Thiền học
Thiền trong đời thường
Tác giả: Thích Thông Huệ
15/02/2553 10:19 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Chương 5: THUẦN NHẤT VÀ ĐA THÙ

I. DẪN NHẬP.

   Đề tài nầy, mới nghe qua có vẻ lạ lẫm và khó hiểu, nhưng rất quan trọng vì liên hệ đến tư tưởng vút cao của nhà Thiền. Thuần nhất và Đa thù là những thuật ngữ Triết học; các triết gia đã định nghĩa bằng hàng loạt ngôn từ rối rắm, người càng nghe càng sa vào mớ bòng bong của chữ nghĩa. Riêng các vị Thiền sư, bằng sự thấy biết của trực giác không qua tư duy suy luận, đã có những cách giải thích rất đơn giản nhưng kỳ đặc, đưa môn nhân đi thẳng vào trạng thái tâm chứng, tức khắc nhận ra bộ mặt thật xưa nay của chính mình.

   Thế giới chúng ta đang sống luôn biểu hiện muôn hình vạn tướng. Nhà Phật dùng sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) để chỉ chung tất cả pháp tướng, trong đó mỗi trần lại gồm vô số hình thức với những tính chất khác nhau. Chỉ nói về sắc trần, liệu trí óc con người đã phân biệt được bao nhiêu loại, từ vi mô đến vĩ mô ? Đôi mắt hoạ sĩ có thể phân biệt 25 màu trắng khác nhau, nhưng đó mới chỉ là nhục nhãn, có nghĩa là chỉ thấy một phần vô cùng nhỏ của vạn tượng. Chính vì những biểu hiện trùng điệp của các pháp dàn trải xung quanh ta, nên thế giới hiện thực ta đang sống có tính Đa thù. Đây là thế giới tương đối, là cảnh giới vô thường duyên sinh bất thực, phát khởi từ ý thức phân tích nhị nguyên. Ngày nay, do khoa học muốn đáp ứng thị hiếu của con người nên chế tạo nhiều vật dụng tiện ích, từ những phương tiện giải trí ăn mặc  đến học tập rèn luyện, với đủ chủng loại màu sắc. Do vậy, tính chất Đa thù ngày càng phát triển.

   Đa thù là cành lá hoa quả, là phần nổi, là những hình thức đa dạng của một thực thể toàn vẹn; còn nguồn gốc, bản chất, nội dung của thực thể ấy được gọi là Thuần nhất. Thuần nhất chỉ trạng thái chưa phân ranh, là cảnh giới lý tưởng tuyệt đối, là bổn tâm bổn tánh của mọi chúng sanh . Từ Thuần nhất phát sinh vô số hiện tượng, nếu chạy theo hiện tượng là theo ngọn quên gốc. Tu là trở về nguồn cội, tìm lại bản tâm; là vẫy vùng để thoát khỏi thế giới tương đối Đa thù, trở về thế giới tuyệt đối Thuần nhất. Một vị Tôn túc đã luận về hai chữ Hòa thượng như sau: Hòa là thuần nhất bất tạp, là khởi nguyên của vạn loại nhân sinh tức tri kiến Phật; Thượng là vạn loại xưng tôn, được muôn loài chúng sanh xưng tụng tôn kính. Người tu đến lúc tâm trở nên thanh tịnh thuần nhất thì xứng đáng được muôn loài tôn kính cúng dường.

   Thuần nhất và Đa thù không phải là hai mặt đối lập, tương phản nhau, cái này có thì cái kia không và ngược lại. Chúng tồn tại song song nhau, nương nhau mà hiện hữu. Thuần nhất nằm ngay trong Đa thù, Đa thù là hiển hiện bề mặt của Thuần nhất. Không tìm Thuần nhất ở ngoài Đa thù, không tìm bản chất ở ngoài hiện tượng. Thuần nhất không phải một khái niệm thuần lý, cũng không là một thực thể có hình tướng cho ta nắm bắt, một trạng thái có thể thức tri tưởng tri. Nếu không nhận định rõ điều nầy, thì dù đạt cảnh giới thiền định sâu xa, đó vẫn là trạng thái bị phân hóa có sở đắc như Niết-bàn Hoá thành.

II.  KHẢ TÍNH BẤT NHỊ CỦA THUẦN NHẤT VÀ ĐA THÙ.

   Khả tính bất nhị của cặp phạm trù nầy biểu hiện trên rất nhiều phương diện, vì thế giới hiện thực vốn muôn màu muôn vẻ. Ở đây, chúng ta sẽ khảo sát một vài khía cạnh để minh họa vấn đề nầy.

1. Tĩnh và động:

   Thiền sư Sư-Nhan Đoan-Nham, lúc còn hành khước, đến Ngài Nham Đầu, hỏi:

- Thế nào là lý bản thường?

   Ngài Nham Đầu đáp:

   - Động.

   - Khi động thì thế nào?

   - Chẳng phải lý bản thường.

Sư trầm ngâm giây lâu. Ngài Nham Đầu liền nói:

- Chấp nhận tức chưa ra khỏi căn trần; chẳng chấp nhận tức hằng chìm sanh tử.

   Sư nhân đây lãnh hội.

   Câu trả lời của Ngài Nham Đầu điều hợp giữa Tĩnh và Động, hiển bày lý Trung Đạo. Sư Đoan Nham hỏi về lý bản thường là thể tánh bất động tuyệt đối, Ngài dùng cái động để đáp và ngược lại. Những câu đáp dường như mâu thuẫn nhau, trườn uốn, văn vẹo khó nắm bắt, nhưng đó là thủ thuật rất khéo giúp người nghe khỏi chấp chặt một bên. Sư Đoan Nham trầm ngâm suy nghĩ là đã  khởi ý hiểu thức tưởng, nên Ngài Nham Đầu phải bồi một gậy cho con khỉ ý thức chết lịm: “Chấp nhận tức chưa ra khỏi căn trần; chẳng chấp nhận tức hằng chìm sanh tử”. Chấp nhận lý bản thường là có sở thủ sở đắc, tức đã phân chia năng- sở chủ – khách, vì thế chưa ra khỏi sự phân biệt căn trần. Chẳng chấp nhận lý bản thường tức trạng thái trầm không trệ tịch, không phải là sự buông xả tự tịnh tự tri của bản tánh, nên vẫn còn chìm trong sanh tử. Phần đông phàm phu chạy theo động tức những hiện tượng đa thù, sanh tâm ái luyến các pháp nên tạo nghiệp, không thoát khỏi luân hồi. Nhị thừa thì chấp vào trạng thái chứng đắc, vào sự tĩnh lặng của tâm, như thế vẫn còn có ngã là ta chứng, ngã sở là cảnh giới chứng đắc của ta. Tâm chấp vào động của phàm phu và vào bất động của Nhị thừa đều chưa phải yếu chỉ, vì còn mắt kẹt hai bên, chưa phù hợp Trung đạo đệ nhất nghĩa đế.

   Thật ra, động và tĩnh chỉ là hai trạng thái đắp đổi của tâm, không phải tồn tại độc lập với nhau, cũng không phải đối nghịch nhau một cách cứng nhắc. Khi tu theo lối đè dẹp vọng tưởng, ta nghĩ tâm được an nhưng một thời gian sau, gặp chướng duyên ta lại thấy vọng tưởng còn lẫy lừng hơn trước. Do ý thức phân biệt tiềm ẩn, ta không nhận trạng thái động là ngã nhưng lại nhận tĩnh là ngã, dù là cái ngã vi tế. Ta không biết rằng, bản tâm chân thật vốn tự an tự tri, chứ không miễn cưỡng để có an có biết. Chỗ lặng lẽ vốn có của tự tánh là lặng lẽ mà vẫn có dụng chiếu soi, như gương sáng vốn lặng mà vốn chiếu. Nơi bất động thanh tịnh vẫn khởi động dụng của thân tâm, đây là ý nghĩa uyên áo của cặp phạm trù Thuần nhất – Đa thù trên lĩnh vực Tĩnh và Động.

