Thể loại sách khác
Đối Thoại Giữa Khoa Học Và Phật Giáo
Matthieu Ricard – Trịnh Xuân Thuận BS. Hồ Hữu Hưng (dịch) Nhà Xuất Bản Phương Đông
01/09/2554 15:26 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

 

Chương I. Duyên Kỳ Ngộ

 

 

Nên có hay chăng một cuộc đối thoại giữa Khoa học và Phật giáo? Để biết được điều này cần phải xác định rõ ràng hai lãnh vực học hỏi của hai luồng tư tưởng khác nhau và thử xem Phật giáo có thể đem lại một đóng góp giá trị nào vào những thiếu sót mà Khoa học chưa giải thích được. Những thiếu sót này đa phần thuộc về đạo đức, sự cải tạo tâm thức con người và về sự khả dĩ đưa con người đến một thành tựu tâm linh thật sự. Phật giáo luôn chú ý đến nhiều vấn đề liên quan đến khoa vật lý đương đại. Khoa vật lý có đem đến cho Phật giáo những đóng góp gì trong việc khám phá ra thực tại?

Matthieu: Bạn đã trải qua một cuộc hành trình rất ấn tượng để trở thành một nhà vật lý thiên văn ở Hoa Kỳ. Điều gì đã khiến bạn chú ý đến khoa học?

Thuận: Những năm 60 có thể được xem là thời kỳ vàng son của ngành vật lý thiên văn. Ánh sáng hóa thạch (nhiệt năng còn sót lại sau Big Bang) và các quasars (các ngôi sao rất sáng ở ngoài bìa vũ trụ có thể phát đi năng lượng bằng cả một thiên hà và có một khối lượng tương đương với Thái dương hệ) vừa mới được khám phá. Khi tôi vừa đến Mỹ, công cuộc khám phá Thái dương hệ bằng các con tàu vũ trụ đang bộc phát nhộn nhịp. Tôi còn nhớ sự ngạc nhiên sững sờ trước những hình ảnh đầu tiên của sao Hỏa được truyền về trái đất bởi con tàu Mariner trên màn hình lớp học của chúng tôi. Những hình ảnh về sa mạc cằn cỗi ở sao Hỏa cho nhân loại biết rằng không có đời sống tinh thần ở đó: những kênh đào mà các nhà thiên văn ở thế kỷ 19 tưởng đã nhìn thấy chỉ là những ảo ảnh được tạo nên bởi những bão cát. Giữa sự rộn ràng đó, tôi không thể không trở thành nhà Vật lý thiên văn được. Từ đó, tôi không ngớt quan sát vũ trụ bằng những viễn vọng kính tối tân nhất trên mặt đất hay trên các quỹ đạo trong không gian và suy nghĩ về bản thể của vũ trụ, về nguồn gốc của nó.

Còn bạn, điều gì đã làm bạn không hài lòng về sự nghiệp khoa học của bạn. Từ bỏ một phòng thí nghiệm sinh học để đến tu viện Tây Tạng ở Nepal, xét ra cũng là một điều không bình thường.

Matthieu: Với tôi, sự việc đã diễn tiến theo một trình tự bình thường. Tôi luôn luôn ra sức tìm hiểu về ý nghĩa của cuộc sống. Tôi làm việc này việc nọ, theo đuổi bất cứ cái gì làm tôi thích thú trong khi vẫn cố gắng không hoang phí một giây phút nào của đời sống quý giá này. Tôi đã được cái may mắn lớn: sống nhiều năm bên cạnh những nhân vật đặc biệt. Đó là khoảng thời gian tôi có một kinh nghiệm tuy đơn giản nhưng rất sâu sắc mà tôi không thể nào diễn tả được. Người ta có thể nhận ra một sự hoàn hảo về nhân cách cũng như tâm linh, tuy nhiên ta không thể diễn tả bằng những lời thông thường được như: sự minh triết, kiến thức, lòng nhân ái, nét quí phái, đơn giản, khắt khe hay chân thật. Tôi nghĩ điều quan trọng nhất cho mỗi người là hoàn toàn để tâm đừng chậm trễ nữa cho điều ta muốn làm trong cuộc sống. Dù là công việc tìm kiếm khoa học rất hấp dẫn, tôi có cảm giác chỉ đem lại một điểm màu đỏ trong một bức điểm họa mà không biết kết quả sẽ ra sao. Điều này có đáng để tôi dồn hết tâm lực, trong khi còn biết bao nhiêu điều khác mà cuộc sống dành cho tôi? Trong khi đó, sự khởi đầu mục tiêu đề ra, phương tiện vận dụng và những trở ngại phải vượt qua trong tôn giáo rất rõ ràng minh bạch, chỉ cần rà soát lại nội tâm là nhận ra: ta thường xuyên vị kỷ (chấp ngã) và sự vị kỷ đó bắt nguồn từ vô minh đã che lấp đi bản thể thật sự của chính ta và của thế giới. Và sự vô minh này là đầu nguồn của sự đau khổ chính ta và người khác, mà công việc cấp bách nhất của con người là phải tìm cách chấm dứt đau khổ. Phương pháp đi đến đó là phải vun trồng tình yêu và lòng bi mẫn, cắt đứt gốc vô minh bằng cách đi theo con đường giác ngộ mà ta nhận biết qua năm tháng hành trì, một sự chuyển hóa nội tâm đem đến niềm vui hiếm có, không còn bóng dáng của hy vọng và sợ hãi đồng thời không ngớt nuôi dưỡng lòng nhiệt thành của tôi.

