Brama mời tôi đến nhà  chơi. Ông ta sống trong một cái chòi 
tranh tự mình dựng lên, nằm riêng biệt ở một  góc cuối khu vườn nhà của 
bà lão. Ông ta thích sống như vậy để được tự do thoải  mái hơn trong mọi
sự sinh hoạt. 
Tôi đến chơi vào một buổi chiều.  Nhà ông nằm ở tận cùng của một con 
đường đầy bụi bặm và có vẻ rất nghèo nàn.  Tôi ngừng một lúc trước cửa, 
nhìn tường nhà cũ kỹ quét vôi trắng với một cái  gác bằng cây có cửa sổ.
Tôi đẩy cánh cửa lớn, tiếng động làm vang khắp nhà. Một  bà già vẻ mặt 
hiền lành vui vẻ bước ra và nghiêng đầu chào tôi nhiều lần. Bà cụ  dắt 
tôi đi qua một hành lang tối tăm dẫn đến nhà bếp, thông ra sau vườn. 
Trong vườn có một cây cổ thụ  cành lá sum suê, che dưới bóng mát của 
nó là một cái giếng cũ. Phía bên kia giếng  có một chòi tranh, một phần 
ẩn khuất dưới bóng cây mát rượi. Chòi làm bằng vật  liệu nhẹ, cột tre và
lợp tranh. Bà lão chủ nhà da mặt cũng sạm đen như màu da của Brama, có vẻ bận rộn, nói một tràng dài tiếng Tamoul
với người  trong chòi. Một tiếng nói thanh như chuông mà tôi đã quen 
tai từ bên trong vọng  ra. Cánh cửa chòi từ từ hé mở, người đạo sĩ hiện 
ra trước cửa và vui vẻ mời tôi  bước vào. 
Ông ta vẫn để cửa mở, bà già  đứng lại trước cửa độ vài phút, mắt nhìn
tôi một cách chăm chú và nét mặt lộ vẻ  hân hoan sung sướng. 
Trong chòi không có bàn ghế  chi cả, ngoại trừ một chiếc giường thấp 
không có nệm, đặt sát vào vách phía  trong, và một tấm gỗ lớn đặt trong 
góc, trên đó có bày sách vở và giấy tờ. Một  bình đựng nước bằng đồng 
treo bằng một sợi dây từ trên trần nhà thòng xuống, và  một chiếc chiếu 
lớn trải dưới đất. 
Brama chỉ chiếc chiếu mời  tôi ngồi, xin lỗi vì nhà không có ghế. Chúng tôi cả ba người đều ngồi xếp bằng, Brama
và tôi với một thanh niên Ấn đi theo tôi để làm thông ngôn. Trong  vài 
phút, bà lão bước ra ngoài và trở lại với một bình trà nóng, đặt lên một
tấm  khăn trắng trải trên chiếc chiếu cùng với bánh ngọt, cam, chuối 
đựng trên chiếc  mâm nhỏ bằng đồng. 
Trước khi mời tôi dùng trà,  người đạo sĩ hai tay cầm một tràng hoa 
kết thành vòng quàng lên cổ tôi. Tôi tỏ  ý muốn từ chối, vì tôi biết 
rằng phong tục Ấn Độ dành cái danh dự này cho những  vị khách quý, mà 
tôi thì không dám xem mình là hạng khách đặc biệt đó. Brama liền mỉm cười và nói: 
– Bạn ơi! Bạn là người Âu đầu  tiên đến nhà tôi và cũng là người Âu 
đầu tiên làm bạn với tôi. Bà dì tôi và tôi  đều lấy làm vui mừng mà đón 
tiếp cái danh dự này. 
Thế là tôi đành phải nhận lấy  vòng hoa trên cổ. Cũng may mà các bạn 
tôi ở châu Âu không nhìn thấy cách ăn vận  dị kỳ của tôi như hôm ấy. 
Chúng tôi vừa uống trà, ăn bánh và vừa nói chuyện. Brama cho biết rằng chòi tranh và đồ vật dụng bằng gỗ trong nhà đều do tự tay làm lấy. 
Những giấy tờ để trên tấm gỗ  phẳng lớn khêu gợi sự tò mò của tôi. Đó 
là những tờ giấy màu hồng, trên đó có  viết chữ bằng mực xanh. Brama như đoán được ý tôi, bèn đưa cho tôi xem  vài tờ và giải thích rằng đó là loại chữ Tamoul
cổ xưa, thông dụng trong  văn chương cách đây đã nhiều thế kỷ nhưng 
ngày nay rất ít người biết, trừ ra một  vài nhà khảo cổ hoặc những người
được chân truyền từ các bậc thầy truyền thống. Brama nói thêm: 
– Tôi viết những đoạn văn này  tối qua. Đó là những phần cương yếu trong kinh nghiệm của bản thân tôi về pháp  môn Yoga,
hoặc những bài thơ tôi làm trong những lúc có nguồn cảm hứng  tâm linh.
