I. Dẫn Nhập Tỷ-Kheo Giới Của Tứ Phần Luật
(I.1)
Phật lịch 2518, tôi đã đọc tất cả 5 bộ 
luật của Phật giáo văn hệ Trung hoa, gọi tắt và ghi theo số hiệu của Ðại
tạng kinh bản Ðại chính thì 1421 là Ngũ phần, 1425 là Tăng kỳ, 1428 là 
Tứ phần, 1435 là Thập tụng, 1442 là Hữu bộ. Ngoài ra, 1462 là Thiện kiến
tuy không trọn vẹn mà rất đáng đọc.
Thế giới Phật giáo thông sử (tập 1 trang 54) nói Tăng kỳ là của Ðại 
chúng bộ, Ngũ phần là của Hóa địa bộ, Tứ phần là của Pháp tạng bộ, Thập 
tụng là của Hữu bộ Ma-du-la, Hữu bộ là của Hữu bộ Ca-thấp-di-la.
Muốn biết giữa 5 bộ luật như thế nào thì sơ khởi hãy đem giới bản của
5 bộ ra mà so sánh chút ít. Tỷ-kheo giới có 8 loại: 1 là khí, 2 là tăng
tàn, 3 là bất định, 4 là xả đọa, 5 là đọa, 6 là hối quá, 7 là học pháp,
8 là diệt tránh. Trong 8 loại này, chỉ có 2 loại 5 và 7 là 5 bộ khác 
nhau: loại 5 thì Tứ phần, Thập tụng và Hữu bộ đều có 90, Ngũ phần có 91,
Tăng kỳ có 92; còn loại 7 thì Ngũ phần và Tứ phần có 100, Tăng-kỳ 
(Ma-ha-tăng-kỳ, Mahasaghika) có 66, Thập tụng có 113, Hữu bộ có 42. Nhìn
đại khái, giới điều quan trọng thì 5 bộ như nhau, giới điều linh tinh 
mới khác nhau. Nhìn thêm chút nữa, giới bản của Tăng-kỳ, Ngũ phần và 
Thập tụng thì lời kệ mở đầu và kết thúc đều như nhau, chỉ Tứ phần với 
Hữu bộ mới khác nhau. Xét văn tự thì Tứ phần có chậm nhất, xét bộ
phái thì Tăng-kỳ có sớm nhất. Theo ngài Pháp hiển ghi thì "luật 
Tăng-kỳ này khi Phật tại thế được đại chúng đầu tiên tuân hành, được lưu
truyền tại tinh xá Kỳ-hoàn".
Tôi suy đoán rằng Thượng tọa bộ có 1 bộ luật là bộ được tụng ra trong
Ðại hội 1 của Kiết tập 1. Rồi bộ này được khẩu truyền mà học thuộc lòng
cho đến chép ra văn bản là các bộ luật của các bộ phái khác. Riêng bộ 
Tăng-kỳ của Ðại chúng bộ có thể được tụng ra trong Ðại hội 2 của Kiết 
tập 1, nhưng cũng có thể chỉ là thuộc lòng bộ luật của Ðại hội 1. Thế 
giới Phật giáo thông sử (tập 1 trang 55) nói bộ luật này là của Thượng 
tọa bộ căn bản, nay không tìm được. Bộ luật của Paly là của hệ Phân biệt
thuyết, thiên về Ðại chúng bộ, có sau cả luật Tăng-kỳ.
Trên đây là nói 2 bộ luật của 2 bộ gốc là Thượng tọa bộ và Ðại chúng 
bộ. Còn lại 4 bộ Ngũ phần, Thập tụng, Tứ phần và Hữu bộ thì toàn là hệ 
Thượng tọa bộ cả. Ít ra, chính trong những bộ luật hiện còn mà thấy đại 
thể giới pháp có thể nói là khá nhất vị.