   Truyện ngụ ngôn của La Fontaine kể về một cô gái bán sữa. Buổi sáng, cô đội bình sữa đi bán. Vừa đi vừa suy tính, bán xong sữa nầy sẽ mua trứng gà về ấp. Trứng nở thành gà con. Gà lớn, cô bán mua heo. Heo nuôi lớn, cô bán mua dê… Dê cái sinh được mấy chú dê con, chạy nhảy rất vui. Cô tưởng tượng đàn dê nhảy nhót, cô nhảy theo và làm rơi vỡ bình sữa. Thế là chẳng còn sữa, chẳng còn gà heo dê. Con người chúng ta vẫn thường cho tư tưởng chạy bốn phương tám hướng như thế, khác nào cô gái nói trên. Hình ảnh Tề Thiên Đại Thánh có phép Cân đẩu  vân là tượng trưng của ý thức con người , có khả năng bay lượn khắp nơi chốn, lại có thể trở về bao nhiêu thời gian quá khứ hoặc mơ tưởng bao nhiêu bước tương lai. Tuy nhiên, dù tài phép đến bậc nào, Tề Thiên cũng không thể bay qua khỏi bàn tay Phật Tổ; dù ý thức suy tưởng động dụng cỡ nào, cũng không ra khỏi nguồn gốc thường tịnh của thể tánh chơn như. Ví như muôn đợt sóng to nhỏ trong đục khác nhau, dù sanh dù diệt cũng không bao giờ ra ngoài mặt biển. Chúng ta nhiều lúc thấy bất an nên có ý niệm đi tìm sự an ổn nội tâm. Nhưng tâm an ấy cũng chỉ là khách; còn cái gì quán xuyến tất cả những tình huống an – bất an, tĩnh – động…, cái ấy luôn hiện tiền và siêu việt mọi chấp trước nhị biên. Sự chứng ngộ không phải trạng thái bất động mà là thường chuyển, nhưng tuy thường chuyển mà vẫn tự do. Phàm phu chúng ta ở nơi động và động chuyển theo, nên quay cuồng theo cảnh. Các bậc ngộ đạo thì ở nơi động mà vẫn luôn ở trong sát-na hiện tiền bất động, nên các Ngài rất tự tại nơi trần thế; vẫn làm mọi việc giúp người mà luôn sống với tự tánh thanh tịnh thường nhiên. Và vì tự tánh là “Không một vật”, không đến không đi, không hề biến đổi, nên Lục Tổ bảo rằng: “Đối cảnh tâm thường sanh, Bồ-đề làm gì lớn”.

2. Thể và dụng:

   Kinh Hoa Nghiêm có câu: “Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất”. “Nhất” là trạng thái chưa phân hóa của vạn vật, là thể tánh thanh tịnh thuần nhất của muôn pháp. “Nhất thiết” là tình trạng đã phân hoá, là biểu tướng đa thù sanh diệt, là diệu dụng của Nhất. Kinh Niết –Bàn, Đức Phật dạy mọi chúng sanh đều là Phật vì đều sẵn đủ thể tánh chân như. Ví như vàng trong quặng, dù còn lẫn nhiều tạp chất nhưng bản chất vàng không bao giờ mất. Vì bản chất vàng không bao giờ mất nên khi được tinh luyện, liền trở thành vàng ròng. Tu hành có nghĩa là lọc bỏ những tập khí phiền não để hiển lộ Phật chất có sẵn của mỗi người.

   Muôn loài chúng sanh, thật ra chỉ khác nhau về nghiệp. Do nghiệp tự tạo không đồng nên chánh báo và y báo không ai giống ai. Tuy nhiên, tận cội nguồn tâm thể thì tất cả đều bình đẳng; như muôn ngàn đợt sóng, dù khác nhau về hình tướng nhưng cùng bản chất nước. Hình tướng thì đa thù, bản chất luôn thuần nhất; trong lúc động dụng thi vi thì hình tướng biến đổi sanh diệt, còn bản chất luôn hiện hữu và không hề thay đổi bao giờ.

   Thiên giang hữu thủy  thiên giang nguyệt,

   Vạn lý vô vân vạn lý thiên.

    Một vầng trăng trên trời soi bóng thành ngàn vầng trăng dưới nước; bầu trời có một, nhưng nơi nào không mây nơi đó có bầu trời. Trăng và bầu trời chỉ thể tánh thuần nhất; ngàn trăng dưới nước và muôn dặm trời chỉ diệu dụng đa thù. Thể thì có một nhưng phát sanh vô số dụng, và tu có nghĩa là phăng từ dụng tìm về thể tánh. Ý nghĩa chăn trâu của nhà Thiền, từ dấu chân trâu là dụng, phăng tìm về nguồn thấy trâu là thể, tức từ vọng phăng về chơn tâm. Vì thế, không thể bỏ vọng tìm chơn, bỏ đa thù mà tìm được thuần nhất. Con người chúng ta nhỏ nhoi và sống đời sống ngắn ngủi trong vũ trụ bao la, trong thời gian vô tận, nhưng trong cái nhỏ nhoi có biểu hiện của bao la, trong đời sống hữu hạn có biểu hiện nguồn nhân sinh vô hạn. Trong cuộc trường chinh sanh tử, lăn lộn theo sáu nẻo luân hồi, chúng ta đều sống chung với Phật; có điều ta không biết nên cứ mãi làm kẻ bần cùng sống bên gia tài đồ sộ. Đây là bi kịch của chúng sanh, và các bậc Giác ngộ thương tất cả chúng sanh cũng vì bi kịch vô minh ấy.

   Một lần Tôn giả Xá-Lợi-Phất đến bạch cùng Đức Phật: “Bạch Thế Tôn, tất cả chư Phật mười phương không vị nào có trí tuệ như Thế Tôn”.  Đức Phật trả lời: “Này Xá-Lợi Phất, Ông đừng nói như thế. Chư Phật mười phương đều bình đẳng ở trí tuệ và công hạnh đô sanh”. Nhiều cây đèn cùng đặt trong phòng, tuy hình dạng khác nhau nhưng ánh sáng chỉ có một thể. Chư Phật đều có trí tuệ như nhau, công hạnh viên mãn; chỉ có những phương tiện đô sanh khác nhau nên mỗi vị thiết lập Tịnh- độ riêng , tùy nguyện lực của mình. Các bậc Đại Bồ-tát cũng thế, tùy hạnh nguyện của các Ngài mà chúng ta tôn xưng bằng nhiều hồng danh riêng biệt: Vị Bồ-tát chuyên  quán xét tiếng kêu cứu của thế gian, tùy cảm tùy ứng mà hoá độ, được tôn la Đại từ Đại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát ; vị Bồ-tát thệ nguyện đô tất cả chúng sanh cõi Địa ngục với lời nguyền sấm sét : “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật”, được chúng ta vô cùng kính ngưỡng dưới danh xưng U minh Giáo chủ Đại nguyện Địa-Tạng-Vương Bồ-tát… Các ngài từ thể tánh chân như thuần nhất, phát khởi diệu dụng như hằng sa, muôn hình ngàn trạng để muôn loài đều được thấm nhuần ơn đức.