Có một số thanh niên thường tự nhận là đệ tử của tôi, thường đến đây  
để xem những bài thơ đó và rất thích. 
Nói xong, Brama lấy một  tập giấy được trình bày trang trí 
rất nên thơ, gồm có vài tờ giấy màu hồng viết  chữ bằng mực đỏ và xanh 
và được cuốn tròn và buộc lại bằng một sợi dây màu  xanh. Anh ta vừa mỉm
cười vừa đưa cho tôi và nói: 
– Tôi viết cái này để tặng  riêng cho bạn. 
Người thông ngôn cho biết rằng  đó là một bài thơ trường thiên dài tám
mươi bốn câu, nhưng vì viết bằng cổ tự  nên anh ta không thể dịch được.
Dầu sao, món quà này cũng làm tôi rất vui, vì  nó biểu lộ một cảm tình 
đặc biệt mà người Yogi chân chính đã dành cho  tôi. 
Sau những câu chào hỏi đầu tiên,  bà lão lui ra ngoài và chúng tôi 
chuyển đề tài sang những câu chuyện sâu xa  hơn. Tôi trở lại vấn đề khí 
công, hay phép luyện hơi thở mà những nhà đạo sĩ  xem là một điều rất 
quan trọng. Brama liền ngắt lời tôi và nói rằng ông  ta không 
được phép tiết lộ nhiều hơn những gì đã nói, nhưng có thể nói thêm vài  
chi tiết thuộc về phần lý thuyết của pháp môn Yoga liên quan đến điểm  này. Ông ta nói:
– Theo tự nhiên, con người thở  với một nhịp độ khoảng 21.600 lần 
trong một ngày đêm (tức khoảng 15 lần trong một  phút). Một sự hô hấp 
quá nhanh và hấp tấp làm gia tăng nhịp độ này và thâu ngắn  sự sống. Một
sự hô hấp chậm rãi, dài và đều đặn sẽ giúp kéo giãn nhịp độ đó ra  và 
kéo dài sự sống. Mỗi hơi thở chậm rãi và thong thả sẽ mang lại hiệu quả 
nuôi  dưỡng cơ thể tốt hơn rất nhiều lần so với một hơi thở gấp gáp và 
hối hả, và nhờ  đó giúp con người có thể kéo dài sự sống thêm nhiều năm.
Vì thế, người yogi thở chậm hơn người thường nhưng có sức khỏe tốt hơn. Về điều này, tôi chỉ có thể  nói đến đây thôi. 
Sự dè dặt này làm tôi thất vọng.  Nhưng tôi hiểu rằng khi một pháp môn
cần phải được giữ bí mật một cách chặt chẽ  với những người trần tục 
thì hẳn là phải có những lý do hợp lý nhất định cho sự  ngăn cấm đó. Tôi
nhớ lại trường hợp tổn thương của chính Brama khi luyện  tập 
khí công mà không có người truyền dạy, và ý thức ngay được mối nguy hiểm
cho những ai chỉ tò mò muốn tìm hiểu pháp môn này chứ không thật lòng 
muốn luyện  tập nó như một cứu cánh của đời sống. Như vậy, ngày nào mà 
tôi vẫn còn bị xem  như một trong những kẻ tò mò kia thì chắc chắn tôi 
sẽ không thể học hỏi được gì  nhiều hơn về pháp môn huyền diệu này. Brama nói tiếp: 
– Những bậc chân sư của chúng  tôi luôn nắm được chìa khóa của phép 
khí công này. Họ biết rằng hai hệ thống hô  hấp và tuần hoàn có liên 
quan chặt chẽ với nhau. Họ cũng biết rằng tinh thần có  liên hệ trực 
tiếp đến hai hệ thống này, và họ nắm được bí quyết làm tăng cường  sức 
mạnh tâm linh bằng cách kiểm soát hơi thở. Ta nên biết rằng, hơi thở 
chính  là sự biểu lộ về mặt vật thể của một sức mạnh vô hình tế nhị hơn.
Sức mạnh này  mới là phần cốt yếu điều khiển mọi sinh hoạt của thể xác.
Chính cái sức mạnh đó  luôn tiềm ẩn vô hình trong tất cả những bộ phận 
cơ thể của chúng ta. Khi sức mạnh  ấy rời khỏi xác thân thì hơi thở sẽ 
ngưng lại, và đó là điều mà ta gọi là sự chết. 
Sự kiểm soát hơi thở sẽ giúp  ta làm chủ được phần nào nguồn sinh lực 
vô hình đó. Và khi sự kiểm soát thể xác  được rèn luyện đến mức triệt 
để, có thể kiểm soát được cả sự vận động của hơi  thở và quả tim, thì 
hành giả sẽ có thể kiểm soát toàn bộ sự sống của mình, kể cả  phần tinh 
thần một cách rất dễ dàng. Vì thế, bạn đừng nên lầm tưởng rằng những  
nhà hiền triết thời cổ xưa chỉ nghĩ riêng đến phần thể xác mà thôi khi 
các ngài  phát minh ra pháp môn Hatha Yoga này. 