(I.2)
Tứ phần luật gọi đủ là "Ðàm-mô-đức tứ phần luật". Ðàm-mô-đức 
(Dharmagupta) dịch nghĩa là Pháp tạng hay Pháp hộ, tên của bộ chủ Pháp 
tạng bộ. Theo Dị tông luận thì Pháp tạng bộ là thứ 9 trong hệ Thượng tọa
bộ, xuất từ Hóa địa bộ và có trong bách kỷ 3 sau Phật nhập diệt. Luận 
ấy còn ghi thêm: những học thuyết của Pháp tạng bộ đa số lại đồng nhất 
với Ðại chúng bộ. Ngài Khuy cơ còn ghi Pháp tạng bộ nói có 5 pháp tạng: 
kinh, luật, luận, minh chú, bồ-tát. Tương truyền ngài Pháp tạng là 1 
trong 5 đệ tử của tôn giả Ưu-ba-cúc-đa.
Trung hoa thì đời Ðường sắp đi, do ngài Ðạo tuyên khởi lập, Luật tông
lấy Tứ phần luật làm căn bản. Lý do vì sao lựa chọn như vậy thì tôi 
thật chưa rõ, vì chưa đọc đến các bộ sách quan trọng của ngài Ðạo tuyên 
viết về Tứ phần luật, dựng lên Luật tông có học thuyết đàng hoàng. Việc 
tôi có ý nguyện làm từ lâu là dịch Tỷ-kheo giới bản của Tứ phần luật và 
làm những gì liên hệ đến giới bản ấy. Trong ý nguyện ấy, hôm nay tôi làm
một phần của phần việc thứ nhất.
Tỷ-kheo giới bản cũng gọi là Giới kinh. Giới kinh ở đây có lúc chỉ 
cho Tứ phần luật, có lúc chỉ cho Tỷ-kheo giới bản của Tứ phần luật, quan
trọng hơn nữa có lúc chỉ cho các bài tụng của 7 Đức Phật (7 Đức Phật có
7 bài tụng là có 7 bản Giới kinh). Riêng đức Bổn sư Thích ca thì 12 năm
đầu của thì gian giáo hóa, Giới kinh chính là bài tụng được dịch ra 12 
câu. Giới kinh này là cho chư tăng vô sự. Sau 12 năm mới có chư tăng hữu
sự, tùy sự chế giới, thành ra Giới kinh có 250 giới nói theo Tứ phần 
luật.
Tỷ-kheo giới bản của Tứ phần luật kể như có 4 bản. Bản 1 là Tứ phần 
luật Tỷ-kheo hàm chú giới bản, số hiệu 1806 của Ðại tạng kinh bản Ðại 
chính, sẽ được gọi tắt là bản Ðạo tuyên. Ngài Ðạo tuyên, vị khai lập 
Luật tông Tứ phần luật, đã biên tập và lược giải giới bản Tỷ-kheo của Tứ
phần luật, với phong cách một vị tổ sư. Tôi quí và tin bản này nhất, 
không những lấy làm chính văn mà còn lấy làm tài liệu chính để hiểu và 
ghi chú chính văn.
Bản 2 có tên Tân san định Tứ phần tăng giới bản, cũng của ngài Ðạo 
tuyên. Bản này nằm trong Vạn 61/267-279. Dầu có bản này, so sánh, tôi 
vẫn chọn bản 1 làm chính văn.
Bản 3 là Tứ phần luật Tỷ-kheo giới bản, do ngài Hoài tố biên tập, số 
hiệu 1429 của Ðại tạng kinh bản Ðại chính, sẽ được gọi tắt là bản Hoài 
tố. Còn bản 4 là Tứ phần tăng giới bản, mang số hiệu 1430 của Ðại tạng 
kinh bản Ðại chính.
Bản dịch của tôi lấy bản Ðạo tuyên làm chính văn. Nhưng chính văn ấy 
đến loại 7 và loại 8, tức 100 học pháp và 7 diệt tránh, thì lấy bản Hoài
tố. Lý do là vì tên của 2 loại này tuy mục lục bản Ðạo tuyên có ghi, 
nhưng chính văn bản ấy không ghi đầy đủ như 6 loại trước. Tên ấy tôi 
cũng không thấy cần thiết nữa, nên quyết định lấy chính văn bản Hoài tố,
ở đấy không ghi tên hay số gì cả, số là của bản Ðạo tuyên.