Thuận: Thế tại sao bạn lại muốn đối thoại với một nhà khoa học?

Matthieu: Tìm hiểu bản thể của thực tại là công việc quan trọng nhất của người phật tử và cả của nhà khoa học.

Thuận: Công việc của tôi là luôn luôn tự hỏi về các khái niệm thực tại, vật chất, thời gian và không gian. Mỗi khi tôi phải đối mặt với những khái niệm ấy, tôi không khỏi tự hỏi Phật giáo quan niệm thế nào về vấn đề ấy, thực tại nắm bắt một cách hợp lý có giống như thực tại diễn tả qua thiền định. Hai quan điểm ấy có gặp nhau không, hay trái ngược nhau và không cùng chung một nhận thức? Vì không nghiên cứu các bản văn Phật giáo, tôi không có dữ kiện để đáp ứng những suy nghĩ này.

Matthieu: Có đúng là đằng sau cái vẻ bên ngoài của hiện tượng, có một thực tại sinh động không? Nguồn gốc của thế giới hiện tượng là gì? Liên hệ giữa hữu tri và vô tri như thế nào? Thời gian, không gian và các quy luật thiên nhiên có thật sự có hay không? Từ 2500 năm nay có những nhà siêu hình Phật giáo, đầy dẫy các tác phẩm luận lý, nhận thức, phân tích thực tại ở các tầng bậc và nhiều điểm luận tâm lý nghiên cứu rất chi tiết về các sự kiện tâm thức và các khía cạnh tinh thần khác.

Thuận: Bạn trình bày Phật giáo như một khoa học tâm linh? Phải chăng là một khoa học giống như mọi khoa học thiên nhiên đặt trên nền tảng quan sát và đo đạc diễn tả theo toán học?

Matthieu: Sự xác thực của một khoa học không nhất thiết phải tùy thuộc vào những đo đạc vật lý hay những phương trình toán học rắc rối. Một giả thiết có thể được kiểm chứng bởi một cuộc trải nghiệm nội tâm mà không mất đi giá trị. Phương pháp Phật giáo bắt đầu bằng việc phân tích và thường xuyên nhờ đến những kinh nghiệm tư tưởng không thể chối cãi được về mặt quan điểm, dù rằng không thể chứng nghiệm trên thực tế được. Đó cũng là cách dùng rất thường trong khoa học.

Thuận: Đúng vậy. Những kinh nghiệm đơn thuần bằng tư tưởng thật ra rất lợi ích cho khoa vật lý. Chúng luôn luôn được Einstein cũng như những nhà vật lý tầm cỡ khác sử dụng, không những để chứng minh những nguyên tắc vật lý, mà còn được dùng để làm rõ những kết quả trái ngược trong công việc giải thích một vài tình huống vật lý. Einstein đã tưởng tượng là ông ta đang cởi trên một hạt ánh sáng, còn để suy gẫm về lực hấp dẫn, ông đã hình dung đứng trong một thang máy đang rơi tự do trong khoảng không. Tôi nghĩ rằng khoa vật lý đương đại với những khám phá và những vấn đề siêu hình không thể tránh được, đã tìm thấy trong Phật giáo cũng như trong các tôn giáo và các triết lý khác những câu trả lời vọng lại bất ngờ. Nhưng tại sao Phật giáo lại chú ý đến khoa học hiện đại đặc biệt khoa vật lý và khoa vật lý thiên văn trong khi nó không mấy thích thú về khoa học kỹ thuật?

Matthieu: Mối bận tâm lớn của Phật giáo không phải là khoa học hiện đại, nhưng nó chú tâm đến, vì lẽ trong việc tìm hiểu thực tại, nó đã từng đặt ra những câu hỏi tương tự với khoa vật lý đương đại. Những hạt độc lập không thể chia rẽ được có thể dùng như những viên gạch để xây dựng thế giới vĩ mô không? Những hạt này có chăng một bản thể tối hậu hay chúng chỉ là sản phẩm của tinh thần? Những quy luật vật lý tự chúng hiện hữu giống như tư tưởng của Platon không?