   Tinh thần Thể - Dụng được biểu hiện rõ trong Tâm kinh Bát-Nhã chúng ta đọc tụng mỗi ngày: Sắc là dụng với muôn màu muôn vẻ, nhưng bản thể của tất cả đều Không. Không ở đây chẳng phải không có gì, mà là không có tự thể. Muôn pháp đều do các duyên hợp lại mà thành, khi hết duyên, chúng trở về không. Một cái hoa do từ những cái không phải hoa tụ hội theo một cách thức, một trình tự nào đó; rồi sau một thời gian, hoa héo rồi tàn và cuối cùng trở lại hư không. Như vậy, Sắc do các Phi sắc kết hợp theo duyên, tức từ Không mà có; lúc hết duyên, Sắc thành Không. Lại nữa, chẳng phải trước khi Sắc sanh hoặc sau khi Sắc diệt mới là Không, mà trong hình tướng Sắc đã là bản thể Không ngay đó. Vì thế, Sắc tức Không và Không tức Sắc; Không là thể tánh thuần nhất, Sắc là động dụng đa thù.

3. Lý tưởng và hiện thực:

   Lục Tổ có bài kệ nổi tiếng:

               Phật pháp tại thế gian

               Bất ly thế gian giác

               Ly thế mích Bồ đề

               Kháp như tầm thố giác.

Lông rùa và sừng thỏ được xem như những vật không có thực, và người tu xa lánh thế gian tìm cầu giác ngộ cũng giống như kẻ bỏ công kiếm sừng thỏ lông rùa. Ngày nay, tại một vùng ở Trung Quốc đã thấy xuất hiện loại rùa xanh có lông trên mai, và có người đã chụp được bức ảnh một con thỏ có sừng. Nhưng dù lông rùa và sừng thỏ là thực tại đã hiện hữu, thì ý nghĩa của bài kệ vẫn luôn là chân lý. Không thể tìm Phật pháp ngoài thế gian, không thể tìm thế giới lý tưởng ngoài cảnh đời hiện thực.

   Thế giới hiện thực chúng ta đang sống là hoàn cảnh chánh báo và y báo của tất cả chúng sanh. Thế giới nầy có tính lưỡng thể: âm và dương, sanh và tử, hạnh phúc và đau khổ…, biến đổi không dừng và biểu hiện bằng vô số ảnh tượng, tùy nghiệp lực của từng loài. Ví như cùng một dòng sông, đối với loài cá là môi trường sống, với loài ngạ quỷ là một dòng thác lửa, với chư thiên lại là dãy lưu ly … Loài người chúng ta, nhìn một cảnh nhưng cũng có những cái thấy khác nhau; hoặc tùy tâm trạng lúc vui lúc buồn mà thấy cảnh tượng khi thế nầy khi thế khác. Tất cả những biến đổi thiên hình vạn trạng của thế giới đa thù nầy đều do tâm ta xáo động bất an, lại đem tri kiến đầy ngã chấp của ta áp đặt lên các pháp. Rồi sau đó, chúng ta thấy cuộc đời nhiều khổ não, đầy bon chen xấu ác, muốn tìm đến một nơi hoàn toàn an lạc thiện lành. Ta phân biệt rạch ròi giữa một thế giới lý tưởng thuần nhất với cảnh giới hiện thực đa thù ta đang sống. Ta tu hành cũng với mục đích vươn đến cái vô hạn, cái mênh mông phi thời gian, nhất là khi gặp hoàn cảnh bức bách khốn cùng, vì ta thấy  mình là sinh linh nhỏ nhoi yếu đuối.

   Tuy nhiên, ý nghĩa tu hành không phải là sự trốn tránh thế gian tìm cầu Phật pháp, mà là chuyển hoá tự tâm. Khi tâm ta thanh tịnh thì nơi nào cũng là Tịnh độ, dù đang ở cõi trần; nếu còn phiền não bất an thì ở đâu cũng chỉ là cảnh đời đau khổ. Các Thiền sư khi nghe hỏi thế nào là đại ý Phật pháp, thường trả lời bằng những cảnh những vật đang hiện hữu, như cây bá trước sân, ba cân gai, chén trà … Phật pháp ở ngay hiện tượng giới, là bất cứ pháp thế gian nào. Phàm phu chúng ta để tâm dong ruổi bốn phương, lúc đối duyên xúc cảnh luôn khởi niệm phân tích, nên mỗi ngày đều uống trà mà có thấy Phật pháp ở đâu. Các Ngài do tâm tĩnh lặng mà hằng tri, dung thoát mọi trần cảnh, nên Phật pháp tại hiện tiền. Hoa sen chỉ mọc tốt tươi và tỏa hương tinh khiết ở chỗ bùn nhơ nước đục, các bậc Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ phải thị hiện vào cõi Ta-bà mới thành tựu Phật quả. Đối với các Ngài, Tịnh độ và Ta bà không hai, như Thiền sư Đạo Giai nói: “Sanh không thích Thiên đường, tử không sợ Địa ngục. Buông tay đi ngang ngoài tam giới, mặc tình vươn bổng nào buộc ràng”.

   Có người hỏi một Thiền sư :

   - Thế nào là Phật ?

   Ngài trả lời :

- Ông già phàm phu.

Câu đáp mới nghe dường như quá vô lễ, nhưng thật đã đền ơn Đức Phật đến tột cùng. Chúng ta thường nghĩ về Đức Phật như một đấng siêu nhiên, luôn ở trong tư thế kiết già trên toà sen, hay khoác cho Ngài những chiếc áo mầu nhiệm khác thường. Nhưng khi Đức Phật còn tại thế, Ngài vẫn sinh hoạt, nói năng, vẫn làm mọi việc như người thường; chỉ khác ở chỗ Ngài làm mà không khởi vọng niệm, làm với tâm vô trụ vô trước nên luôn ở trong đại định. Ngài không sống nơi thế giới lý tưởng xa rời thực tế, mà là một người bình thường nhưng phi thường vì dứt sạch phiền não lậu hoặc. Những pháp tu Ngài dạy chúng ta không trốn chạy sự sống, không xa lánh cuộc đời, mà luôn biểu hiện sức sống nơi dòng chảy bất định của muôn pháp. Từ chỗ nầy, nhà Thiền có công án nổi tiếng : “Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ ?” (muôn pháp về một, một về chỗ nào ?). Muôn phápmột là bất khả phân, vì muôn pháp là ngọn, còn một là nguồn. Đã là nguồn thì còn trở về đâu nữa ? Muôn pháp hình thành nên thế giới hiện thực; một là thế giới lý tưởng, là bản tâm chân thật bất sanh của tất cả mọi loài. Nếu ta còn thấy lý tưởng và hiện thực là hai đối cực, thì ta vẫn còn tâm lấy bỏ, còn trụ vào Niết-bàn Hoá thành mà không siêu vượt được mọi đối đãi nhị nguyên, thể nhập Niết-bàn Bảo sở.

4. Thể tánh và vạn tượng:

   Thiền sư Tam Bình Nghĩa Trung có bài kệ :

               Tức thử kiến văn phi kiến văn

               Vô dư thinh sắc khả trình quân.

               Cá trung nhược liễu toàn vô sự

               Thể dụng hà phòng phân bất phân.

   Dịch:

               Chính nơi thấy nghe chẳng thấy nghe

               Không còn thinh sắc để trình anh.

               Trong ấy nếu liễu toàn vô sự

               Thể dụng ngại gì phân chẳng phân.