Cũng xin ghi rõ là trong khi dịch, các bản dịch của các hòa thượng 
Trí thủ và Thiện hòa cũng được tham khảo rất nhiều.
Nên nói thêm về tên giới điều. Trong 8 loại 250 giới, 6 loại đầu có 
143 giới thì tên được dịch cả, còn 2 loại 7 và 8 có 107 giới thì, như 
mới nói, bản Ðạo tuyên không ghi đầy đủ nên tôi cũng không dịch. Nhưng 
điều đáng nói là có ý kiến cho rằng tên giới điều không nên tư vào chính
văn giới điều. Nay tôi xét thấy có lắm chỗ chính tên giới điều làm cho 
giới điều rõ hơn lên, chưa kể cái tên làm cho giới điều như được nói 
tắt, nói ý chính. Chính sự xét thấy này mà thấy 6 loại trước cần tư tên,
còn 2 loại sau sự ấy không cần thiết nữa.
Trong khi dịch tôi vấp 1 chữ. Ấy là chữ "thời". Có không dưới 10 chữ.
Chữ quan trọng và khó hiểu nhất là ở đoạn kết thúc 13 giới tăng tàn. Dò
các bộ luật khác thấy Ngũ phần và Thập tụng viết "thị pháp ưng nhĩ" 
(giới này phải thế), Tăng-kỳ viết "thị sự pháp nhĩ" (việc này là thế 
đấy), Hữu bộ viết "thử thị xuất tội pháp" (đó là cách giải tội). Như vậy
chữ "thời" có thể hiểu là trường hợp. "Thị vị thời" đã được dịch "đó là
trường hợp này". Những chữ "thời" sau đó đại khái cũng được dịch là 
"trường hợp" cả.
(I.3)
Tỷ-kheo giới của Tứ phần luật có 250 giới điều, tự chia ra 8 loại, 
nhắc lại, 8 loại ấy là: một, khí, có 4; hai, tăng tàn, có 13; ba, bất 
định, có 4; bốn, xả đọa, có 30; năm, đọa, có 90; sáu, hối quá, có 4; 
bảy, học pháp, có 100; tám, diệt tránh, có 7. Có ý kiến nói loại 8 không
phải là giới. Nói như vậy xét ra không chính xác. Loại 8 cũng là giới 
điều, ở chỗ mỗi giới điều được lập ra do mỗi trường hợp khác nhau, thêm 
nữa, khi thi hành mỗi giới điều hay nhiều giới điều này rồi mà ai ngoan 
cố thì bị nghiêm trị hơn nữa.
Nay đem 8 loại 250 giới mà xét chung thì thấy có thể chia ra 3 loại. 
Loại một, là những giới điều phạm vào thì mất tư cách Tỷ-kheo, không còn
sám hối hay giải tội gì mà cứu vãn được nữa. Loại hai là những giới 
điều mà phạm vào thì tư cách Tỷ-kheo chỉ còn một chút sống thừa, phải 
được cử tội, xử tội và giải tội bởi 20 vị Tỷ-kheo là ít nhất mới mong 
cứu vãn. Loại ba đến loại tám là những giới điều chỉ cần được cử tội, xử
tội và giải tội bởi 10 cho đến 1 vị Tỷ-kheo là tư cách Tỷ-kheo được cứu
vãn.