Phật giáo xem sự tương thuộc các hiện tượng như là sự diễn tả thích hợp nhất về các hiện tượng. Tuy nhiên quan niệm về sự toàn nguyên có từ thời Niels Bohr và Heisenberg, cha đẻ của vật lý lượng tử phiến diện, đã được trắc nghiệm trong vòng 20 năm sau này. Quan niệm toàn nguyên này là một khám phá căn bản của nền vật lý đương đại. Không phóng đại về những điểm tương đồng phiến diện, sự tìm hiểu về những khác biệt và những điểm giống nhau giữa khoa học và Phật giáo có thể giúp chúng ta hiểu sâu hơn về những khía cạnh đặc biệt trong việc tìm hiểu thế gian. Phật giáo đặt nền tảng trong một cuộc trắc nghiệm trực tiếp chứ không gò bó trong các giáo điều. Phật giáo sẵn sàng chấp nhận mọi nhận thức về thực tại có đầy đủ tiêu chuẩn của thực tại thật sự. Đức Phật dặn dò các đệ tử hãy tránh xa những luận điệu đòi hỏi một niềm tin mù quáng và giáo điều: “Hãy đánh giá những điều ta dạy giống như các ngươi đi tìm vàng trong quặng bằng cách chà xát nó bằng cách đổ, đập vỡ tan nó hay làm nó chảy thành nước. Không nên chấp nhận những lời nói của ta vì nể trọng ta”. Vậy là không nên tin mà nên hiểu. Chỉ tích lũy kiến thức thôi thì không đủ. Thầy tôi, Khientsé Rintoché nói rằng: “Nếu chúng ta chỉ đi lượm lặt kiến thức để trở nên quyền thế hoặc nổi danh, chúng ta ở trong cùng trạng thái một ca sĩ chỉ biết hát để nhận của bố thí. Kiến thức ấy không ích gì cho chúng ta cũng như cho kẻ khác. Một câu tục ngữ đã nói: “Càng biết nhiều, càng kiêu căng”. Làm thế nào ta giúp đỡ kẻ khác trước khi đoạn dứt được tư tưởng tiêu cực trong ta? Nuôi dưỡng một hoài bão ngông cuồng như vậy là một điều nực cười cũng giống như một kẻ ăn mày đi mời cả làng dự tiệc”

Những dấu hiệu thành tựu đời sống tâm linh rất nhiều nhưng quan trọng hơn cả là sau một thời gian vài tháng hay vài năm, lòng ích kỷ của chúng ta bớt dần đi và tính vị tha mỗi ngày một phát triển. Nếu sự luyến ái, hận thù, kiêu mạn và ganh tị vẫn như trước kia thì chúng ta đã mất thời giờ vô ích, chúng ta đánh lừa mình như đánh lừa kẻ khác. Trái lại những kiến thức khoa học giúp ta đối phó với cuộc đời một cách tích cực hay tiêu cực, nhưng lại tương đối ít có ảnh hưởng với con người chúng ta. Rõ ràng là kiến thức khoa học không có dính dáng gì đến lòng nhân ái hay vị tha và vì thế nó không có giá trị đạo đức. Chúng ta cần đến thiền định. Tâm mới tìm hiểu được tâm, để có thể giải tỏa những ảo tưởng căn bản, nguồn gốc của đau khổ của ta và người.

Thuận: Tôi thường nghĩ rằng điều đầu tiên của Đức Phật giảng dạy là một triết lý thực dụng: Mục đích chính của đời sống con người là tự mình mỗi ngày một cải tiến mà không thèm nghĩ đến việc vũ trụ được tạo dựng như thế nào và vật chất được cấu thành ra sao.

Matthieu: Khi có người hỏi vì tò mò về sự khởi nguyên của vũ trụ và những điều khác không liên quan đến tiến bộ tâm linh, Đức Phật đã giữ yên lặng không trả lời. Phật giáo chú trọng nhất đến sự giác ngộ và thiết lập một hệ thống tư tưởng để đưa con người đến đó, và không quan tâm mấy đến những kiến thức không đưa đến sự giác ngộ dù rằng nó rất đáng được xem xét.

Thuận: Phật giáo quan niệm sự giác ngộ như thế nào?

Matthieu: Một sự nhận thức về bản thể tối hậu các sự vật và lòng từ bi không bờ bến. Một sự nhận thức không phải như bên Khoa học gồm sự tích lũy kiến giải, mà là một sự hiểu biết về hiện trạng tương đối giữa các vật cùng bản thể thật sự của chúng. Sự hiểu biết này đưa đến sự chấm dứt vô minh. Nói về vô minh, Phật giáo cho rằng không phải vì thiếu hiểu biết, mà là nhận thức sai lầm về thực tại khiến chúng ta tin rằng sự vật là thường hằng và chắc thật, rằng cái tôi thật sự hiện hữu. Và chính sự vô minh đó đã đưa chúng ta đến việc xây dựng hạnh phúc của riêng mình trên sự đau khổ của người khác. Chúng ta chỉ chú tâm về bản thân mình, về cái tự ngã, và chúng ta ghét bỏ mọi điều khác đi ngược lại cái ngã của chúng ta. Dần dần sự suy nghĩ của chúng ta đưa đến sự mờ mịt trong tâm trí và dẫn chúng ta đến với những hành động ích kỷ. Vô minh kéo dài và sự bình an biến mất.