Tôi quả thật không biết các  nhà hiền triết thời xưa nghĩ gì và muốn 
gì, nhưng ngay trong lúc đó tôi chỉ bị  cuốn hút ngay bởi câu anh ta vừa
nói. Tôi liền hỏi: 
– Phải chăng ông vừa nói rằng  người ta có thể kiểm soát được sự vận động của quả tim? 
– Đúng vậy, không những quả  tim mà tất cả những cơ quan nội tạng khác
trong cơ thể như gan, dạ dày, phổi,  thận... đều có thể kiểm soát được 
tùy theo ý muốn. 
– Bằng cách nào? 
– Bằng sức mạnh của ý chí phối  hợp với những phép luyện tập thích 
nghi. Những phép luyện tập này tự nhiên là  thuộc về trình độ cao đẳng 
của pháp môn Yoga. Những phép luyện tập này rất  khó và ít 
người có thể luyện tập thành công, ngay cả khi được các bậc chân sư  chỉ
dạy. Tuy nhiên, một khi bạn luyện tập thành công thì kết quả có thể 
vượt  ngoài sức tưởng tượng của những người bình thường. Nhờ những phép 
luyện tập này  mà tôi đã có thể kiểm soát được phần nào hoạt động của 
quả tim, và nhờ kiểm  soát được quả tim nên tôi cũng có thể chế ngự được
một số bộ phận khác. 
– Điều ấy thật là lạ lùng và  quả là ngoài sức tưởng tượng của tôi. 
– Vậy sao? Vậy thì bạn hãy đặt  bàn tay trên ngực tôi, ở ngay chỗ quả tim đây này. 
Brama vừa nói vừa chuyển  sang một thế ngồi lạ lùng và nhắm 
mắt lại. Tôi làm theo và đợi trong vài phút,  không thấy có điều gì lạ. 
Nhưng dần dần tôi nhận thấy quả tim ông ta đập chậm lại,  mỗi lúc một 
chậm hơn, chậm hơn nữa, trong khi sự hồi hộp và kinh ngạc làm cho  tim 
tôi đập mỗi lúc một nhanh hơn. Và cuối cùng tôi bỗng rùng mình kinh hãi 
khi  nhận thấy quả tim ông ta đã ngưng đập hoàn toàn. Tôi bắt đầu đếm: 
hiện tượng đó  kéo dài hơn bảy giây đồng hồ! 
Phải chăng đây là một ảo tưởng?  Nhưng không, tôi thử sờ mó, bóp nắn 
da thịt mình, tôi vẫn tỉnh táo hoàn toàn chứ  không mê sảng! Tôi cảm 
thấy bớt lo lắng khi quả tim ông ta bắt đầu đập trở lại,  dường như nó 
vừa sống lại, nhịp đập mỗi lúc một nhanh hơn và rồi trở lại bình  
thường. 
Vài phút sau, người yogi mới tỉnh lại và mở mắt ra. Ông ta hỏi: 
– Bạn có nhận thấy gì không? 
– Có, tôi nhận thấy rất rõ. 
Ông ta lại sắp tiết lộ thêm  điều kỳ lạ gì nữa chăng? Dường như ông ta đọc được tư tưởng tôi nên chậm rãi  nói tiếp: 
– Đó là chưa thấm vào đâu so  với những điều mà thầy tôi làm được. 
Ngài có thể cô lập một huyết quản, và thúc  đẩy hoặc ngăn chặn sự lưu 
thông của máu trong đó. Tôi cũng làm như vậy được một  phần nào, nhưng 
không bằng thầy tôi. 
– Ông có thể chứng tỏ cho tôi  thấy điều đó được chăng? 
Brama lặng lẽ đưa tay cho  tôi và bảo tôi bắt mạch nơi cổ 
tay. Tôi nhận thấy mạch máu ông ta đập chậm lại  rõ rệt, rồi ngưng hẳn. 
Tôi hồi hộp chờ đợi. Một phút, hai phút... trôi qua  trong khi tôi chăm 
chú đếm từng giây đồng hồ. Ba phút... rồi đến ba phút rưỡi,  tôi cảm 
thấy mạch máu lại bắt đầu chuyển động, lúc đầu còn hơi chậm, kế đó  
nhanh dần và trở lại bình thường. Tôi buột miệng nói: 
– Thật lạ quá ! 
Ông ta đáp một cách tự nhiên: 
– Như vậy cũng chưa lấy làm lạ! 
– Ông có thể cho tôi xem điều  gì lạ hơn nữa chăng? 