Dầu phân loại như vậy mà 250 giới vẫn chưa mất cái cảm giác vụn vặt, 
mênh mang, nên nay tôi gặp loại là qui nạp lại, thì 250 giới có thể qui 
nạp như sau. Trong sự qui nạp này nên chú ý mấy chi tiết. Chi tiết 1 là 
đánh số giới điều, tức 1/1 là giới 1 của loại 1, cho đến 8/7 là giới 7 
của loại 8. Chi tiết 2 là các mục qui nạp thì gặp loại là qui nạp, chứ 
không có thứ tự hay chính yếu thứ yếu gì ở đây. Chi tiết 3 là những mục 
ít giới điều thì gọi chung là linh tinh, nhưng có những mục chỉ có 1 
giới điều mà vẫn để riêng vì tính cách quan trọng giới điều ấy.
Dưới đây là qui nạp 250 giới điều.
- Liên hệ đến dâm: 1/1, 2/1, 2/2, 2/3, 2/4, 2/5, 3/1, 3/2.
- Liên hệ đến đạo: 1/2, 4/30.
- Liên hệ đến sát: 1/3, 5/19, 5/61, 5/62.
- Liên hệ đến vọng: 1/4, 2/8, 2/9, 5/1, 5/2, 5/3, 5/7, 5/8, 5/12, 
5/13, 5/68, 5/80.
- Liên hệ đến y: 4/1, 4/2, 4/3, 4/4, 4/5, 4/6, 4/7, 4/8, 4/9, 4/10, 
4/23, 4/24, 4/27, 4/28, 4/29, 5/60, 5/88, 5/89, 5/90, 7/1, 7/2.
- Liên hệ đến cụ: 4/11, 4/12, 4/13, 4/14, 4/15, 4/16, 4/17, 5/87.
- Liên hệ đến việc học Luật: 5/71, 5/72, 5/73, 5/75, 5/76.
- Liên hệ đến Phật: 7/60, 7/61, 7/62, 7/63, 7/64, 7/65, 7/66, 7/67, 
7/68, 7/69, 7/70, 7/71, 7/72, 7/73, 7/74, 7/75, 7/76, 7/77, 7/78, 7/79, 
7/80, 7/81, 7/82, 7/83, 7/84, 7/85.
- Liên hệ đến sự ăn: 5/31, 5/32, 5/33, 5/34, 5/35, 5/37, 5/38, 5/39, 
5/40, 5/41, 5/42, 6/1, 6/2, 6/3, 6/4, 7/26, 7/27, 7/28, 7/29, 7/30, 
7/31, 7/32, 7/33, 7/34, 7/35, 7/36, 7/37, 7/38, 7/39, 7/40, 7/41, 7/42, 
7/43, 7/44, 7/45, 7/46.
- Liên hệ đến tín đồ: 2/12, 7/3, 7/4, 7/5, 7/6, 7/7, 7/8, 7/9, 7/10, 
7/11, 7/12, 7/13, 7/14, 7/15, 7/16, 7/17, 7/18, 7/19, 7/20, 7/21, 7/22, 
7/23, 7/24, 7/25, 7/48.
- Liên hệ đến sự diệt tránh: 8/1, 8/2, 8/3, 8/4, 8/5, 8/6, 8/7.
- Liên hệ đến sự thuyết pháp: 7/52, 7/53, 7/54, 7/55, 7/56, 7/57, 
7/58, 7/59, 7/86, 7/87, 7/88, 7/89, 7/90, 7/91, 7/92, 7/96, 7/97, 7/98, 
7/99, 7/100.
- Liên hệ đến Tỷ-kheo ni: 5/21, 5/22, 5/23, 5/24, 5/25, 5/26, 5/27, 
5/28, 5/29.
- Liên hệ đến nữ nhân: 5/4, 5/9, 5/30, 5/43, 5/44, 5/45.
- Liên hệ đến sự cư xử trong chư tăng với nhau: 4/25, 5/14, 5/15, 
5/16, 5/17, 5/36, 5/46, 5/53, 5/55, 5/58, 5/59, 5/63, 5/64, 5/66, 5/69, 
5/70, 5/74, 5/77, 5/78, 5/79.
- Liên hệ đến rượu: 5/51.
- Liên hệ đến người chưa thọ đại giới: 5/5, 5/6, 5/65.
- Liên hệ đến sự phá tăng: 2/10, 2/11.