Do vậy mà giác ngộ là liều thuốc giải độc cuối cùng của sự đau khổ và việc tìm hiểu độ sáng các vì sao hay khoảng cách giữa chúng không đem lại lợi ích thiết thực nào cho con người chúng ta.

Thuận: Đúng là nhận xét đó đã khiến tôi nghĩ rằng Phật giáo gạt sang một bên những kiến thức không cần thiết cho sự tiến bộ đạo đức về tâm linh của chúng ta cũng như trong lối sống của chúng ta. Như thế hiểu biết về sự khởi đầu của vũ trụ hay bản chất của thời gian có giúp ích gì cho chúng ta đến được Niết bàn không?

Matthieu: Người ta kể lại trường hợp một người nọ hỏi Đức Phật nhiều vấn đề về vũ trụ học. Đức Phật bứt một nắm lá trong lòng bàn tay và hỏi rằng: “Lá trong lòng bàn tay là nhiều hay lá trong rừng nhiều hơn?” Dĩ nhiên là lá trong rừng nhiều hơn rất nhiều và Đức Phật đã dạy: “Những điều Ta biết có thể sánh với lá trong rừng, nhưng những gì Ta dạy có thể ví như nắm lá trong lòng bàn tay Ta, chúng chỉ có mục đích chấm dứt đau khổ con người mà thôi”. Nếu điều ta cần nhất trong cuộc đời này là đi tới sự giác ngộ thì tốt hơn hết là để toàn tâm toàn ý tới vấn đề này. Từ mẩu truyện trên ta thấy rằng muốn chấm dứt vô minh, cần hiểu thật rốt ráo bản thể của thế giới hiện tượng và cả cái tôi, điều mà ta gọi tắt là thực tại. Vì thế Đức Phật đã lấy chủ đề này làm cốt lõi cho việc giáo hóa của Ngài. Ngài bác bỏ ý niệm một nguyên nhân đầu tiên và độc nhất cho thế giới hiện tượng. Ngài nhấn mạnh đến sự khác biệt giữa nhận thức của chúng ta về các hiện tượng, về bản thể thật sự của chúng ta và những hậu quả tai hại cho sự sai lầm này. Thấy trong bóng tối một sợi dây mà ta tưởng lầm là con rắn làm ta sợ hãi vô lối và khi ánh sáng bừng lên ta nhận ra sự sai lầm thì sự sợ hãi của ta không còn. Theo Phật giáo thì cả thế giới hiện tượng và “cái tôi” đều không có thực thể, sự phân biệt giữa ta và người chỉ là một ảo giác. Đây là điều mà Phật giáo gọi là “Tánh không”.

Mặt khác, muốn tìm được nguyên nhân đầu tiên cho các hiện tượng, chỉ là muốn cho chúng một thực thể, một thực tại chắc thật theo đúng nhận thức thông thường của chúng ta. Ý niệm nguyên nhân đầu tiên đã áp đảo tư tưởng tôn giáo, triết lý và khoa học Tây phương suốt hai thiên niên kỷ.

Thuận: Đúng thế! Cho đến thế kỷ thứ 19, Khoa học cổ điển quan niệm sự vật như có thực thể và chịu sự điều hành của luật Nhân quả. Sự khám phá ra cơ học lượng tử vào đầu thế kỷ 20 đã làm thay đổi ý niệm về luật Nhân quả. Nhưng quan niệm của Phật giáo về “Tánh không” có làm cho người ta nghĩ đến hư vô chủ nghĩa không? Vì lẽ vạn vật làm thế nào để hoạt động nếu chúng trống rỗng?

Matthieu: Khi Phật giáo dạy “Tánh không” là bản thể tối hậu của vạn vật, là Đức Phật muốn nói rằng mọi hiện tượng đều không có tự tính và không thường hằng. “Tánh không” như vậy không phải là thứ thực thể độc lập. Đó là bản thể sau cùng của vạn vật khi chúng được phân tích đến cùng cực. Trong mọi trường hợp, không phải là hư vô, là sự vắng bóng các hiện tượng như các nhà bình luận Phật giáo Tây phương đã nghĩ. Để tránh mọi sự hiểu lầm, Đức Phật đã cẩn thận nói đến “cái không của cái không”. Thật vậy những quan niệm về hiện hữu hay không hiện hữu chỉ có giá trị khi được đối chiếu với nhau. Nếu không giải thích được sự thực, sự hiện hữu, thì nói về không hiện hữu quả là vô lý. Vì thế triết lý Phật giáo chú tâm phân tích sự hiện hữu và không hiện hữu những hạt vật chất và từng sát na tinh thần, và nhận thức được bản thể của tinh thần, cũng như các hiện tượng là ta có thể thoát khổ.