   Nơi thấy nghe vẫn hay biết rõ ràng, nhưng không khởi niệm biện giải nên cũng như chẳng thấy nghe. Tri kiến vô kiến chính là Niết-bàn, vì không tạo ý nghiệp tức không còn sanh tử. Nơi thinh sắc nếu tự liễu hội tất cả đều vô sự, tức hiện tiền không một vật, thì như trồng hoa trên đá, cần chi phân biệt tánh-tướng lý-sự. Đây là cái thấy của bậc đạt đạo, hoàn toàn thể nhập bản tánh bất sanh.

   Nhưng từ đâu bậc đạt đạo ngộ ra thể tánh ? Một Thiền sư bảo tri sự đánh kiểng họp chúng tại phương trượng. Ngài bảo, ta chuẩn bị ra đi, hãy nghe ta nói kệ. Toàn chúng yên lặng chờ nghe, lúc ấy bỗng có tiếng chuột kêu. Ngài an nhiên thị tịch, không thêm lời nào, vì tiếng chuột kêu là bài kệ quá sống động rồi. Một thiền khách mới đến, nghe tiếng roi của Tri sự đánh, liền ngộ đạo. Thiền sư Linh Hựu tỏ ngộ nhờ Tổ Bá Trượng vạch trong lò được chút than lửa, đưa cho. Đạo lý gì ở những biểu hiện trùng điệp của vạn tượng?.

   Các pháp tuy thiên sai vạn biệt nhưng đồng nhau ở tính chất duyên sinh giả hợp. Chúng là sự hội tụ của các duyên, Sanh là tạo ra; Chúng sanh có nghĩa là nhờ các duyên tụ họp nhau mà sanh khởi. Các pháp trong vũ trụ là chúng sanh vô tình, con người và các động vật là chúng sanh hữu tình; tất cả được gọi theo danh từ Duy thức học là Y tánh duyên khởi pháp.Y tánh là từ tánh Không, Duyên khởi là nhờ duyên mà sanh khởi. Không có pháp nào rời thể tánh mà có thể sanh ra, nên dù hình tướng khác nhau nhưng vẫn đồng nhau ở thể tánh. Vạn tượng thì đa thù, thể tánh thì thuần nhất không tạp. Tất cả đạo lý đều quy thú về thể tánh, như đạo Phật có thuyết Chơn như duyên khởi, Chơn như là thể tánh, Duyên khởi ra vạn tượng; Lão Tử chủ trương “Muôn vật sanh ra từ cái có, Có sanh từ nơi Không”. Khổng Tử gọi cái Không ấy là Thiên lý, Thiên mệnh; Đạo Thiên chúa cho rằng Chúa trời là Đấng sáng thế tạo ra toàn thể vũ trụ nhân sinh. Triết thuyết Đông phương có khái niệm Hình nhi thượng là Chơn như, Hình nhi ha là vạn tượng. Tuy các học thuyết dùng nhiều danh từ khác nhau, nhưng tựu trung cũng chỉ nói về cái bản thể không tên gọi ấy mà thôi.

   Chúng ta tu, chính là trở về với bản tâm thể tánh. Nhưng nhận ra thể tánh phải từ vạn tượng, như từ những con nước mà phăng tận đầu nguồn. Từ thể tánh phát sanh vạn tượng, và trong sự sống động của vạn tượng luôn luôn hiển bày thể tánh, nên thể tánh và vạn tượng không hai. Khi mê, chúng ta chạy đuổi theo các pháp, khởi niệm phân biệt, tạo nghiệp và thọ khổ. Nhưng ngay trong mỗi thân tứ đại vô minh đều có sẵn tánh giác chưa hề vắng thiếu. Nếu không có tánh giác thì người tu không thể thành Phật, như nấu cát không bao giờ thành cơm được. Có thể nói, lúc mê là chúng sanh, thấy các pháp hiện bày ngàn sai muôn khác; khi giác là Phật, các pháp trở về trạng thái nhất như. Các pháp không tự biến đổi, chỉ do tâm ta thanh tịnh hay não loạn mà hiển hiện nơi thể tánh thuần nhất hay vạn tượng đa thù. Mê là bóng tối, giác là ánh sáng. Khi đèn bật lên, mọi vật trong phòng hiện bày rõ rệt ; nhưng lúc chưa có đèn, mọi vật vẫn chưa hề biến đổi, chỉ vì tối tăm nên người lẫn lộn chúng mà thôi. Bậc Giác ngộ nhìn các biệt tướng rõ ràng trong một bản thể duy nhất, như gương soi rõ vật nào ra vật ấy, và khi không có vật, gương vẫn sẵn bản chất vốn lặng vốn chiếu xưa nay. Hiểu tường tận vấn đề này, ta sẽ rõ vì sao nhà Thiền không loại bỏ Đa thù thủ chứng Thuần nhất, vì chúng sanh và Phật là hai mặt của một tổng thể toàn vẹn bất khả phân ly.

III. ÁP DỤNG THỰC TẾ.

1. Khoa học và Đạo học:

Pascal nói: “Tôi tư duy, do vậy tôi hiện hữu”(Je pense, donc je suis). Tư duy là hành vi của ý thức, có phân biệt giữa chủ thể và đối tượng, có lúc sanh lúc diệt, khi đến khi đi. Nếu nhận tư duy là mình thì khi không suy nghĩ gì cả mà vẫn biết, cái biết đó là ai? Và nếu tư duy là mình thì chẳng lý nào mình lại biến thiên nhiều mặt buồn vui thiện ác … đến thế? Quan niệm “ Có tư duy là có mình” thật ra cũng hợp lý trên phương diện tục đế nhưng không chính xác trên chân đe, bởi vì ta lầm cái giả ngã động dụng là mình mà không thấy chân ngã bất động, nhận hình tướng sai biệt đa thù mà không nhận bản chất thuần nhất bất sanh. Đây là sự mê lầm của con người, và chư Phật thương chúng sanh một cách bình đẳng cũng vì cái vô minh ấy.

   Ngày nay, khoa học đã đi đôi hia bảy dặm để có những bước đột phá về cả hai lĩnh vực vũ trụ và nhân sinh. Tinh thần khoa học là dám hoài nghi và tiếp thu có chọn lọc những tri thức và kiến thức của nhân loại. Sở trường của khoa học là vận dụng chất xám trong suy luận, phân tích và tổng hợp để khám phá những bí mật của con người và thế giới, mục đích phục vụ cho cuộc sống con người. Tuy nhiên, vì có đối tượng là bản ngã nên khoa học lầm lẫn ngay từ đầu, vì còn ngã chấp là còn đau khổ, còn bất an. Nhiều thành tựu của khoa học lại bị  áp dụng để phục vụ cho tham vọng của con người, tạo điều kiện cho kẻ mạmh ức hiếp kẻ yếu, nước giàu lấn át nước nghèo. Ngay đối với ngành Y, một ngành khoa học có ý nghĩa cao đẹp là chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ con người, hiện tại cũng bị những người vô đạo đức biến thành một thứ kỹ nghệ, một ngành kinh doanh mới, thậm chí trở thành tội ác. Ví như kỹ thuật ghép nội tạng, mục đích cứu mạng sống cho bệnh nhân, nhưng có những tổ chức biến công việc này thành thị trường mua bán nội tạng, con người trở thành món hàng trao đổi. Từ đó những phương pháp điều trị hiện đại bỗng trở nên xa lạ với truyền thống nhân bản của ngành Y. Cho nên, một nhà khoa học đã nói “Khoa học không có lương tâm chỉ là sự hũy  hoại linh hồn”.