- Liên hệ đến sự ngoan cố: 2/13, 5/54.
- Liên hệ đến bát: 4/21, 4/22, 7/95.
- Linh tinh:
của và của báu: 4/18, 4/19, 4/20, 5/82;
làm phòng nhà: 2/6, 2/7, 5/20;
thuốc: 4/26, 5/47;
đào đất: 5/10;
chặt cây: 5/11;
giường nằm: 5/18; 5/84, 5/85;
đùa giỡn: 5/52, 7/93, 7/94;
đốt lửa: 5/57;
quân đội: 5/48, 5/49, 5/50;
giặc: 5/67;
vua: 5/81;
đi không phải lúc: 5/83;
làm ống kim: 5/86;
tắm: 5/56;
vệ sinh: 7/47, 7/49, 7/50, 7/51.
Nếu qui nạp lại lần nữa thì 250 giới chỉ thuộc vào 2 loại mà thôi, ấy
là loại giới luật và loại oai nghi. Loại giới luật là những giới điều 
cấm tội lỗi thật sự. Loại oai nghi là những giới điều cấm cử động bất 
xứng. Trong 8 loại của 250 giới, loại 1 là giới luật, loại 7 là oai 
nghi, còn lại là cả hai.
(I.4)
Cuộc đời như cuộc đời của Phật, nếu có ký sự thì ký sự ấy lượng và 
chất phải đạt đến tầm cỡ bậc nhất nhì. Thế nhưng ký sự ấy chỉ nằm rải 
rác trong các kinh luật. Chỉ có một cạnh khía ký sự rất rõ rệt. Ðó là sự
sinh hoạt giới luật của Phật và chư tăng của Ngài. Sinh hoạt giới luật,
từ ngữ này muốn nói sinh hoạt của Phật và chư tăng của Ngài thì toàn bộ
là nhắm vào cuộc sống viễn ly ác pháp. Cạnh khía này luật tạng của bộ 
phái nào cũng là bộ ký sự khá về lượng cũng như chất.
Chư tăng của Phật trong 12 năm đầu gọi là "Vô sự Tỷ-kheo": Tỷ-kheo 
không có gì rắc rối cả. Giới luật cho chư tăng thì gian này chỉ là bài 
tụng mà có thể nói vắn tắt là giữ sạch thân miệng ý. Sau 12 năm mới có 
kẻ hữu sự, mới có rắc rối. Rắc rối nhất là cái nhóm 6 người gọi là "lục 
quần Tỷ-kheo". Rồi tùy trường hợp rắc rối xảy ra mà có sự qui định ứng 
phó lại. Mỗi lần ứng phó là thành một giới điều. Như vậy cái số lượng 
250 giới điều không phải nhiều nhiệc gì đối với tập thể mà thường xuyên 
đã có cả ngàn, lại trải qua thì gian ba bốn chục thập kỷ. Nhìn như thế 
này thì không những thấy 250 không nhiều, mà còn nhìn thấy cái phàm 
trong cái thánh của chư tăng thời Phật, cái phàm chẳng phàm gì nhiều và 
nặng.
Giới điều tuy nhiều, mỗi giới điều lại có khai giá (linh động và hạn 
chế), nhưng căn bản của giới luật chỉ là thiểu dục tri túc. Thiểu
dục là ít ham muốn đối với những gì chưa có. Tri túc là biết
vừa đủ đối những gì đã có. Có thiểu dục tri túc thì không phạm giới. 
Giữ giới có nghĩa là thiểu dục tri túc chứ không gì khác.
Nhưng Tỷ-kheo giới được truyền thọ như thế nào? Tỷ-kheo giới được 
truyền thọ, và lãnh thọ, giữa người sống với người sống, người sống mà 
phải hiện diện mới đúng phép. Số người hiện diện truyền thọ thường gọi 
là thập sư. Nghĩa là phải có 10 vị Tỷ-kheo hiện diện thì việc truyền thọ
Tỷ-kheo giới mới thành tựu. Qui định này cho thấy Tỷ-kheo giới khi được
lãnh thọ rồi thì sẽ được và phải được hộ trì, giám sát, được cử tội, xử
tội và giải tội bởi chính những vị Tỷ-kheo khác mà trong đó có các vị 
thầy đã truyền thọ.