Thuận: Điểm sau cùng này nêu lên một câu hỏi mà tôi cảm thấy khá rắc rối trong lãnh vực khoa học. Như bạn đã biết, tôi vào Caltech năm 19 tuổi, khi đó Caltech là đỉnh cao khoa học thế giới. Người ta có thể gặp ở đó những gương mặt lớn trong giới khoa học, giải Nobel hay viện sĩ Hàn lâm Khoa học. Tôi nghĩ rất ngây thơ rằng, với tài năng và óc sáng tạo, họ là những con người ưu việt trên mọi mặt của đời sống. Tôi đã thất vọng não nề: Ta có thể là một nhà khoa học tầm cỡ, một thiên tài nhưng vẫn là một con người xấu xa trong xã hội đời thường. Sự trái ngược này làm tôi choáng váng. Tôi cứ nghĩ rằng Phật giáo hay các tôn giáo khác có thể bổ sung cho khoa học về mặt đạo đức.

Lịch sử các khoa học đầy dẫy những mẩu truyện về các nhà khoa học lớn, lại tỏ ra rất tầm thường trong các cuộc giao tiếp. Ví dụ như Newton cùng với Einstein đã là các nhà vật lý vĩ đại của mọi thời đại. Newton đã ngự trị như là một bạo chúa trong xã hội hoàng gia Anh quốc, đã nhầm lẫn khi tố cáo Leibniz chiếm đoạt khám phá của ông ta về toán vi tích phân, trong khi chính Leibniz đã tự tìm ra môn toán học này. Tệ hơn là ông ta đã làm nhục John Flamsteed- nhà thiên văn học người Anh. Còn Philipplenard và Johannes Stark đạt hai giải Nobel về vật lý đã ủng hộ phát xít Đức và đường lối chính trị chống Do Thái, cho rằng khoa học Đức vượt trội hơn khoa học Do Thái.

Nhưng thỉnh thoảng, mặc dù rất ít, có người đã kết nối thiên tài khoa học vào đạo đức. Đó là trường hợp của Einstein mà tạp chí Times đã tôn vinh như nhân vật vĩ đại nhất thế kỷ 20. Trong thế chiến thứ I, Einstein trước sự giận dữ của Hoàng đế Đức đã không ngần ngại ký vào một kháng thư chống chiến tranh. Trước làn sóng phát xít Đức, ông trở thành một người Do Thái tích cực ở Đức, và đã nêu lên vấn đề quyền của người Ả Rập trong lãnh thổ Do Thái. Di cư sang Mỹ, mặc dù rất yêu chuộng hòa bình, Einstein lại đi cổ vũ cho một hành động quân sự chống Hitler. Đó là bức thư ông viết cho Tổng thống Roosevelt mở đầu cho dự án Manhattan để chế tạo quả bom nguyên tử đầu tiên. Nhưng sau những vụ tàn phá ở Hiroshima và Nagasaki ông lại kêu gọi cấm sử dụng các loại vũ khí hạt nhân. Ông cũng chống lại chủ nghĩa Mac Carthy cùng những hình thức cuồng tính và phân biệt chủng tộc khác. Nhưng cũng có nhiều bóng đen vô hình trong đời sống cá nhân của Einstein. Ông từng là một người cha vô tình và một người chồng bay bướm. Ông đã ly dị bà vợ đầu tiên và bỏ bê một đứa con gái suy nhược. Ông đã viết về mình như sau: “Hạng người như tôi khi đến độ tuổi nào đó, tạo nên một bước ngoặt của cuộc đời, thì họ dần dần từ bỏ những cái gì thuộc về cá nhân, để chỉ chú tâm vào việc tìm hiểu tạo vật mà thôi”.

Matthieu: Vấn đề quan trọng không phải là việc chỉ trích một nhân vật này hay ca tụng một nhân vật nọ mà là sự tương quan giữa thiên tài khoa học và các giá trị đạo đức. Nhận thức này đặt lại đúng chỗ vị trí của Khoa học và lợi ích của nó trong đời sống. Những hoạt động tâm linh với tôi là một cuộc chuyển hóa nội tâm không những bổ sung cho Khoa học mà còn là một nhu cầu thiết yếu trong đời sống. Công cuộc chuyển hóa nội tâm không phải là điều dễ dàng dù là người dành hết tâm lực cho nó, còn nếu lơ là với nó thì rất ít hy vọng thành tựu.