   Từ sự bế tắc của khoa học, một số nhà bác học quay sang nghiên cứu về Đạo học, và cho rằng thế kỷ 21 là thế kỷ của khoa học và tâm linh. Albert Einstein, nhà bác học hàng đầu thế giới của thế kỷ 20 đã nhận xét: “Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên mọi ý nghĩa thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy sẽ bao quát tất cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên cơ sở đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể mà không rời nhất thể. Phật giáo đáp ứng được những yêu cầu ấy”. Đạo Phật vượt lên ý nghĩa thần linh, vì Đức giáo chủ đã xác nhận mình chỉ là một vị Thầy dẫn đường, không là một đấng quyền năng ban phước giáng hoạ. Đạo Phật không có giáo điều vì không hề đưa ra những khuôn khổ cứng nhắc, không hề có giáo quyền bắt buộc người khác tuân theo; và nhờ uyển chuyển tùy duyên, suy tiến sự tự nguyện tự giác nên suốt 25 thế kỷ truyền đạo, chưa bao giờ làm hại một ai. Giáo lý  của đạo Phật không mang tính mặc khải thần học, mà bao quát cả tự nhiên lẫn siêu nhiên; tự nhiên là tự nó vốn có, tồn tại độc lập với ý thức con người như lý vô thường, nhân quả; siêu nhiên là sống ngay cảnh đời mà không bị đời ràng buộc. Người tu Phật biết thân mình là vô thường sanh diệt, nhưng ngay thân vô thường nhận ra tự tánh bất sanh; biết con người nhỏ nhoi hữu hạn, nhưng ngay thân phận hữu hạn nhận ra bản thể vô hạn bao la. Tự nhiên là thuộc Tục đế có sanh có diệt, siêu nhiên là Chân đế bất sanh; cả hai đều được liễu hội và tiêu dung trong tinh thần bất nhị độc đáo của nhà Phật. Và chính trong tinh thần ấy, những bậc đạt đạo đã có kinh nghiệm tổng thể lẫn biệt thể về vũ trụ vạn loại bằng sự thấy biết như thật. Đây là hành vi của trực giác Bát-Nhã, của trí vô sư nên không có ngã tướng. Những nhà tu Phật cũng là những khoa học gia, nhưng là khoa học tâm linh vượt lên trên khoa học vật thể, vì các Ngài khám phá được bản thể của muôn pháp và thực hành những phương tiện giúp mình giúp người vượt thoát trần lao sanh tử.

Như vậy, khoa học muốn là công cụ hữu ích thì phải song hành với Đạo học. Khoa học là hình thức đa thù của cuộc sống, Đạo học là nội dung thuần nhất của cuộc sống ấy. Hình thức và nội dung phải đi đôi, phải hòa hợp, phải quân bình. Nhiều người là Phật tử, nhưng do choáng ngợp trước sự phát triển vượt bực của khoa học mà muốn xét lại quan điểm của đạo Phật, cho rằng như thế là phù hợp với thời đại. Quả thật khoa học là phương tiện hữu ích để kiểm chứng và xác định giá trị của giáo lý đạo Phật, nhưng không vượt qua được hệ thống giáo lý ấy. Cái nhìn của khoa học chỉ phiến diện theo thức tri tưởng tri trong phạm vi thế gian mà không khám phá được pháp giới, và không bơi lội vào trạng thái siêu nhiên của những bậc đạt đạo. Đối tượng nghiên cứu của khoa học chỉ ở trong thế giới hữu hình, tinh tế nhất là dạng sóng và hạt cũng chỉ là hữu hình trong vũ trụ; trong khi đạo Phật bao quát cả pháp giới vừa hữu hình vừa vô hình. Đức Phật bằng cái thấy minh triết, đã triển khai cặn kẽ về lý duyên sinh vô thường của các pháp, đồng thời chỉ dạy cùng tột về bản thể chân như vô tướng. Ánh sáng khoa học lần lượt soi rọi những bí mật về vũ trụ nhân sinh, càng chứng minh những điều Đức Phật đã nói trước đây 25 thế kỷ là vô cùng chính xác. Và trí tuệ siêu xuất của Ngài đã làm thế giới văn minh phương Tây ngạc nhiên bái phục, đến nỗi một lần nữa, Einstein phải thừa nhận: “Nếu có một tôn giáo nào thoả mãn được các nhu cầu của khoa học hiện đại, thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hoá với những khám phá mới. Phật giáo không cần từ bỏ quan điểm của mình để theo khoa học, vì Phật giáo bao gồm cả khoa học, và hơn thế, vượt qua khoa học”.

   Trong cuộc sống thường nhật, nếu con người áp dung khoa học song song với Đạo học, nếu nền văn minh nhân loại có đạo đức soi đường, thì cuộc đời là Thiên đàng hạnh phúc. Có đạo lý, sự vui tươi giải trí mới có ý nghĩa, nếu không thì chỉ thỏa mãn những thị hiếu, những dục vọng tầm thường. Một số thanh thiếu niên ngày nay không có hướng đi đúng đắn, gia đình quá nuông chìu, đã lãng phí tuổi xuân vào những cuộc vui không lành mạnh, cuối cùng chuốc lấy những hậu quả khó lường. Ngay cả những tiện nghi sinh hoạt, người sản xuất phải luôn thay đổi kiểu dáng, mặt hàng và đủ cách tiếp thị , khuyến mãi. Con người cứ thế bị vây hãm trong trường hỗn độn của màu sắc, mùi vị, âm thanh; bị lôi kéo bởi tính đa thù của sự vật bên ngoài mà quên mất thể tánh thuần nhất bên trong. Từ đó, đánh mất luôn sự bình an muôn thuở.

   Ném một hòn sỏi xuống hồ, sức chấn động từ hòn sỏi tạo thành những vòng tròn đồng tâm lan khắp mặt hồ. Đây là ảnh hưởng tương tác. Biệt nghiệp của mỗi chúng sanh khác nhau, nhưng cộng nghiệp cũng ví như sự lan truyền của chấn động nói trên. Mỗi người có ảnh hưởng hỗ tương với những người xung quanh và môi trường họ đang sống. Ta khởi một niệm ác thì niệm ác này có tác dụng xấu ra chung quanh; nếu tâm từ phát sinh thì cả cây cỏ chim muông cũng đều cảm nhận được. Điều này thấy rõ khi ta ở gần một vị chân tu đắc đạo, từ trường của Ngài tỏa lan khiến ta có cảm giác bình an tươi mát, dù Ngài không làm gì, nói gì.

   Đức Khổng Tử đã nói : “Chỉ có bậc thượng trí và kẻ hạ ngu là chẳng thể dời đổi. Những hạng trung gian có thể chuyển đổi từ ác sang thiện và ngược lại”. Chúng sanh đa phần không hiểu đạo lý, mãi tạo nghiệp hư vọng điên đảo, không việc ác nào chẳng làm, không việc làm nào chẳng ác, như kinh Hoa Nghiêm diễn tả: “Giả sử nghiệp ác có hình tướng thì mười phương hư không cũng chẳng dung chứa hết”. Đó là nhân đọa vào ba đường dữ. Người biết đạo đức, bỏ ác làm lành là tiến một bước trên đường hướng thượng, tạo phước báo nhơn thiên, nhưng còn hữu vi hữu tướng, nên chưa ra khỏi luân hồi. Các vị Thánh Nhị thừa lánh xa tướng đa thù, rũ sạch nợ đời đoạn ly sanh tử, trở về bản thể  thuần nhất bất động và an trú trong đó. Các Bậc Bồ–tát và những vị A-la-hán lợi căn thì sau khi liễu đạo, các Ngài thấu triệt tinh thần bất nhị nên siêu vượt thiện-ác, phiền não và Bồ đề, phát nguyện trở lại Ta-bà độ tận chúng sanh.