Không những thọ giới và trì giới dựa trên cái lực của các vị thầy 
hiện diện, mà sự sám hối khi phạm giới lại càng là như vậy. Phạm giới 
Tỷ-kheo thì tùy giới đã phạm mà sám hối trước 1 cho đến 20 vị Tỷ-kheo 
khác, nghĩa là cũng người hiện diện đối với người hiện diện chứ không 
phải khơi khơi mà được.
Thêm nữa, Luật không cho sa-di đọc Tỷ-kheo giới trước khi được thọ 
giới ấy. Vì thẩm định sa-di có hay không có tư cách thọ và trì Tỷ-kheo 
giới thì không phải sa-di tự thẩm định. Mà trách nhiệm là vị thầy. Vị 
thầy phải giáo dục cho sa-di có tư cách thọ và trì Tỷ-kheo giới, và thẩm
định tư cách ấy. Không phải sa-di tự coi Tỷ-kheo giới, tự cho mình có 
tư cách thọ và trì giới ấy mà được. Do vậy, không ở đâu mà cái nghĩa 
thầy trò được nói cho bằng trong luật. "Hòa thượng tự nhiên sinh tâm 
thương nhớ đệ tử như con, đệ tử tự nhiên sinh tâm kính trọng hòa thượng 
như cha, siêng năng dạy bảo, lại thêm tôn kính, thì có khả năng làm cho 
Phật pháp rộng thêm, làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài" (Ngũ phần, 
Chính 22/110).
Ngày nay có cái hiện tượng suy đồi, ấy là thọ giới rồi là rồi, thầy 
không còn biết đến trò, trò chẳng còn biết đến thầy. Ðôi bên chẳng còn 
vương vấn gì đến nhau, không còn mà cũng không muốn giữ một trách nhiệm 
gì với nhau. Trong khi thọ Tỷ-kheo giới là con người được sinh ra một 
lần nữa, sinh ra giới thân tuệ mạng. Ấy vậy mà không mấy ai lấy làm quan
trọng sự được sinh ra ấy cả.
(I.5)
Tỷ-kheo giới với Bồ-tát giới có tương quan không, và tương quan thì 
như thế nào? Hãy đem 2 giới bản Tỷ-kheo của Tứ phần và Bồ-tát của Phạn 
võng mà xét thì thấy có những điều đáng nói sau đây.
Một, Tỷ-kheo giới truyền thọ do người hiện diện cả. Kiết-ma đắc giới 
là tăng Kiết-ma. Rồi nếu phạm giới thì cử tội, xử tội và giải tội đều là
tăng Kiết-ma. Sám hối cũng là đối với tăng hiện diện. Bồ-tát giới thì 
cần nhất là vị thầy vừa là giáo thọ vừa là hòa thượng, còn Kiết-ma đắc 
giới là tác bạch thập phương chư Phật Bồ-tát, nhưng sám hối thì cực kỳ 
khó khăn.
Hai, Bồ-tát giới lấy sự phát bồ-đề tâm làm căn bản. Có bồ-đề tâm thì 
có đủ giới pháp, mất bồ-đề tâm thì giới pháp không những dễ vi phạm, mà 
có giữ cũng không có ý nghĩa vì vô thượng bồ-đề mà giữ. Tỷ-kheo giới thì
tách rời tất cả thân nghiệp và ngữ nghiệp cần tách rời (Câu xá, Chính 
29/73), nên thân và miệng mà tội lỗi hay bất xứng thì đã là phạm giới.
