nidānaṃ, sanudayaṃ, jātikaṃ, pabhavaṃ.
 
[27].  
Trong bản: xúc 
觸.
Theo trên, sửa lại là chuyển. Pāli: 
taṇhānidānaṃ taṇsamudayaṃ taṇhājātikaṃ taṇhāpabhavaṃ.
 
[28].  
Trong bản: đế chánh chi sắc 
諦正之色,
Ấn Thuận sửa lại là đoan chánh chi sắc 
端[06]政之色
 
[29].  
Hán: ái sanh nhi sanh, hệ nhi hệ, trú nhi trú  於彼愛生而生.
繫而繫.
住而住.
 . 
Pāli: etthesā taṇhā uppajjamānā uppajjati ettha nivisamānā nivasati.
 
[30].  
Pāli, S. 12. 51. Parivīmaṃsana.
 
[31].  
Xem cth.24 kinh 291 trên.
 
[32].  
Hán: hướng thứ pháp 
向次法. 
Pāli: tahā paṭipanno ca hoti anudhamamma-carī, thực hành như vậy là 
người tùy pháp hành (tùy thuận pháp).
 
[33].  
Có ba loại hành: phước hành và phi phước 
hành (thiện và bất thiện Dục giới) và bất động hành (thiện thượng 
giới). Xem Trường A-hàm 7 (kinh Chúng tập); Pāli, 
D. 33. Saṅgīti, tayo saṅkhārā: puññābhisaṃkhāro, apuññābhisaṃkhāro, 
āneñjābhisaṃkhāro.
 
[34].  
Vô sở hữu hành 
無所有行,
tức bất động hành, thiện do tu tập thiền định. Pāli: 
āneñjābhisaṃkhāra.
 
[35].  
Pāli: 
so avijjāvirāgā vijuppādā, vị ấy, do ly nhiễm đối với vô minh và minh 
phát sanh...
 
[36].  
Nghĩa là, có còn tạo các nghiệp thiện, 
bất thiện và phước báo do thiền định để tái sanh hay không?
 
[37].  
Pāli: kāyapariyantikam vedanaṃ 
vedayamāno.
 
[38].  
Trong bản, in dư một chữ diệt 
滅.
 
[39].  
Pāli, S. 12. 19. Bālena paṇḍito.
 
[40].  
Thức thân, chỉ thân có thức. Pāli: 
taṇhāya samyuttassa evamayaṃ kāyo samudāgato, do bị hệ phược bởi ái, 
thân này sanh khởi. 
 
[41].  
Xúc nhập, tức xúc nhập xứ, hay xúc xứ. 
Pāli: phassa-āyatana.
 
[42].  
Không phải của ngươi. Pāli, S. 12. 37. 
Natumha.
 
[43].  
Pāli: purāṇaṃ kammaṃ, nghiệp đời trước.
 
[44].  
Pāli, S. 12. 20. Paccaya.
 
[45].  
Nhân duyên pháp, hay lý duyên khởi. Pāli: 
paṭiccasamuppāda.
 
[46].  
Duyên sanh pháp, hay duyên dĩ sanh. Pāli: 
paṭiccasamuppanna dhamma, pháp đã sanh bởi duyên.
 
[47]. 
Pāli: 
uppādā vā tathāgatānaṃ anuppādā vā tathāgatānaṃ, ṭhitā va sā dhātu 
dhammaṭṭhitatā dhammaniyāmatā idappaccayatā, các Như Lai xuất hiện hay 
không xuất hiện, giới này (đạo lý này) vốn thường trú; đó là tánh an 
trụ của pháp (pháp trụ tánh), tính quyết định của pháp (pháp vị tánh) 
và tánh y duyên (tương y tương duyên).
 
[48].  
Pháp trụ, pháp không 
法住,法空, 
trong bản Pāli: dhammāṭṭhitatā (pháp trụ tánh), dhammaniyāma (pháp vị 
tánh, pháp định tánh).
 
[49].  
Pāli: 
katame ca, bhikkhave, paṭiccasamuppannā dhammā? jarāmaraṇaṃ, 
bhikkhave, aniccaṃ saṃkhataṃ paṭiccasamuppannaṃ khayadhammṃ 
vayadhammaṃ virāgadhammaṃ nirodhadhammaṃ, các pháp duyên sanh (duyên 
sanh pháp) là gì? Già chết là vô thường, hữu vi, do duyên mà khởi, 
chịu quy luật đào thải, tiêu vong, ly tham, diệt tận.
 
[50].  
Hán: tiền tế 
前際, 
Pāli: 
pubbantaṃ
 
[51].  
Pāli: 
ahosiṃ nu kho ahaṃ atītamaddhānaṃ, nanu kho ahosiṃ atītamaddhānaṃ, kiṃ 
nu kho ahosiṃ atītamaddhānaṃ, kathaṃ nu kho ahosiṃ atītamaddhānaṃ, kiṃ 
hutvā kiṃ ahosi nu kho ahaṃ aittāmaddhānaṃ: Quá khứ tôi hiện hữu hay 
không hiện hữu? Quá khứ tôi là gì, tôi là thế nào? Quá khứ, do hiện 
hữu cái gì mà tôi hiện hữu?
 