2. Áp dụng trong công phu:Từ đa thù nhận ra thuần nhất.

 Là thiền sinh, chúng ta phải có công phu thiền tập. Dù tư biện huyền đàm khéo giỏi đến bao nhiêu mà không đi sâu vào mảnh đất tâm của chính mình, thì chỉ như đếm tiền dùm người khác. Chứng nghiệm Thiền không nhờ chữ nghĩa chuyên chở, mà nhờ quá trình tu tập giúp mình nhận rõ từng dấu vết của tâm niệm, từng sự biến đổi của vạn hữu, từ đó phăng tìm nguyên uỷ là thể tánh tự tịnh tự tri. Đây là tiến trình bơi ngược dòng nước, từ vạn tượng đa thù nhận ra bản thể thuần nhất.

    Con người chỉ tin vào những điều mắt thấy tai nghe, và cho đó mới là trí tuệ. Thật ra, có những việc ở ngay trước mắt mà nhục nhãn không thấy được, trí óc giới hạn của con người không hiểu thấu. Thấy biết được thì cho là có, không thấy biết cho là không; nhưng có và không đều do ý thức lập bày, mà ý thức chỉ là phần nổi của tâm. Tâm là bản thể, là nguyên ủy của mọi sự vật hiện tượng, là họa sĩ vĩ đại vẽ ra hoàn cảnh chánh báo và y báo của chúng sanh. Đức Phật dạy: “Tam giới hư vọng đản thị nhất tâm tác”, ba cõi đều hư  vọng, chỉ do một tâm tạo ra. Tùy phước nghiệp và tâm mỗi người mà các pháp biểu hiện thành nhiều vẻ khác nhau. Chỉ một tâm mà tạo dựng muôn loài chúng sanh cùng khắp pháp giới; nên nếu muốn nhận ra tâm, phải phăng tìm từ muôn pháp hay từ thân năm uẩn của chính mình.

   Kinh Pháp Hoa có bốn câu kệ:

               Chư pháp tùng bổn lai

               Thường tự tịch diệt tướng.

               Phật tử hành đạo dĩ

               Lai thế đắc tác Phật.

   Nghĩa:

               Các pháp từ xưa nay

               Tướng thường tự vắng lặng.

               Phật tử hành đạo rồi

               Đời sau được thành Phật.

   Từ xưa đến nay, tuy biểu tướng các pháp là biến đổi vô thường, nhưng thực tướng thường tự vắng lặng. Chúng ta chỉ có cái thấy hời hợt bên ngoài, lại đem ý thức áp đặt lên các pháp nên thấy chúng náo động sanh diệt. Nếu nhìn thấu thể các pháp, nhận ra thực tướng vô tướng của chúng, là cái thấy phản tỉnh trở về nguồn cội. Công phu như thế, Phật tử có thể cùng chư Phật chư Tổ song hành. Sơ Tổ Trúc Lâm Yên Tử lúc sắp tịch, bảo môn đệ Bảo Sát: “Đến giờ ta đi”. Bảo Sát hỏi: “Tôn đức đến nơi nào?”.  Ngài đáp:

               Nhất thiết pháp bất sanh

               Nhất thiết pháp bất diệt

               Nhược năng như thị giải

               Chư Phật thường hiện tiền

               Hà khứ lai chi liễu dã.

   Nghĩa:

               Tất cả pháp chẳng sanh

               Tất cả pháp chẳng diệt

               Nếu khéo hiểu như thế

               Chư Phật luôn trước mắt

               Làm gì có đến đi.

   Khi nhận rõ các pháp xưa nay tướng thường tự vắng lặng, thì đương sanh mà vô sanh, đương diệt lại vô diệt. Do vậy, phải tìm vô sanh ngay các pháp sanh, tìm vô diệt ngay các pháp diệt. Khéo hiểu điều này, chư Phật ở ngay đương xứ chưa hề đến đi, nên gọi Vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ. Chư Phật thường hiện tiền vì chư Phật là thể tánh thanh tịnh nơi mọi chúng sanh cùng khắp pháp giới.

   Trong kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy:

               Nhược nhơn dục liễu tri

               Tam thế nhất thiết Phật

               Ưng quán pháp giới tánh

               Nhất thiết duy tâm tạo.

   Nếu muốn liễu hội trọn vẹn ba đời chư Phật, hành giả phải quán tánh pháp giới, tất cả đều do tâm tạo. Tánh pháp giới là Không tánh, bản chất bất động an nhiên; khi châu lưu thì thể hiện bằng nhiều hình tướng. Mọi cảnh giới đều do tâm tạo, thân năm uẩn cũng từ tâm mà có. Khi nào còn phân biệt giữa chủ thể và đối tượng nhận thức, giữa ta và cảnh, ta còn chưa vượt được rào cản nhị nguyên, còn quẩn quanh giữa hình thái đa thù của pháp giới. Khi tâm hoàn toàn lặng lẽ, đối cảnh không khởi niệm mà vẫn thường hay biết, ta nhận ra thực tướng của các pháp. Như vậy, ngay những hình tướng muôn trùng của sự vật, khi không còn hoạt động của thức tri tưởng tri tức sản phẩm của thức, hành giả thấu suốt pháp giới tánh nhờ thắng tri, nhờ trực giác phóng xuất. Ấy là từ biểu tướng đa thù nhận ra thực tướng thuần nhất của muôn pháp.

   Tổ Lâm Tế một hôm bảo trước chúng:

   - Trên cục thịt đỏ có Vô vị chân nhân, thường từ cửa mặt các ông ra vào. Người chưa được chứng cứ hãy xem, xem!

   Một vị tăng bước ra thưa hỏi:

   - Thế nào là Vô vị chân nhân?

   Tổ bước xuống pháp toà, nắm cổ áo của vị tăng và nạt: “Nói! Nói!”. Vị tăng không đáp được. Tổ buông thỏng một câu:

   - Càn thỉ quyết! (Que phân khô)

   “Vô vị chân nhân” là chân nhân không ngôi thứ, chỉ bản tâm vô nhất vật. Bản tâm không hình tướng, trùm khắp vạn tượng, lưu xuất từ thân ngũ uẩn nên nói trên cục thịt đỏ có Vô vị chân nhân. Từ bản tâm hiển lộ ra sáu căn, nên nhà Thiền gọi là tánh thấy nghe hay biết. Tổ bảo người chưa chứng cứ hãy xem, nhưng chưa nhận ra bản tâm thì làm sao xem thấu? Vị tăng cũng đã có chỗ thấy, nhưng chưa sống hoàn toàn với bản tâm, nên khi Tổ lấn át bằng cơ phong cao vút thì vị tăng mất định tĩnh, không thể trả lời. Cuối cùng, Tổ buông câu Càn thỉ quyết, có tính cách thô lỗ giúp đương cơ bặt vọng niệm trực nhận vấn đề, nhưng vị tăng chạy theo tiếng nên đã lầm qua. Những người sau nầy cũng mãi mê giải thích bao điều về que phân khô, tất cả đều bị đầu lưỡi Thiền sư đánh lừa.

   Ngài Ngưỡng Sơn Huệ Tịch là môn đệ xuất cách của Tổ Qui Sơn Linh Hựu. Bữa nọ chăn trâu dưới núi, Ngài thấy một vị tăng lên núi cầu pháp với Tổ, nhưng chẳng bao lâu lại xuống. Ngài bèn hỏi:

   - Thượng tọa sao không lưu lại?

   Vị tăng đáp:

   - Vì nhơn duyên không hợp.

   - Có nhơn duyên gì, hãy nói xem !