Lần này, Brama có vẻ  hơi do dự: 
– Được, nhưng đây là lần cuối  cùng và bạn hãy bằng lòng với bấy nhiêu đó. Bây giờ tôi sẽ ngưng hơi thở. 
Tôi hỏi một cách lo lắng: 
– Nhưng ông có thể chết! 
Câu nói của tôi dường như  không làm ông ta nản lòng chút nào. Ông ta bảo tôi: 
– Bạn hãy để bàn tay dưới hai  lỗ mũi của tôi. 
Tôi làm y theo lời. Bàn tay  tôi cảm nhận được một cách rõ rệt hơi thở ấm của ông ta. Brama
nhắm mắt  lại và ngồi yên không cử động như một pho tượng đá. Ông ta 
sắp nhập định chăng?  Tôi không dám nhúc nhích bàn tay. Dần dần, hơi thở
ông ta chậm lại rồi ngưng hẳn.  Tôi nhìn kỹ vào hai cánh mũi, cặp môi, 
hai vai, cho đến bộ ngực của ông ta,  nhưng không có gì cử động, không 
có dấu hiệu nào chứng tỏ rằng có hơi thở.  Nhưng đó chưa phải là những 
bằng chứng tuyệt đối, tôi nghĩ vậy, nên tôi muốn  tìm bằng chứng khác. 
Trong nhà không có một tấm  gương soi nào, nhưng tôi thấy gần đó có 
một cái dĩa đựng tro thuốc lá bằng đồng  sáng bóng. Tôi bèn cầm lấy và 
đưa vào phía dưới hai lỗ mũi của người yogi.  Hoàn toàn không có dấu hiệu của hơi thở, vì nếu có thì nó phải làm mờ cái mặt  dĩa bằng đồng bóng loáng này. 
Thật kỳ lạ! Trong cái chòi  tranh này, hiện tôi đang chứng kiến một sự
kiện lạ lùng, một hiện tượng mà các  nhà bác học Âu Tây nếu biết đến 
thì nhất định phải bị lôi cuốn vào sự tìm tòi  khảo cứu! Sự thật rõ ràng
ngay trước mắt tôi, với một bằng chứng hiển nhiên:  pháp môn Yoga không phải là một điều huyễn hoặc. 
Khi Brama tỉnh dậy và  trở lại trạng thái bình thường, ông ta có vẻ hơi mệt mỏi. Ông ta hỏi với một nụ  cười mệt nhọc: 
– Bạn có hài lòng chăng? 
– Rất hài lòng, nhưng tôi  không hiểu được gì cả. 
– Rất tiếc là tôi cũng không  giải thích được gì cho bạn. Phép ngưng 
thở này chỉ dành cho những bậc hành giả  đã tiến rất xa trên đường tu 
tập pháp môn Yoga. Đối với một người Âu, đó  có thể bị xem là 
một sự tập luyện điên rồ, nhưng đối với người phương Đông  chúng tôi thì
nó có một tầm quan trọng rất lớn. 
– Tuy thế, hiện nay ở các trường  học người ta vẫn dạy cho học sinh 
rằng con người không thể sống được nếu không  có sự hô hấp. Điều đó 
không phải là điên rồ chứ? 
Anh ta vừa nói vừa mỉm cười: 
– Không, nhưng nói như thế  không hoàn toàn đúng. Chẳng hạn như trường
hợp của tôi, tôi có thể ngưng thở suốt  hai giờ đồng hồ nếu muốn. Tôi 
vẫn thường làm như thế, nhưng bạn thấy đấy, tôi vẫn  chưa chết. 
– Tôi không muốn hỏi nhiều  hơn, vì cho dù ông nói có lẽ tôi cũng 
không đủ sức để hiểu, nhưng ông có thể  cho tôi biết sơ qua đôi điều về 
phần lý thuyết được chăng? 
– Điều đó thì được. Chúng ta  có thể lấy vài thí dụ ngay trong loài 
cầm thú. Đó là một phương pháp giảng dạy  bằng cách so sánh rất đặc biệt
của thầy tôi. Con voi thở chậm hơn con khỉ rất  nhiều, và nó cũng sống 
lâu hơn. Hoặc có vài loại bò sát như con trăn chẳng hạn,  khi so sánh 
với con chó bạn sẽ thấy cách thở của hai loài này khác nhau rất xa:  con
trăn thở chậm hơn và cũng sống lâu hơn. Như vậy, chúng ta thấy được là 
dường  như có một mối tương quan giữa sự hô hấp và tuổi thọ. 