Vài nhà khoa học cho rằng công việc của họ là khám phá, còn việc sử dụng các phát minh của họ, họ không màng đến. Một lập trường như vậy có thể gọi là mù quáng hay không có niềm tin. Sự hiểu biết đưa đến quyền lực, và có quyền lực thì bắt buộc phải có trách nhiệm, hay chí ít cũng nhận được hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp về các hành động của mình. Người ta thường thấy những cuộc nghiên cứu khoa học khởi đầu đầy thiện ý, rồi sau đó rơi vào tay các nhà chính trị, các quân nhân để rồi bị sử dụng một cách mờ ám. Ta không thể không biết sự pha trộn giữa khoa học, quyền lực và kinh tế. Tuy nhiên rất ít các nhà khoa học biết nghi ngờ về những sai trái khi những phát minh của họ được sử dụng. Chỉ khi chuyện đã lỡ, họ có hối cũng đã muộn như trường hợp những người đã khai sinh ra bom nguyên tử. Còn những người khác thì ngang nhiên hợp tác để sản xuất ra bom vi trùng và các công cụ giết người khác.

Thuận: Không thể tha thứ được cho những nhà khoa học tự nguyện làm việc sản xuất các công cụ giết người. Trong chiến tranh Việt Nam, tôi đã hết sức bức xúc khi thấy nhiều khoa bảng giải Nobel tham dự vào “nhóm Jason”, một ủy ban do Ngũ giác đài thành lập để nghiên cứu và phát triển vũ khí mới.

Matthieu: Giữa năm 1936 đến 1976, chính phủ Thụy Điển đã vô sinh hóa 60.000 người mà họ cho rằng thuộc cấp thấp hèn. Giữa 1932 đến 1972, 400 công nhân Mỹ ở bang Alabama, tất cả đều da đen và nghèo khổ, được sử dụng để nghiên cứu diễn tiến dài lâu của bệnh giang mai, mà không hay biết họ là những vật thử nghiệm bởi sở y tế công cộng. Người ta hứa cho những bệnh nhân sự săn sóc thuốc men miễn phí và vài quyền lợi nhỏ nhoi khác (như 5000 USD dùng vào việc chôn cất) với điều kiện họ phải thường xuyên đến cơ sở y tế để xét nghiệm– thực sự họ không được chữa chạy gì cả. Thật ra chỉ là một cuộc nghiên cứu diễn tiến của bệnh giang mai không chạy chữa do các bác sĩ và các nhà khoa học đáng kính tiến hành và sau đó công bố kết quả trên những tập san y học. 28 bệnh nhân đã chết vì chứng bịnh, 100 người khác chết vì những biến chứng thứ phát, 40 người vợ và 19 trẻ sơ sinh lây nhiễm. Việc nghiên cứu bị gián đoạn thình lình khi sự việc được phát giác bởi một nhà báo nữ Jean Heller. Không có một nhân viên nào của sở y tế ngỏ lời xin lỗi, không có một bác sĩ nào bị truy tố. Chỉ có một sự đền bù nhỏ được dành cho các nạn nhân và chỉ đến năm 1997 Tổng thống Bill Clinton mới đưa ra lời xin lỗi nhân danh dân tộc Hoa Kỳ.

Năm 1978, Bác sĩ Hisato Yoshimura đã nhận được huy chương cao quý nhất của Nhật Bản để tưởng thưởng cho công cuộc nghiên cứu của ông về khoa học “Thích nghi với môi trường”. Trong thế chiến thứ II, bác sĩ Yoshimura là trưởng đơn vị 731 chuyên trách về các cuộc thí nghiệm trên tù binh đồng minh và Trung Quốc. Việc nghiên cứu thích nghi với môi trường của ông là thảy các tù nhân xuống nước băng giá, rồi sau đó đập họ bằng búa để xem đến khi nào các chi của họ bắt đầu đông cứng. Những thí nghiệm khác gồm việc phân phát cho trẻ em Trung Quốc những thỏi chocolate có nhiễm khuẩn bệnh than để xem bao lâu thì các em đó chết.

Những ví dụ đó là ngoại lệ so với các cố gắng to lớn của khoa học để làm cho đời sống của nhân loại được tốt hơn.

Thuận: Tôi thật sự bị thuyết phục là các nhà khoa học không nên dửng dưng với kết quả của các công trình của mình. Họ cần nhận lấy trách nhiệm nhất là trong trường hợp các quân nhân, các nhà chính trị, các thương gia sử dụng các phát minh của họ để gây ra chiến tranh hoặc củng cố quyền lực và kiếm được nhiều tiền bằng cách lợi dụng những người nghèo, hay hủy hoại môi trường chung quanh.