- Hòa thượng hỏi tôi tên gì, Tôi đáp  Qui Chơn. Hòa thượng hỏi tiếp, Qui Chơn ở đâu? Tôi không đáp được.

   Ngài Ngưỡng Sơn nói:

- Thượng tọa hãy trở lên, trình Hòa Thượng rằng, Qui Chơn trong mắt, trong tai, trong mũi…

Vị tăng nghe theo, trình Tổ đúng như thế. Tổ quở:

- Kẻ nói suông vô ích, đây là lời Thiện tri thức của năm trăm người!

   “Qui Chơn” là trở về nguồn cội. Nhân tên của vị tăng hành khước, Tổ muốn người nhận ra thể tánh từ sáu căn. Vị tăng chưa rõ lối vào, chỉ theo lời Ngài Ngưỡng Sơn mà đối đáp, nên bị Tổ quở là kẻ nói suông. Chúng ta ngày nay có nhiều cơ hội nghe giảng về yếu lý trong đạo, dễ dàng hiểu được những điều mà người xưa trăn trở nhiều năm. Nhưng người xưa khi nhận ra là thực thấy bằng trực giác Bát-nhã, còn chúng ta chỉ hiểu bằng ý thức phân biệt, thật cách nhau muôn trùng. Đây là điều chúng ta cần ghi nhớ.

   Thiền sư Bảo Phước khi thấy Ngài Sư Bị đến, liền lấy gậy đánh cây cột cái, sau đó đánh Ngài. Ngài Sư Bị la đau. Thiền sư hỏi: “Sao ta đánh cây cột nó không la đau?”. Ngài không đáp được. Ngày nay ta có thể trả lời ngay, vì cây cột là vật vô tri, làm sao biết đau, làm sao biết la ? Nhưng thật sự, đây là cách Thiền sư giúp Ngài Sư Bị phản tỉnh. Thân mình có khác gì cây cột, cũng do các duyên hợp lại mà thành. Chỉ do thức tâm gá vào nên chấp ngã, bảo tôi đau. Cái tôi chủ thể tức bản tâm, cái biết đau ấy, có đau bao giờ ? Đau khổ là do tâm chấp ngã, nhưng nếu từ cái đau mà phăng ra cái biết đau, ta trực nhận Tánh biết nơi thân. Đọc trong Thiền sử, ta thấy rất nhiều cơ hội các Thiền sư tạo cho môn sinh, nhân các pháp hiện tiền nhận ra Tánh biết lung linh qua sáu căn. Đây cũng là cách Đức Phật chỉ cho Ngài A-Nan nhận ra Tánh thấy Tánh nghe, diễn tả trong kinh Lăng Nghiêm: Cánh tay Đức Phật giơ lên, Ngài A Nan thấy có cánh tay; lúc cánh tay hạ xuống, cái thấy đâu có mất, nếu mất làm sao thấy không có cánh tay? Khi đánh tiếng chuông, Ngài A-Nan nghe có âm thanh; khi tiếng chuông lặng, vẫn nghe không có tiếng chuông chứ chẳng phải không nghe. Có tay có tiếng là do đủ duyên mà các pháp hiện hữu, không tay không tiếng là vì hết duyên; còn tánh thấy tánh nghe luôn luôn hiện tiền, có lúc nào vắng mặt?

3. Công hạnh đô sanh: Từ thể tánh thuần nhất phát khởi diệu dụng đa thù.

   Khi vừa thành đạo, Đức Phật thấy tất cả chúng sanh đều có mầm mống giác ngộ, nhưng vì vô minh nên chìm đắm trong sanh tử. Nhưng lý Đạo lại quá cao siêu, nói làm sao cho người khác hiểu; e người nghe không tin không hội, trở lại phỉ báng càng thêm tạo tội. Vì thế, Ngài định nhập Niết-bàn.

   Chư thiên lúc ấy cầu thỉnh bao phen bằng nhiều lời thống thiết, Đức Phật mới trụ thế và chuyển pháp luân, nhưng dùng phương tiện tùy duyên giáo hoá. Mở đầu là Tứ Đế, Bát thánh đạo, Thập nhị nhân duyên…, tất cả ba thừa mười hai phần giáo đều là ngón tay chỉ mặt trăng, là những phương pháp tùy bệnh cho thuốc. Phương tiện thì vô số nhưng đều chỉ nhằm một mục đích duy nhất. Mục đích ấy, đến cuối đời tại pháp hội Linh Sơn, Đức Phật xương minh bằng cành sen xanh đưa lên và đôi mắt màu sen xanh nhìn khắp lượt đại chúng. Toàn thể pháp hội, im lặng ngơ ngác; nhưng kìa, một ánh mắt tri âm ! Đức Phật và Ngài Ca-Diếp nhìn nhau, một phút giây thành vĩnh cửu. Ấy là hội tam quy nhất, cả ba thừa Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát quy về một Phật thừa. Dù chỉ một Phật thừa nhưng trùng điệp tám vạn bốn ngàn pháp môn. Tinh thần bất biến- tùy duyên là như thế.

   Nhà Thiền có hai câu kệ:

Phật chơn pháp thân du như hư không

Ứng vật tùy hình như thủy trung nguyệt.

   Pháp thân chơn thật của chư Phật giống như hư không, nhưng ứng hoá thân như bóng trăng dưới nước. Hình ảnh tỉ dụ này thật đẹp đẽ huyền diệu. Hư không trùm khắp không hình tướng, bàng bạc siêu vượt không-thời gian. Hư không chỉ một nhưng diệu dụng như hằng sa, giống mặt trăng trên trời có một nhưng hiện trùng trùng bóng trăng dưới nước. Đó là tùy cảm tùy ứng, theo tâm nguyện chúng sanh mà thị hiện nhiều hình tướng thích hợp. Bồ-tát Quan Âm thiên thủ thiên nhãn, ngàn mắt là cái thấy thấu thể mười phương cõi nước, ngàn tay là diệu dụng cứu độ tất cả muôn loài. Con đường Bồ- tát đạo là lộ trình các bậc Giác ngộ phải đi qua, khi viên mãn tự giác-giác tha mới thành tựu quả vị Phật. Các Ngài làm tất cả Phật sự mà không ngoài thể tánh, nên nói Xứng tánh tác Phật sự. Từ thể tánh, các Ngài thị hiện nhiều báo thân và ứng thân làm lợi ích cho muôn loài. Đức Phật Di-Đà với báo thân ở cõi Cực lạc phương Tây, Đức Phật Dược Sư ở phương Đông … thiết lập Tịnh độ tiếp dẫn chúng sanh hữu duyên, một lòng tin tưởng ở các Ngài và nguyện cầu được thác sanh về nơi đó. Vào ra trong tam giới, các Ngài có những Ứng hoá thân, tùy duyên hoá độ theo hạnh Đồng sự nhiếp, như 32 hoá thân của Bồ-tát Quán Âm, Hòa thượng Bố Đại là hoá thân của Ngài Di- Lặc…

   Mặt khác, các bậc Giác ngộ khi nhận ra lý Đạo thì cái thấy trở nên toàn triệt và thấu thể. Trong trạng thái tịch tĩnh của tâm mà các Ngài quán xuyến mọi chuyển biến của các pháp. Tịch tĩnh là thuần nhất, chuyển biến là đa thù; vì quán triệt cái một nên bao quát tất cả. Sự thấy biết của các Ngài không phụ thuộc vào tri thức hữu vi hữu sự của thế gian, có tính chất phiến diện tương đối; mà do trí vô sư , trí tuệ tự thân thẩm thấu một cách toàn diện triệt để vào thực tướng muôn pháp. Các Ngài biết rõ căn cơ trình đô của đương sự, nên có thể sử dụng phương tiện thích hợp để giáo hoá. Phương tiện tùy duyên nhưng chân lý chỉ có một, đó là tinh thần khế cơ khế lý. Nhờ vậy, môn đệ của các Ngài có nhiều cơ hội trực nhận bản tâm; như ở thời Đức Phật, ngàn người tu rất nhiều người ngộ nên gọi là thời kỳ Chánh pháp; đến thời Tượng pháp, do các Thánh đệ tử của Đức Phật giáo hoá,  ngàn người tu cũng được trăm người ngộ Đạo. Ngày nay, các bậc ngộ đạo vẫn thỉnh thoảng xuất hiện nơi này nơi khác nhưng ít hơn so với thời kỳ trước rất nhiều, vì thế được xem là thời Mạt pháp.