[52].  
Pāli: 
etarahi paccuppannaṃ addhānaṃ ajjhattaṃ kathaṃkathī bhavissati, hoặc ở 
đây trong đời hiện tại mà bên trong có nghi hoặc.
 
[53].  
Pāli: 
ahaṃ nu kho’smi, no nu kho’ smi, kiṃ nu kho’smi, kathaṃ nu kho’smi, 
ayaṃ nu hko sattā kuto āgato, so kuhiṃ gamissatī’ti, ta đang hiện hữu, 
hay không đang hiện hữu? Ta đang là cái gì? Ta đang là thế nào? Chúng 
sanh này từ đâu đến? Rồi nó sẽ đi đâu?
 
[54].  
Hán: kiến sở hệ 
見所繫. 
Pāli: 
diṭṭhi-saṃyojana.
 
[56].  
Điều ngưu tụ lạc 
調牛聚落,
chỗ khác dịch là Bác ngưu 
博牛, 
Mục ngưu 
牧牛
 
[57].  
Pāli, S. 12. 1. Desanā; 2. Vibhaṅga.
 
[58].  
Hán: nghĩa thuyết 
義說.
Pāli: vibhajjssāmi, Ta sẽ phân tích (phân biệt).
 
[60].
Bỉ bỉ thân chủng loại sanh 
彼彼身種類一生. 
Pāli: 
taṃhi taṃhi sattanikaye jāti, sự sanh nơi từng bộ loại của chúng sanh 
kia.
 
[61].  
Pāli: 
sañjāti okkanti nibbatti abhinibbatti, xuất sanh, nhập thai, sản sanh, 
chuyển sanh.
 
[62].  
Pāli, S. 12. 46. Aññataraṃ (Người khác).
 
[63].  
Pāli: so karoti so paṭisaṃvedayati, tự 
tác tự thọ.
 
[64].  
Vô ký 
無記
. Pāli: ayaṃ eko anto, đây là một cực đoan.
 
[65].  
Pāli: ayaṃ dutiyo anto, đây là cực đoan 
thứ hai.
 
[66].  
Pāli, S. 12. 15. Kaccāyanagotta.
 
[67].  
Na-lê tụ lạc thâm lâm trung đãi khách xá
那梨聚落深林中待賓舍;
địa danh kinh 926: Na-lê tụ lạc Thâm cốc tinh 
xá; kinh 1037: Na-lê tụ lạc Khúc cốc tinh xá. Pāli: Nadika 
Giñjakāvasatha.
 
[68].  
Tán-đà Ca-chiên-diên 
[跳-兆+散]陀迦旃延.
 
[69].  
Pāli: dvayanissito... atthitañ 
ceva natthitañca, hai sở y... tồn tại và không 
tồn tại.
 
[70].  
Tâm cảnh hệ trước sử 
心境繫著使. 
Pāli: cetaso adhiṭṭhānaṃ abhinivesānysayaṃ, (vốn là) tùy miên tham đắm 
nắm giữ chặt tâm.
 
[71].  
Pāli: 
lokasamudayaṃ kho, kaccāna, yathābhūtaṃ sampaññāya passato yā loke 
natthitā sā na hoti, bằng chánh trí mà quán sát như thật sự tập khởi 
của thế gian, thì thế gian không phải không tồn tại. Hán dịch: Nhược 
thế gian vô giả bất hữu 
若世間無者不有,
tức Pāli: 
yā loke natthitā sā na hoti, trong thế gian này không tồn tại cái 
không (nghĩa là: thế gian này có).
 
[72].  
Pāli, S. 12. 17. Acela.
 
[73].  
A-chi-la Ca-diếp 
阿支羅迦葉 
. Pāli Acela-Kassapa, Ca-diếp lõa thể.
 
[74].  
Ý nói: đối xử không giống với người khác.
 
[75].  
Bản Pāli: na kho... bahudeva pucchitukāmā 
ti, tôi không muốn hỏi nhiều đâu.
 
[76].  
Thọ tức tự thọ giả 
受即自受
者 
. Pāli: sā vedanā so vedayatī ‘ti (S. 12. 18), 
thọ tự nó cảm thọ. 
 
[77].  
Pāli: 
aññā vedanā añño vedayatī ti(S. 12. 18), thọ là cái khác, cảm thọ là 
cái khác (thọ và hành vi cảm thọ là hai cái khác nhau).
 
[78].  
Pháp thứ pháp 
法,
次法,
tức pháp và tùy pháp. Pāli: dhammānudhamma.
 
[79].  
Pāli, S. 12. 18. Timbaruka.
 
[80].  
Điếm-mâu-lưu 
玷牟留.
Pāli: Timbaruka.