Matthieu: Việc buôn bán vũ khí là hình thức đạo đức giả ghê tởm nhất của các nước giàu. 95% vũ khí toàn cầu được sản xuất và bán ra bởi năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Ở đây, đạo đức và tinh thần trách nhiệm đã hoàn toàn thất bại. Cũng cùng trong một chiều hướng đó, là sự hoang phí tài nguyên của các nước giàu. Chỉ cần 6 tỷ mỹ kim để đảm bảo một nền giáo dục cơ bản cho toàn cầu, nhưng mỗi năm, người ta bỏ ra 12 tỷ để mua nước hoa, 400 tỷ để tiêu thụ ma túy và 700 tỷ cho các chi tiêu quân sự.

Thuận: Tuy nhiên người ta không thể trách cứ công cuộc nghiên cứu khoa học do các sai lầm đó, cũng không thể đổ lỗi cho trí thông minh của loài người. Cả hai chỉ là những công cụ.

Matthieu: Thật vậy, việc sử dụng tai hại các công trình khoa học chỉ phản ánh sự nhu nhược của đạo lý. Nhưng đó không phải là một lời xin lỗi. Dù rằng nhiều áp dụng khoa học đã được dân chúng nồng nhiệt hoan nghênh như trường hợp của Di truyền học và Năng lượng hạt nhân, đạo đức không phải là điều cần quan tâm nhất của mỗi người. Một ví dụ rất thời sự là câu chuyện của công ty dược Glaxo đã dọa đưa các chính phủ Nam Phi và Thái Lan ra tòa nếu các nước này sản xuất ra 3 loại thuốc dùng để trị bệnh Sida với giá rẻ. Glaxo không muốn cho hằng triệu người có thể sống thêm vài năm nữa. Đây là một loại chối bỏ lòng nhân đạo một cách tủi hổ và phũ phàng nhất. Tuy nhiên công cuộc chống Sida không thiếu phần tài trợ, và nếu để cho các nước nghèo sản xuất thuốc đặc trị aid đó thì cũng không thay đổi bao nhiêu doanh số của công ty Glaxo vì dù sao các bệnh nhân ở Á và Phi Châu cũng không có tiền để mua sản phẩm của Mỹ. Ở Nepal nơi tôi sống, theo các số liệu không chính thức, 5% dân chúng bị nhiễm virus HIV, nhưng có một ai được chữa bằng các thuốc đặc trị? Các thuốc này không được nhập vào Nepal. Việc chữa chạy bằng các loại thuốc của Glaxo tốn hàng tháng khoảng 3500 quan trong khi lương trung bình của một anh công chức là 350 quan. Tôi có thể suy ra sự buồn chán của các nhà khoa học chân chính trước những sự buôn bán não lòng đó. Đơn giản là việc không muốn giúp đỡ những người cùng khổ mà thôi.

Đây là một kinh nghiệm trực tiếp thay vì những lý thuyết đạo đức suông. Kinh nghiệm này có được nhờ vào sự chú tâm thường xuyên đến tư tưởng của chúng ta. Tâm của chúng ta giống như một cục thủy tinh có màu sắc tùy theo nơi mà chúng ta đặt nó. Nó hoàn toàn trung tính và chỉ những tư tưởng chi phối hành động của chúng ta. Công cuộc vận động của Phật giáo rất thực tế. Việc nghiên cứu khoa học đem đến cho ta nhiều kiến thức mới, nhưng nó không đem lại một thay đổi nào cho nội tâm chúng ta. Trái lại thiền định cuối cùng sẽ đem lại sự thay đổi sâu xa thái độ của chúng ta về nhận thức cuộc đời. Phải tác động lên nó như thế nào? Chỉ biết thôi chưa đủ, ví dụ như trong cơ học lượng tử cho rằng tâm thức của chúng ta không thể tách rời ra sự toàn nguyên các hiện tượng, mà cần phải trải nghiệm bản thân rằng thật sự tâm thức của chúng ta thuộc về sự toàn nguyên đó. Đi từ một nhận thức lý thuyết đến một sự trải nghiệm trực tiếp là chìa khóa của mọi vấn đề đạo đức, chỉ có thể đem lại những kết quả phù phiếm. Khi mà đạo đức là chủ thể, thì nó sẽ biểu lộ ra tư tưởng lời nói, hành động của chúng ta và đồng thời ảnh hưởng đến nhiều người khác.

Thuận: Như vậy là một sự cân bằng giữa lý thuyết và sống thực?

Matthieu: Đúng thế và điều này cho thấy giá trị của cuộc trải nghiệm. Biết được sự tương thuộc các hiện tượng không đủ, chúng ta cần phải thâm nhập điều này mà nhờ thế đời sống của chúng ta phải thay đổi.

