Dẫn
nhập 
SỰ HÌNH THÀNH CỦA A-TỲ-ÐẠT-MA  
Ba tạng: Tu-đa-la-tạng, Tỳ-nại-da tạng, A-tỳ-đạt-ma tạng. Chữ 
A-tỳ-đạt-ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không 
dùng cho các luận thư Ðại thừa. Abhidharma Trung Hoa dịch âm là 
A-tỳ-đàm, A-tỳ-đạt-ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Ðối 
pháp.  
A. ÐỊNH NGHĨA  
Nguyên trong kinh A-hàm đức Phật dùng chữ A-tỳ-đạt-ma với dụng
ý tán mỹ các pháp nghĩa thâm huyền, rộng lớn không gì sánh kịp, dần dần
nó biến chuyển qua nhiều nghĩa bởi các luận sư của các bộ phái. Như 
luận sư Bà-sa thì gọi A-tỳ-đạt-ma là phục pháp, vì nó hàng phục được tất
cả tà thuyết của ngoại đạo. Hóa địa bộ thì gọi là chiếu pháp, vì nó có 
khả năng chiếu soi tất cả tánh tướng các pháp. Thí dụ sư thì gọi là thứ 
pháp, vì Niết-bàn là tối thượng, nó dưới pháp Niết-bàn một bực. Chánh lý
sư thì gọi là Thông pháp, vì nó có khả năng thấu đạt tất cả khế kinh. 
Hiếp Tôn Giả thì gọi là Cứu kính tuệ, Quyết đoán tuệ v.v...đến ngài Thế 
Thân thì gọi là Ðối pháp với hai nghĩa là đối hướng và đối quán. Ðối là 
đối diện hướng tới. Ðối diện hướng tới Niết-bàn gọi là Ðối hướng 
Niết-bàn và đối diện quán sát pháp Tứ đế gọi là Ðối quán. Pháp của Phật 
dạy không ngoài hai thứ là pháp Vô lậu thắng nghĩa (Niết-bàn) và pháp 
Hữu lậu pháp tướng. Trí tuệ quán sát pháp tướng và chứng nhập Niết-bàn 
thì gọi là Ðối pháp trí hay A-tỳ-đạt-ma.  
Ðạt-ma dịch là Pháp có nghĩa là tự giữ lấy tính cách nó (nhậm 
trì tự tánh) và làm mẫu mực phát sinh cho sự nhận biết (quỹ sanh vật 
giải).  
Ðạt-ma tức Dharma từ tự căn Dhri (giữ lại, mang) tức là cái 
được nắm giữ, hay lý tưởng nếu giới hạn ý nghĩa nó trong tác vụ tâm lý. 
Trình độ tâm lý sai biệt tùy sự tiếp nhận của mỗi cá thể: 
1. Ở đức Phật nó là sự toàn giác hay viên mãn giác (Bồ-đề). 
 2. Lý
tưởng diễn tả trong ngôn từ là giáo lý giáo pháp. 
 3. Lý
tưởng đề ra cho đệ tử theo là luật nghi, đức lý, cấm giới. 
 4. Lý
tưởng để chứng ngộ sẽ là nguyên lý, chân lý, bản tính, luật tắc, điều 
kiện. 
 5. Lý
tưởng thể hiện trong một ý nghĩa tổng quát đó là sự thật thực tại, sự 
kiện, sự thể, yếu tố, (bị tạo hay không bị tạo), tâm và vật, ý thể và 
hiện tượng. Trong trường hợp phái duy thật của các luận sư A-tỳ-đạt-ma, 
chữ Ðạt-Ma được dùng nhiều nhất theo nghĩa thứ năm.  