Ba, Tỷ-kheo giới thì người lãnh thọ bị khảo sát giá nạn rất kỹ: phải 
là người mà quá khứ, bề trong, bề ngoài và hoàn cảnh đều tương đối coi 
được mới được thọ giới. Bồ-tát giới không cần đến như vậy, bởi vì trừ 
Tỷ-kheo Bồ-tát giới là tăng bảo, mọi bề ngoài tôn nghiêm đã phải có khi 
thọ Tỷ-kheo giới rồi, còn mọi người ai cũng có thể được thọ cái giới 
pháp bản nguyên thanh tịnh của mình, miễn là có thể phát bồ-đề tâm và 
hiểu được tiếng nói của vị thầy truyền giới.
Bốn, Tỷ-kheo giới có cái lý do giữ giới là để tránh đời chê ghét (tị 
thế cơ hiềm). Chính cái lý do này là cái phần lợi tha của Bồ-tát giới. 
Và chính trong ý nghĩa này mà nói là giáo hóa chúng sinh, mà nói là duy 
trì Phật pháp.
(I.6)
Ðiều phải nói ở đây là sự "phá tăng". Phá tăng là phá Kiết-ma tăng và
phá pháp luân tăng. Phá Kiết-ma tăng là dầu chỉ có 4 vị Tỷ-kheo mà 1 
người không đồng chúng hòa hợp hay tập hợp, thì sự Kiết-ma bất thành, 
mọi tăng sự, kể cả sự thuyết giới, đều không thể cử hành. Phá pháp luân 
tăng là dầu chỉ có 9 Tỷ-kheo mà 1 người đứng ra chia rẽ, kéo theo mình 4
người (để đủ số Tỷ-kheo làm Kiết-ma) rồi tự xưng giáo chủ, xướng ra 
giáo pháp và lập ra giáo đoàn riêng, nói cách khác là biệt lập Phật giáo
riêng (hay khuynh đảo tổ chức của Phật giáo làm thành tổ chức của 
mình).
Phá tăng, như vậy, là phá hoại Phật giáo. Theo tôn giả Thế thân, loại
tội nặng nhất là 5 tội vô gián, trong 5 tội ấy tội phá tăng, nhất là 
phá pháp luân tăng, là tội nặng nhất, vì "thương tổn pháp thân của 
Phật". Phá tăng như vậy bản thể là cuồng ngữ. Kẻ phá tăng phải là 
Tỷ-kheo, không phải tại gia hay Tỷ-kheo ni mà làm được, là kẻ tịnh hạnh 
chứ không phải người phạm giới, bởi vì phạm giới thì nói không uy tín 
(Câu xá, Chính 29/93).
Tôn giả Thế thân nói còn thiếu một điều, ấy là những kẻ này hay lợi 
dụng chính quyền hoặc để cho chính quyền lợi dụng. Kẻ ấy, xưa kia, thời 
Phật là Ðề-bà. Ngày nay, thừa kế Ðề-bà cũng không phải thiếu người. Và 
cái tội phá tăng nặng đến nỗi phạm vào thì hết còn nói đến thọ giới trì 
giới gì nữa. Ấy thế nhưng có điều lạ là Tỷ-kheo giới cũng như Bồ-tát 
giới đều đã không nghiêm khắc đúng mức về tội này.
Bồ-tát giới thì những gì liên quan đến sự phá tăng, thí dụ các điều 
47 và 48, chỉ để vào loại giới pháp nhẹ. Tỷ-kheo giới thì như các điều 
2/10 và 2/11, chỉ xếp vào loại tăng tàn, mặc dầu trường hợp có ra 2 giới
điều ấy là chính sự phá tăng của Ðề bà.
Ngày trước, khi dịch giải Bồ-tát giới Phạn võng, tôi đã muốn nêu điều
này lên. Nhưng rồi lúc đó tôi không làm. Nay nêu lên điều này không 
phải như một nghi vấn, mà là sự phá tăng ngày nay có chứ không phải 
không có, vậy mà giới pháp không lên án đúng mức thì làm sao cảnh tỉnh 
những kẻ Ðề-bà mới, những kẻ tùng đảng với Ðề-bà mới?