Bây giờ, chúng ta hãy đi xa hơn.  Người ta thấy trên dãy Hy Mã Lạp Sơn
có những con dơi ngủ suốt mùa đông. Chúng  treo mình suốt nhiều tháng 
trên vách những hang núi và ngưng thở hoàn toàn cho  đến khi tỉnh giấc 
vào mùa xuân. Loài gấu trên dãy Hy Mã Lạp Sơn đôi khi cũng nằm  cứng đơ 
cả thân mình suốt mùa đông giá lạnh, dường như không còn dấu hiệu hoạt  
động nào cả. Cũng trên dãy Hi Mã Lạp Sơn là nơi khó tìm ra thức ăn vào 
những  tháng mùa đông đầy tuyết phủ, người ta thấy trong những hang hố 
dưới đất có những  con nhím ngủ một giấc dài qua nhiều tháng, mọi sự hô 
hấp đều ngưng bặt. Như vậy,  tại sao con người không thể làm được điều 
mà loài vật vẫn thường làm một cách tự  nhiên? 
Những điều nói trên kể ra  cũng thật lạ lùng, nhưng có lẽ vẫn không 
thuyết phục tôi hoàn toàn bằng những sự  biểu diễn của ông ta lúc nãy. 
Chúng ta vẫn quen cho rằng hơi thở là sự cần thiết  tối thiểu cho sự 
sống, nên không dễ gì loại bỏ được quan niệm đó. Tôi nói: 
– Người Âu Tây chắc sẽ không  bao giờ chấp nhận rằng sự sống vẫn có thể tiếp tục nếu người ta ngừng thở. 
– Nhưng sự thật là sự sống vẫn  luôn tiếp tục. Sự chết chẳng qua chỉ là một hình thức chuyển đổi mà thôi. 
– Ông có cho rằng người yogi tu luyện theo pháp môn này có thể kéo dài được sự sống hay chăng? 
– Tất nhiên là như vậy rồi. 
Brama nhìn tôi một cách lạ  lùng và nói tiếp: 
– Tôi nhìn thấy nơi bạn có  nhiều triển vọng tốt, vì thế nên tôi sẽ 
tiết lộ với bạn một điều bí mật, nhưng  với điều kiện là... 
– Ông nói đi. 
– Bạn hãy hứa sẽ không tự  mình tập luyện những gì khác hơn là những điều tôi có thể chỉ dạy cho bạn. 
– Tôi xin hứa. 
– Phải chăng từ trước đến giờ  bạn vẫn tin chắc rằng hơi thở gắn liền với sự sống? 
– Phải, tôi nghĩ như vậy. 
– Như thế, phải chăng là một  điều hợp lý khi nói rằng việc kiểm soát hơi thở cũng chính là kiểm soát được sự  sống? 
– Dường như là vậy. 
– Trong pháp môn Yoga, chúng  tôi cũng không đưa ra lý thuyết gì khác 
hơn. Chúng tôi chỉ nói rằng, hành giả  nào có thể kiểm soát và duy trì 
hơi thở hoàn toàn theo ý muốn sẽ có thể duy trì  được nguồn sinh lực cần
thiết để kéo dài sự sống. Bạn hiểu rõ chăng? 
– Tôi đang cố gắng để có thể  hiểu được. 
– Bạn hãy tưởng tượng rằng  người yogi có thể làm chủ hoàn 
toàn hơi thở không chỉ trong vài phút, mà  là trong nhiều tuần, nhiều 
tháng hay nhiều năm. Vì bạn đã nhìn nhận rằng hơi thở  gắn liền với sự 
sống, vậy phải chăng đây là một triển vọng hợp lý để con người  có thể 
kéo dài sự sống tùy theo ý muốn? 
Tôi phản đối:
– Nhưng vấn đề ở đây là tôi  nhận thấy ông đã ngưng thở hoàn toàn!
– Đó là do sự “nhận thấy” sai  lầm của bạn. Tôi chỉ thực sự ngưng thở 
trong ý nghĩa của hơi thở được mô tả  theo cách thông thường, nghĩa là 
quá trình cung cấp dưỡng khí cho cơ thể. Nhưng  vì sao cơ thể phải cần 
đến dưỡng khí? Đó là vì còn có những hoạt động về mặt thể  chất. Khi 
toàn bộ cơ thể được kiểm soát và đưa vào một trạng thái ngưng nghỉ  hoàn
toàn thì dưỡng khí còn cần đến để làm gì? Hành giả yogi khi 
đạt đến  trạng thái này chỉ còn duy trì sự sống trong tâm thức, không 
còn bất cứ sự trói  buộc nào với thể xác. Khi đó, hơi thở của họ trở nên
cực kỳ vi tế, đến mức mà  những người bình thường không thể nào nhận 
biết được. Tuy vậy, sự sống không phải  là chấm dứt. Vì thế, họ có thể 
hồi sinh bất cứ lúc nào, nghĩa là ra khỏi trạng  thái nhập định đó mà 
thôi.
Tôi không còn biết nói sao.  Làm sao có thể bảo rằng những điều đó là 
vô lý? Nhưng tất cả những điều đó đều  vượt ngoài tầm những kiến thức 
khoa học cơ bản nhất của tôi, làm sao tôi có thể  chấp nhận mà không có 
sự kiểm chứng lại một cách chặt chẽ? 