A-tỳ tức Abhi (tiếp đầu ngữ) có nghĩa là hơn thế, nói về. Như 
vậy Abhidharma, có nghĩa là pháp tối thắng, hay là "Thắng", hay trần 
thuật về pháp. Ngài Buddhagosa (Phật Âm, Phật Minh) trong 
Na-tư-mạn-già-la Y-lạp-hy-ni (sách giải thích Dhiga Nikaya) dẫn bài 
tụng:" Có pháp tăng thịnh đặc thù, tôn trọng, nói rõ, tối thượng, thế 
gọi là A-tỳ-đạt-ma". Như vậy nó rốt ráo có hai điểm. Về nội dung thì ý 
nghĩa thù thắng, về phương pháp luận cứu thì tường tận khúc chiết. Ngài 
Phật Âm còn nói:". Trong kinh, pháp ngũ uẩn chỉ được thuyết minh một 
cách đại khái chứ không đi sâu vào chi tiết, còn trong A-tỳ-đạt-ma thì 
phân biệt kinh, phân biệt luận, phân biệt vấn đáp, nên pháp ngũ uẩn được
thuyết minh một cách cặn kẻ đầy đủ".  
Luận Ðại Trí Ðộ nói: "A-tỳ-đạt-ma là gì? Ðáp: Là đối vấn mà 
đáp, hoàn toàn là hình thức luận cứu, nêu ra nhiều mặt để phân biệt, như
nói về 18 giới, thì phân biệt cái nào có sắc, cái nào không sắc? Cái 
nào có thể thấy, cái nào không thể thấy? Cái nào hưũ lậu, cái nào vô 
lậu? Cái nào thiện, cái nào bất thiện? Cái nào hữu báo, cái nào vô báo? 
v.v....như thế gọi là A-tỳ-đạt-ma".  
Lại như bảy kiết sử là dục nhiễm, sân nhuế, hữu ái, kiêu mạn, 
vô minh, kiến, nghi (Kinh Mật Hoàn Dụ số 115, Trung A-hàm) trong đó cái 
nào là dục giới hệ (trói buộc ở cõi Dục)?. Cái nào là sắc giới hệ? Cái 
nào vô sắc giới hệ? Cái nào kiến đế đoạn?. Cái nào tư duy đoạn? Cái nào 
biến sử? Cái nào bất biến sử? v.v...  
Ngài Chân Ðế và ngài Huyền Trang đều dịch Abhidharina là Ðối 
pháp, có nhiệm vụ tập hợp các pháp nghĩa lại rồi đem ra phân loại, định 
nghĩa, giải thích và phân biệt. Ðối pháp có hai là Ðối quán lý Tứ đế và 
Ðối hướng quả Niết-bàn. Như vậy không thể hiểu Abhi,A là vô, Bhi là tỷ 
một cách máy móc được.  
B. NGUỒN GỐC CỦA A-TỲ-DẠT-MA  
Nó đã bao gồm trong sự thuyết pháp của đức Phật. Ðức Phật 
thuyết pháp một cách ung dung tự tại. Lời Phật nói đơn giản minh bạch 
không có gì bí mật. Phật đã phân biệt và phân loại một cách rõ ràng. Như
vậy nguồn gốc của A-tỳ-đạt-ma xuất phát từ Phật.  
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LUẬN THƯ A-TỲ-ÐẠT-MA
Thời kỳ 1: Luận thư còn giữ hình thức khế kinh. Trong thời kỳ 
100 năm sau Phật Niết-bàn, chưa chia kinh luận như kinh A-hàm còn truyền
đến ngày nay là do học phong của Giáo hội Tăng đoàn mà được chỉnh lý và
A-tỳ-đạt-ma hóa, cho nên trong đó có những kinh mang nhiều sắc thái như
luận, như kinh Tăng Nhất, Tạp A-hàm, kinh Thế Ký trong Trường A-hàm và 
Phân Biệt Bộ trong Trung Bộ, kinh Chúng Tập trong Trường Bộ. 
Thời kỳ 2: Luận thư giải thích nghĩa kinh. Lấy kinh làm bối 
cảnh rồi định nghĩa, phân loại, phân biệt, giải thích những điều đã nói 
trong kinh chứ chưa phát huy vấn đề gì đặc sắc độc lập, như Vô Ngại Ðạo 
Luận của Phật Âm, Ma-ha-ni-luật-sa, Cưu-lạp-ni-luật-sa trong Tiểu Bộ hay
như Hán dịch Pháp Uẩn Túc Luận, Tập Dị Môn Túc Luận.  