Một thí dụ điển hình khác là sự bất lực hoàn toàn của các chính phủ trong việc hạn chế các loại ga gây ô nhiễm không khí, dù rằng ai cũng biết đời sống nhân loại bị ảnh hưởng trầm trọng. Chỉ có một sự quyết tâm toàn cầu mới có thể ngăn chặn được tệ nạn này. Có lẽ vì thế, một cuộc vận động tâm linh không giáo điều của Phật giáo có thể đóng góp hữu hiệu.

Thuận: Bằng cách nào?

Matthieu: Với từ “không giáo điều”, tôi muốn nói đến một sự vận động để chống lại sự tiến bộ và trở về đời sống hoang dã, cũng không phải tin tưởng ngây thơ rằng sự tiến bộ với sự tăng trưởng kinh tế và thành tựu kỹ thuật có thật sự cần thiết cho sự sống hạnh phúc của chúng ta. Nếu mục đích của chúng ta chỉ là để sống thoải mái hơn thì có nhiều điều thực ra không cần thiết mà chúng ta không cần quan tâm đến. Việc phân tích các cơ chế hạnh phúc và đau khổ của Phật giáo đã chỉ ra rất rõ ràng những kết quả trái ngược giữa ích kỷ và vị tha.

Thuận: Nhưng làm thế nào mà điều này lại đem đến đạo lý?

Matthieu: Thật ra căn bản về đạo lý rất đơn giản: không có tốt hay xấu trong con người chúng ta, chỉ có hạnh phúc hay đau khổ cho ta hay cho người mà thôi. Nếu ta làm nảy sinh trong ta những tình cảm vị tha, chúng ta luôn bận tâm để làm đẹp lòng người khác thì lòng vị tha đó sẽ là người hướng dẫn tốt cho những hành động của chúng ta. Đối diện hằng ngày với cuộc sống, chúng ta sẽ dễ dàng nhận định những hành động nào đem lại lợi ích và giảm thiểu đau khổ cho người khác. Người Phật tử thuần thành biết rằng khi hiểu ra sự tương thuộc cũng như sự vô thường của vạn hữu thì sẽ phát sinh lòng từ bi vô hạn. Những ai đã được gặp và sống gần Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ hiểu thế nào là tâm từ bi hơn gấp trăm lần các cuộc diễn giảng. Còn nói về phương pháp thực hiện, nó phải tuần tự. Đầu tiên là phải nghe và học, sau đó là tư duy miên mật và sau cùng, nhờ vào thiền định ta sẽ có một nhận thức mới về các hiện tượng và thay đổi cách hành động của ta. Xã hội chúng ta có rất ít nhà hiền triết. Chúng ta có nhiều hội đoàn đạo đức gồm có nhiều tư tưởng gia trác việt, nhưng trong xã hội Tây Tạng nơi tôi đang sống, không có việc đưa vào các hội đoàn đạo đức ấy những nhân vật không có những đức tính về mọi mặt mà không ai có thể chối cãi được. Người ta không tưởng tượng nổi những vị thầy tinh thần mà lại nóng nảy, ích kỷ, kiêu căng hay là những người cha xấu. Không một ai có thể nhờ họ tư vấn về bất cứ điều gì.

Thuận: Theo tôi, nhà khoa học không nên đi vào lĩnh vực nghiên cứu trước khi cân nhắc kỹ những hậu quả đạo đức. Những tiêu chuẩn đạo đức ấy phải như thế nào? Tôi nghĩ cũng như bạn, quan trọng hơn cả là lòng vị tha và tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng mà Phật giáo đã đề cập. Nhà khoa học cần phải làm thế nào để không tạo thêm đau khổ cho nhân loại. Nhưng nói dễ, làm rất khó vì nhà khoa học không dễ dàng tiên đoán hậu quả công việc của mình. Lấy ví dụ như Einstein, khi khám phá ra sự cân bằng giữa vật chất và năng lượng, ông không hề nghĩ đến việc khám phá đó sẽ đưa đến việc chế tạo ra bom nguyên tử. Một ví dụ khác là sự sinh sản vô tính của chú cừu Dolly. Vấn đề không phải ở chỗ di truyền học hay vật lý nguyên tử, nhưng là việc sử dụng khám phá mới này. Năm 1952, Adlai Stevenson nguyên ứng cử viên Tổng thống Hoa Kỳ, đã nói: “Thiên nhiên thì trung tính. Con người đã chiếm đoạt của thiên nhiên cái quyền năng làm cho cuộc đời nở hoa hay tàn lụi”. Khoa học có thể che chở cũng như hủy diệt đời sống. Mục đích không phải là cấm đoán việc nghiên cứu khoa học, thật ra là bất khả nhưng là để nhấn mạnh tầm quan trọng của khía cạnh đạo đức trong công cuộc tìm kiếm khoa học. Vì thế theo Phật giáo, lòng vị tha là một trong những khía cạnh quan trọng nhất mà người Phật tử cần phát triển.