Những nhà thuật sĩ của phái  luyện kim (Alchimistes) thời 
Trung cổ cũng đã từng nuôi mộng trường sinh  bất tử, nhưng dưới ngọn 
lưỡi hái của thần chết, họ vẫn gục ngã từng người một  ngay bên cạnh 
những lò luyện kim đơn để tìm thuốc phản lão hoàn đồng? Có lẽ Brama
đang tự dối mình, nhưng có điều chắc chắn là anh ta không có ý định lừa
dối  tôi. Anh ta không hề có ý đến tìm tôi hay tìm kiếm một người đệ tử
nào cả. Anh  ta điên chăng? Không phải, vì anh ta lý luận mọi sự một 
cách hoàn toàn sáng suốt.  Có một điều gì đó mơ hồ nhưng chắc chắn cho 
tôi biết là anh ta hoàn toàn không  tự dối mình, nhưng tôi cũng không 
biết phải giải thích thế nào về những sự kiện  vừa nhìn thấy. 
Như đọc thấu được sự hoang  mang ngờ vực của tôi trong tư tưởng, Brama điềm đạm nói tiếp:
– Bạn không tin à? Bạn có  nghe nói về một người thuật sĩ (fakir) đồng ý để cho vua Ranjit Singh chôn sống trong một huyệt xây bằng đá ở Lahore chăng? Khi đem chôn sống,  có cả sự hiện diện của những viên sĩ quan Anh và nhà vua Singh.
Ngôi mộ  được giao cho quân sĩ canh gác suốt ngày đêm trong sáu tuần 
lễ. Đúng ngày, người  ta mới cạy nắp quan tài thì người thuật sĩ Ấn Độ 
từ trong chui ra vẫn còn sống  khỏe mạnh! Bạn có thể kiểm chứng, vì tôi 
nghe nói rằng việc này đã được phúc  trình cẩn thận và biên bản ghi chép
vẫn còn lưu trữ trong văn khố của chính phủ  Anh.  
Như vậy, người thuật sĩ đã  hoàn toàn chủ trị được phép hô hấp và có 
thể ngưng thở – theo như người ngoài  nhận thấy – tùy ý muốn mà không 
chết. Tuy thế, người này không phải một môn đồ  chân chính của pháp môn Yoga, vì tôi có biết về nếp sống của ông ta, có  khá nhiều vấn đề về đạo đức. Ông ta tên là Haridas
và sống ở miền Bắc Ấn.  Nếu người như thế có thể ngưng thở mà vẫn sống 
trong một thời gian lâu như thế ở  một nơi không có không khí, thì thử 
hỏi các bậc thầy chân chính lẽ nào lại  không làm được? 
Sau một lúc im lặng, Brama tiếp:
– Pháp môn Yoga còn  đem lại cho ta nhiều năng lực khác nữa. 
Nhưng trong thời buổi suy đồi hiện nay,  có mấy ai là người chịu cố gắng
công phu tu luyện? 
Tôi trả lời: 
– Biết làm sao được, khi người  ta còn phải vật lộn trong sự mưu sinh 
hằng ngày, không còn thời giờ để nghĩ đến  những hoạt động tinh thần 
nữa. 
Brama gật đầu tán thành: 
– Đúng vậy, và vì thế mà những  phép tu luyện này chỉ để dành cho một 
số ít người. Như thế, bạn sẽ hiểu được tại  sao các bậc chân sư luôn giữ
gìn pháp môn này một cách bí mật hoàn toàn đối với  những người thế 
tục. Những bậc chân sư ấy không bao giờ đi tìm đệ tử, mà chính  các đệ 
tử phải tìm đến các ngài. 
***
Một hôm, Brama đến  dùng cơm tại nhà tôi. Cơm nước xong, chúng tôi ra ngồi ngoài hàng hiên dưới ánh  trăng sáng. Tôi ngồi trên ghế, còn Brama thích ngồi trên chiếu trải dưới  sàn gạch. 
Chúng tôi ngồi im lặng trong  vài phút để thưởng thức vẻ đẹp của đêm 
trăng. Nhưng nhớ lại câu chuyện lần trước,  tôi vẫn còn tò mò muốn biết 
thêm về vấn đề kỳ quái là có những người có thể chống  lại uy lực của tử
thần! 
Brama nói: 
– Một trong những vị chân sư  mà tôi được biết đang sống trong một vùng hẻo lánh trên dãy núi Nilgiri
và không hề bước ra khỏi am thất. Một vị khác sống trong động đá trên 
dãy Hy Mã  Lạp Sơn. Những người ấy, bạn không bao giờ có thể gặp được, 
vì họ sống lánh xa  thế tục. Những vị ấy đều đã đạt đến mức độ có thể 
tùy ý kéo dài sự sống. 
– Ông có tin như vậy chăng? 