Thời kỳ 3: Luận thư tiến tới độc lập. Thời kỳ này Luận thư 
không còn bàn giải nghĩa kinh mà lấy tất cả đề mục của các kinh tập hợp 
lại rồi phân loại một cách tường tận và theo mọi tiêu chuẩn để phân biệt
tính chất các đề mục ấy, nội dung dần dần bao hàm các vấn đề sự thật 
độc lập hẳn với kinh luật. Ðó là thời kỳ xuất hiện bảy bộ luận của Phật 
giáo Nam phương và Ðại Tỳ-bà-sa luận của Hữu bộ, Thành Thật luận của 
Kinh bộ.  
Thời kỳ 4: Là thời kỳ Luận thư cương yếu. Các luận thư 
A-tỳ-đạt-ma phát huy giáo nghĩa của các bộ phái khi đã phát triển thì 
mắc phải cái nạn quá nhiều, khó học hỏi nổi, nên đòi hỏi phải có các 
luận thư toát yếu. Bộ luận thư toát yếu ra đời đầu tiên là bộ A-tỳ-đàm 
Tâm Luận của Pháp Thắng (Ðạt-ma-thi-la), đến Tạp A-tỳ-đàm Tâm Luận của 
Pháp Cứu, học trò Pháp Thắng, rồi đến Câu-xá luận của ngài Thế Thân, 
Thanh Tịnh Ðạo luận của ngài Phật Âm, luận A-tỳ-đạt-ma Nghĩa Tập của 
ngài A-nậu-lâu-đà. Hai bộ sau này thuộc Thượng tọa bộ Tích Lan. 
Tóm lại, phương pháp xử lý vấn đề của các A-tỳ-đạt-ma là trước
hết nó hoàn toàn phụ thuộc vào kinh, chỉ có kinh là có quyền chứng 
tuyệt đối. Rồi dần dần từ việc giải thích từng mỗi câu kinh tiến lên 
thuyết minh toàn thể tư tưởng được gói ghém trong các câu kinh, trong sự
tiến bộ đó nó đã nảy sinh ra thái độ phê phán tư tưởng trong kinh, cho 
đến khi không còn bị kinh chi phối, thậm chí không tôn trọng kinh bằng 
luận. Luận Ðại Tỳ-bà-sa cuốn 5 nói: "Nếu cứ khư khư chấp chặt từng câu 
kinh mà không đạt quan chân lý của nó thì người ấy là "Trước văn 
Sa-môn". Ðó là thái độ của Hữu bộ lấy A-tỳ-đạt-ma làm trung tâm. Và theo
ngài Chân Ðế thì Kê dẫn bộ còn cho rằng: "Kinh luật chẳng qua chỉ là 
phương tiện, còn đệ nhất nghĩa đế chính thật nằm trong A-tỳ-đạt-ma". Như
vậy A-tỳ-đạt-ma đã có chỗ đặc sắc không giống khế kinh. Chẳng hạn, ở 
khế kinh chú trọng giá trị tu chứng thực tiễn theo ch? trương "chuyển mê
khai ngộ" cho nên những điều gì không thiết thực giúp cho việc chuyển 
mê khai ngộ thì đức Phật bỏ qua không nói đến. Trong những Pháp môn Ngài
dạy để chuyển mê khai ngộ, Ngài chỉ dạy những điều vừa đủ hiểu để tu 
hành, nhưng đến A-tỳ-đạt-ma thì chuyển sang chú trọng nghiên cứu vấn đề 
sự thật. Thay vì xử lý các vấn đề tu dưỡng trước, thì A-tỳ-đạt-ma lại lo
thuyết minh một cách tinh tế về sự thật liên quan đến nhân sanh vũ trụ 
trước rồi sau mới đề cập vấn đề tu dưỡng. Chủ ý các luận sư A-tỳ-đạt-ma 
tuy không coi thường vấn đề tu dưỡng nhưng muốn xác lập lý tưởng tu 
dưỡng thì trước phải xác định sự thật.  