   Vua Trần Thái Tông có bài kệ mượn lời hai câu trong kinh Pháp Hoa:

               Chư pháp tùng bổn lai

               Thường tự tịch diệt tướng

               Xuân đáo bách hoa khai

               Hoàng oanh đề liễu thượng.

   Trạng thái vắng lặng tự nhiên của tự tánh không chống trái với sự sinh động muôn màu của pháp giới. Tuy các pháp xưa nay, thực tướng là tịch diệt, nhưng đến mùa xuân trăm hoa vẫn nở, chim hoàng oanh vẫn hót trên cành liễu. Người tu không nên tiêu cực ẩn trú mãi trong cảnh giới tĩnh lặng, mà khi liễu tri lẽ thật, các Ngài thổi một luồng sinh khí vào cuộc đời. Đây là tinh thần tích cực nhập thế của đạo Phật, vì sắc tức thị không, thể dụng bất nhị, thuần nhất và đa thù không hai không khác. Các Ngài làm mọi việc có ích cho đời trong trạng thái buông xả, buông xả hoàn toàn nhưng mọi việc đều có kết quả mỹ mãn. Buông xả ở đây có nghĩa buông hết những vướng mắc của Căn- Trần-Thức, buông hết những buộc ràng của phiền não tham-sân-si, chứ không quên mất bản tâm. Trong thời Đức Phật, một số ngoại đạo chỉ trích Ngài phá hoại  cuộc sống, vì theo họ, nhờ tham mới có tư hữu, nhờ đấu tranh thì xã hội mới thăng tiến, mức sống mới tăng trưởng. Đức Phật trả lời: “Ta chỉ bảo tham sân si làm vẩn đục cuộc sống nên chủ trương dẹp trừ tham sân si ; không phải dẹp trừ luôn cuộc sống”. Ngài bảo “Dẹp trừ tham sân si”, ấy chỉ là một cách nói; thật sự chỉ cần thấu rõ bản chất không thật của tham sân si, thì ngay đó chấm dứt phiền não. Bằng trí tuệ Bát- Nhã soi thấu căn để của vạn pháp, thấy rõ bản chất không thật của chúng, các bậc Giác ngộ vẫn đi vào trần lao mà vẫn sống trọn vẹn với Bồ-đề. Hình tượng Đức Di-Lặc với nét cười tự tại giữa sáu đứa trẻ là một biểu hiện tuyệt vời của người tu Bồ-tát đạo hành Bồ-tát hạnh, hòa quang đồng trần giáo hoá quần sanh.

IV. KẾT LUẬN.

   Những điều trình bày trên đây phần nào cho chúng ta một tầm nhìn về sự tương liên bất khả phân của cặp phạm trù Thuần nhất-Đa thù. Chúng ta tu, khởi đầu là bỏ những hình tướng đa thù trở về bản thể thuần nhất, cuối cùng thấy cả hai đều thuộc về một thực tại toàn vẹn đắp đổi cho nhau và tạo nên ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Từ đó ta có cái nhìn vượt thoát, ngay nơi hiện tượng đa thù mà biểu hiện  tự do. Ta có nguồn cội là chỗ chưa phân ranh thiện- ác tốt-xấu, là bản tâm thể tánh của vạn loại chúng sanh, là giá trị bản hữu của mỗi người. Giá trị đó ở ngay đương xứ, chúng ta phải tự thầm nhận lấy. Khi nói thế, chúng ta không hiểu lầm có một cái gì bên ngoài để nhận, mà nên hiểu là thầm nhớ lại cái sẵn đủ của chính mình. Gương khi hết bụi, để lộ bản chất trong sáng chiếu soi; nhưng lúc đang còn bụi, bản chất ấy cũng chỉ tạm ẩn tàng chứ không bao giờ mất. Đôi khi chúng ta tưởng bụi và gương là thật có, nên thấy cần lau cần tách bụi ra khỏi gương; thật sự tâm vọng tưởng nhiễm ô đều không thật, tâm vọng hay tâm chơn cũng chỉ một tâm, do vậy nói Dâm nộ si là tự tánh Niết–bàn. Tướng cướp Anguilimala tuy là người xấu ác, nhưng do có chủng tử Bát-Nhã nên tội chướng tiêu dung nhanh chóng khi được Đức Phật nhiếp phục giáo hoá, liền chứng Thánh quả. Trái lại, có nhiều người tập khí mỏng, nghiệp chướng ít nhưng tu chậm tiến, vì  chủng tử Bát-Nhã cạn mỏng, khó nhận ra tự tánh hằng tri. Thiền Đốn ngộ chủ trương phát khởi trí tuệ Bát-Nhã, nhận ra thể tánh một cách trực tiếp, nhanh chóng. Sau khi đốn ngộ phải tiệm tu, nghĩa là tẩy trừ tập khí nhưng không tác ý hữu vi, chỉ thấu triệt bản chất không thật của nghiệp chướng phiền não, ngay đó qua hết khổ nạn.

   Vấn đề Thuần nhất và Đa thù là sự tâm đắc của những hành giả có trực giác mạnh mẽ, nhận ra lẽ thật một cách nhanh chóng và toàn diện. Các vị thấy rõ những sự vật hiện tượng trong pháp giới, tuy ngàn sai muôn khác, biến đổi không dừng nghỉ, nhưng vẫn luôn ở trong một trật tự ổn định vĩnh hằng. Bản chất của các pháp đều bình đẳng trong Không tánh, mọi chúng sanh đều có khả-năng-tính-thành Phật và khả-năng-tính đô thoát muôn loài. Quán triệt tinh thần bất nhị của hình thái Đa thù và thể tánh thuần nhất, ta trở về nguồn cội sẵn có xưa nay. Muốn vậy, ta phải vận dụng trí tuệ Bát-Nhã, vượt qua mọi chấp trước về ngã và pháp, vượt thoát những mớ bòng bong của tư biện luận giải làm che mờ tự tánh Thiên chân. Khi uống được ngụm nước đầu nguồn, ta mới hay ra, cái  mặc nhiên lặng lẽ mà liễu liễu thường tri đã sẵn ở đây tự bao giờ!

   Luật Sa-di có hai câu sách tấn:

Bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ

               Bất ưng tự khinh nhi thối khuất.

   Người kia là bậc trượng phu, sao ta lại không được như thế? Không nên tự khinh mình mà thối chí ngã lòng. Chúng ta dù mang hình thức nào, sống trong hoàn cảnh nào, cũng đều có Phật tánh như nhau. Vì thế, Phật Bồ-tát và chư vị Tổ sư mới tốn công nhọc sức khô hơi đắng miệng tận tình chỉ dạy cho chúng ta con đường sáng phải đi. Nếu không có Phật nhân, chúng ta tu cách nào đạt quả vị Phật?