– Lẽ tất nhiên, vì chính thầy  tôi cũng là một người như vậy. 
Thầy của Brama ư? Vì  chúng tôi đã quen nhau khá thân thiết và không còn sự lạnh lùng cách biệt nữa,  nên tôi đánh bạo hỏi một câu: 
– Có thể cho tôi biết thầy của  anh là ai chăng? 
Brama do dự trong một  lúc, nhưng rồi trả lời với một giọng trang nghiêm: 
– Thầy tôi có danh hiệu là Yetrumbu  Swami. Ở miền Nam Ấn, đệ tử của người rất đông, nhưng người thường đi lên  miền Bắc và sống trên dãy Hy Mã Lạp Sơn. 
– Tôn sư đã đạt tới mức tối  thượng của pháp môn Yoga chưa? 
– Tôi tin là như vậy. 
– Và ông cũng tin rằng tôn sư  có thể tùy ý kéo dài sự sống? 
– Tất nhiên là như vậy. 
Brama nói câu đó với một  giọng vô cùng tự nhiên, và khi nhìn thấy sự ngạc nhiên trong mắt tôi, ông ta  nói tiếp: 
– Thầy tôi thường kể cho tôi  nghe nhiều chuyện liên quan đến việc 
này. Qua những câu chuyện đó, tôi thấy rõ  là người hoàn toàn có khả 
năng kiểm soát được sự sống của mình. Người cũng thường  nói rằng người 
sẽ ra đi khi cơ duyên hóa độ đã hoàn mãn chứ không phụ thuộc vào  những 
quy luật thông thường của sự sống chết. 
Điều này thật khó mà tin được  đối với một kẻ đầy hoài nghi như tôi. Tôi nói: 
– Nhưng bất cứ ai khi còn  đang sống cũng đều có thể nói ra những câu tương tự như thế. 
Brama thản nhiên như  không nghe thấy sự phản đối của tôi và nói tiếp: 
– Thầy tôi đã trải qua nhiều  biến cố quan trọng trong đời. Vào thời 
chiến tranh, ngài đã từng rơi vào những  tình trạng mà đối với người 
bình thường chắc chắn không thể vượt qua được cái  chết. Nhưng ngài 
không để cho những nghịch cảnh ấy chấm dứt đời sống của mình,  vì ngài 
thấy rằng còn có nhiều việc phải làm, nhiều đệ tử cần được ngài hóa độ. 
Dưới ánh trăng, tôi nhìn thấy  rõ vẻ mặt bình thản tự nhiên của người yogi
khi anh ta nói ra những chuyện  lạ lùng trên dây. Một người Âu đã quen 
suy luận với những phương pháp chứng  minh cụ thể của khoa học hiện đại 
làm sao có thể chấp nhận những điều này mà  không một có sự thẩm tra 
chắc chắn? Dầu sao, Brama là người Ấn Độ, chắc  ông ta cũng có 
thói quen tin tưởng vào những chuyện hoang đường như nhiều người  bản xứ
mà tôi đã gặp. Tôi vẫn lẳng lặng ngồi nghe ông ta nói tiếp:
– Thầy tôi đã từng làm cố vấn  cho một vị Quốc vương xứ Népal trên 
mười một năm. Dân chúng xứ này quí mến người  như thần thánh. Người cũng
đối với họ như cha với con. Người gạt bỏ mọi sự  thành kiến về giai cấp
và xem mọi con người, mọi chủng tộc đều bình đẳng như  nhau. Trong đời 
ngài, ngài đã từng đi khắp đó đây, làm rất nhiều việc mang lại  lợi ích 
cho người khác, và ngài luôn tỏ ra tự tin là sẽ không bao giờ để cho sự 
chết chế ngự mình. Tóm lại, ngài chỉ quyết định ra đi khi nào tự ngài 
thấy rằng  điều đó là thích hợp. 
– Nhưng làm sao một người có  thể sống lâu tùy ý như thế? 
Brama mơ màng nhìn về cõi  xa xăm, dường như quên cả sự có mặt của tôi. Ông ta đáp: 
– Có rất nhiều phương pháp để  kéo dài sự sống. Mỗi một pháp môn tu 
tập chân chính đều có thể giúp hành giả đạt  đến khả năng này. Tuy 
nhiên, theo pháp môn Hatha Yoga thì chúng tôi dựa  trên căn bản
là sự kiểm soát hoàn toàn thể xác, từ đó mới đạt đến sự kiểm soát  đời 
sống tinh thần. Như bạn có thể thấy rõ, sự sống của thể xác này rất mong
manh, có thể chấm dứt vào bất cứ lúc nào. Nếu sự sống của bạn phụ 
thuộc vào thể  xác, bạn sẽ không thể biết được là mình sẽ chết vào lúc 
nào. Nhưng nếu bạn kiểm  soát được hoàn toàn thể xác, đến mức độ như tôi
đã từng mô tả, chẳng hạn như điều  khiển được hoạt động của từng mạch 
máu cho đến quả tim... thì vấn đề sẽ hoàn  toàn đổi khác. Ngay cả khi 
thể xác rơi vào tình trạng không có đủ những điều kiện  cho một sự sống 
thông thường thì bạn vẫn có thể kiểm soát được nó và không cho  phép đời
sống chấm dứt. Sau đó, bằng năng lực của ý chí, bạn sẽ dần dần khôi 
phục  trạng thái của thể xác cho đến khi nó có thể hoạt động bình thường
trở lại. Nói  chung, quy luật thông thường là sự sống của thể xác quyết
định đời sống tâm  linh của một người, nhưng với hành giả Hatha Yoga thượng thặng thì ngược  lại, sự sống của tâm linh – vốn không có giới hạn – sẽ quyết định đời sống của  thể xác người đó. 