Sau hết, nhìn vào phạm vi phân chia các vấn đề cứu xét sự bất 
đồng giữa mới và cũ. Lúc đầu A-tỳ-đạt-ma chỉ luận cứu những đề mục đặc 
thù như thiền định, trí tuệ... Nhưng trong quá trình tiến bộ liên tục nó
đã lấy việc thuyết minh các đề mục đó một cách hệ thống làm nhiệm vụ và
để tránh khó khăn nó lại chia các vấn đề đó ra từng bộ môn (chư môn 
phân biệt). Do đó mới có nhiều luận thư, và sau cùng để tiện việc học 
hỏi lại có các luận thư cương yếu ra đời.  
C. CÁC LUẬN THƯ CỦA THƯỢNG TỌA BỘ  
1. Pháp Tụ Luận (Dhamma Sanghani) 
 2. 
Phân Biệt Luận (Vibhanga) 
 3. 
Giới Thuyết Luận (Dhatu Katha) 
 4. 
Nhân Thi Thiết Luận (Pudgala Pannati) 
 5. 
Song Ðối Luận (Yamaka) 
 6. 
Pháp Trí Luận (Patthana) 
 7. 
Thuyết Sự Luận (Kathavasthu)  
Ngoài bảy luận thư cơ bản này còn có các luận thư được sáng 
tác tiếp theo:  
- Thanh Tịnh Ðạo Luận (visudhimagga) của ngài Phật Âm thế kỷ 5
TL, có giá trị như một bộ bách khoa toàn thư Phật giáo, tính chất tương
đương Câu-xá Luận đối với Hữu bộ. Ðây là sách tiêu chuẩn của tân Thượng
tọa bộ. 
 - 
Trường Tập Kinh Chú Sớ (Sumangala Vilasini) sách giải thích Trường Tập 
Kinh (Trường Bộ Kinh). 
 - 
Attha Salina, sách chú thích bộ Luận Pháp Tụ. 
 - Ngũ
Thư Thuật Nghĩa (Panca-Pakarana Atthokattha): Năm sách Chú sớ Ðối pháp 
tạng.  
Sau ngài Phật Âm có nhiều tác phẩm ra đời, trong đó có giá trị
nhất là bộ A-tỳ-đạt-ma Nghĩa Tập Luận (Abhidharmattha Sangaha; H.T Minh
Châu dịch Thắng Pháp Tập Yếu) này do ngài A-nậu-lâu-đà (Anuruddha) viết
thế kỷ 8 T.L. Ðây là bộ sách ngắn gọn toát yếu giáo nghĩa Phật giáo, 
làm sách chỉ nam của Phật giáo Nam phương, với những giải thích xác đáng
rõ ràng giáo nghĩa của Thượng tọa bộ nên nhiều nơi đã dùng nó thay cho 
Thanh Tịnh Ðạo Luận.  
D. CÁC LUẬN THƯ CỦA HỮU BỘ  
1. Pháp Uẩn Túc Luận (Dharma Skandha): 12 cuốn, do 
Ðại-Mục-kiền-liên (Mahamogalyayana), có thuyết nói do Xá-lợi-phất viết 
lúc Phật tại thế. 
 2. 
Tập Dị Môn Túc Luận (Sangti paryaya pada) do Xá-lợi-phất viết lúc Phật 
tại thế. (20 cuốn) 
 3. 
Thi Thiết Túc Luận (Prajnapti): Do Ca-chiên-diên (Kaiyaya) viết lúc Phật
tại thế, chưa dịch ra Hán văn. 
 4. 
Thức Thân Túc Luận (Vijnanakaya): 16 cuốn do Ðề-bà-thiết-ma (Devasarman)
viết sau Phật Niết-bàn 100 năm . 5. Phẩm Loại Túc Luận (Ptrakarama): 18
cuốn do Thế Hữu viết sau Phật Niết-bàn 300 năm, cũng dịch là Chúng Sự 
Phần A-tỳ-đàm Luận (1). 
 6. 
Giới Thân Túc Luận (Dhatukaya): 3 cuốn do Thế Hữu viết sau Phật Niết-bàn
300 năm [*] 
 7. 
Phát Trí Luận (Janna Prasthana, A-tỳ-đàm Bát-kiền-độ Luận): 20 cuốn do 
Ca-chiên-diên tử (Katyayaniputra - Ca-na-diễn-ni tử) viết sau Phật 
Niết-bàn 300 năm.  
[*] Có trước Đại Tỳ Bà Sa . Có giá trị nhất trong các luận 
khác thời đó . Sau đệ tử thấy nhiều mới gom lại thành Giới Thân Túc 
Luận.  
Bảy bộ luận này, bộ Phát Trí gọi là Thân Luận, còn sáu bộ kia 
gọi là Túc Luận, vì nó là chỗ dựa cho luận Phát Trí được thành, và vì 
nghĩa lý chứa đựng trong nó ít ỏi không bằng nghĩa lý trong Phát Trí 
Luận rộng hơn. Trong đó ba bộ viết ra lúc đức Phật còn tại thế, bốn bộ 
viết ra sau khi Phật Niết-bàn. Ngoài bảy bộ luận cơ bản này, Hữu bộ còn 
có các luận thư để quảng diễn nghĩa lý các bộ trên như:  
- Luận Ðại Tỳ-bà-sa (Mahavibhasa) 200 cuốn, là kết quả của Ðại
hội Kiết tập lần thứ tư vào giữa thế kỷ 2 T.L tại Ca-thấp-di-la 
(Kasmir, Kế Tân) do các ngài Thế Hữu, Diệu Âm, Giác Thiên, Pháp Cứu, 
Hiếp Tôn Giả chủ trì với sự ủng hộ tận lực của vua Ca-nị-sắc-ca 
(Kaniska). Bộ này quảng diễn giáo nghĩa của luận Phát Trí. 
- A-tỳ-đàm Tâm Luận (Abhidharmahridaya) do Pháp Thắng 
(Ðạt-ma-thi-la) tạo vào thế kỷ 6 sau Phật Niết-bàn (đầu thế kỷ 3 T.L), 
toát yếu Ðại Tỳ-bà-sa Luận.  
- Tạp A-tỳ-đàm Tâm Luận (Samyutara Abhidhar-mahridaya) do đệ 
tử của ngài Pháp Thắng là Pháp Cứu (Tăng-già-bạt-ma) tạo vào thế kỷ 7 
sau Phật diệt độ (đầu thế kỷ 4 T.L) nhằm làm rõ nghĩa trong A-tỳ-đàm Tâm
Luận, vì cho A-tỳ-đàm Tâm Luận quá giản lược.  
- Câu xá Luận (Abhidharma Kosa) do Thế Thân (Vasubhandhu) tạo 
vào 900 năm sau Phật diệt độ (đầu thế kỷ 5 T.L), 30 cuốn. 
- Thuận Chánh Lý Luận: 80 cuốn, do Chúng Hiền đồng thời Thế 
Thân tạo, nhằm bác lại Câu-xá.  
- Hiển Tông Luận: 40 cuốn do Chúng Hiền tạo, nhằm nêu bật tông
nghĩa của Hữu bô.  
- Kinh Lượng Bộ - Có Thành Thật Luận 20 cuốn. 
   
Đ. CÁC LUẬN THƯ DO AI NÓI?  
Theo ngài Phật Âm trong Nam phương Phật giáo thì cho rằng, sau
khi thành đạo, đức Phật ngồi tư duy dưới cội Bồ-đề, và về sau trong các
buổi thuyết pháp cho thân mẫu trên cung trời Ðao-lợi, chính đức Phật đã
nói sáu bộ luận đầu trong bảy luận thư thuộc Thượng tọa bộ. Sáu luận 
thư này đã được hình thành tại Ðại hội Kiết tập lần thứ ba, còn bộ Luận 
Sự thứ bảy do Mục-kiền-liên tử Ðế-tu làm ra khoảng 200 năm sau Phật 
Niết-bàn, nhưng cũng do lời Phật chú ký mà làm, nên về quan hệ vẫn được 
xem như do chính Phật nói. Trái lại, về phía Bắc phương Phật giáo thì 
cho rằng các luận thư A-tì-đàm không phải do Phật nói mà là do các đệ tử
Phật nói trong các thời gian khác nhau, hoặc trong lúc Phật tại thế, 
hoặc sau khi Phật Niết-bàn. Quan điểm của Bắc phương sát với sự thật 
hơn.