Tôi ngỏ lời cám ơn Brama về những giải thích tận tình của ông
ta, nhưng tôi vẫn thấy không đủ sức đặt niềm  tin vào những gì ông ta 
vừa nói. Khoa sinh lý học hiện nay không thể chấp nhận  lý thuyết về sự 
tương quan giữa thể xác và tinh thần như thế, và tôi e rằng những  
chuyện lạ kỳ trên đây chỉ có trong óc tưởng tượng của những người chất 
phác và  hồn nhiên ở xứ này. Tuy nhiên, sự kiểm soát hơi thở và mạch máu
mà tôi đã chứng  kiến cũng đủ chứng minh rằng năng lực đạt được do sự 
tu tập của các nhà đạo sĩ  không phải là những điều viển vông, và rõ 
ràng là những năng lực đó có thể giúp  người ta thực hiện được rất nhiều
việc phi thường. Theo ý tôi thì đó là tất cả  những gì hiện nay người 
ta có thể nói ra một cách dè dặt về vấn đề này. 
Tôi vẫn giữ im lặng và không  muốn thổ lộ những ý tưởng riêng của mình. Brama lại nói tiếp: 
– Tất cả những người thế tục  hầu như ai cũng muốn chiến thắng sự chết
để được sống lâu mãi mãi. Nhưng đối với  các bậc chân sư đã đạt được 
giải thoát thì các ngài không có sự mong muốn đó.  Các ngài chỉ kéo dài 
đời sống vật chất này khi thấy điều đó là cần thiết để làm  lợi lạc cho 
người khác, và khi cơ duyên đã hết thì các ngài sẽ chọn bước vào đời  
sống tâm linh vốn là thuần khiết và tinh tế hơn nhiều so với cuộc đời 
thế tục.  Mặt khác, khi người ta vẫn còn mang tâm niệm tham sống sợ chết
thì cho dù họ có  tu tập đến bao lâu, theo bất cứ phương pháp nào, cũng
đều không thể có được kết  quả như mong muốn. 
Tôi đưa ra những câu hỏi cuối  cùng vì thấy vầng trăng khuya đã chếch bóng, báo hiệu đến giờ phải chia tay: 
– Ông có thể cho biết lệnh  tôn sư hiện nay đang ở đâu chăng?
– Thầy tôi đang ẩn cư trong một  ngôi đền hẻo lánh ở vùng núi non xứ Népal. 
– Ông có nghĩ rằng một ngày  kia lệnh tôn sư sẽ trở xuống đồng bằng hay chăng? 
– Làm sao tôi biết được ý  nghĩ của thầy? Ngài có thể sẽ ở lại xứ Népal thêm nhiều năm nữa trước  khi xuống núi, vì ngài thấy thích hợp khi truyền đạo ở Népal hơn so với ở  Ấn Độ. Pháp môn Hatha Yoga được người Népal tiếp thu nhanh và dễ dàng  hơn là người Ấn. 
Brama trở lại với sự im lặng.  Chắc ông ta đang thả hồn đi xa
lắm về quá khứ và nhớ đến hình ảnh của vị thầy  kính mến. Ôi! Nếu những
điều tôi vừa được nghe không phải là một ảo tưởng, thì  những tri thức 
công khai của nhân loại hiện nay quả là quá ít ỏi và thiếu sót. 
lll
Màn đêm ở Ấn Độ buông xuống rất  mau chóng, không hề có một buổi hoàng
hôn kéo dài như ở trời Âu. Khi bóng tối  bao phủ cái chòi tranh, Brama
thắp lên một ngọn đèn dầu treo lủng lẳng  trên xà nhà bằng một sợi dây,
và chúng tôi ngồi dưới ánh đèn dầu leo lét. Bà  lão bước ra ngoài một 
cách kín đáo để cho chúng tôi tự do nói chuyện, với một  người thông 
ngôn trẻ tuổi được tôi dẫn theo. 
Khói nhang tỏa ra khắp gian  phòng một mùi hương thần bí. Ý nghĩ về sự
chia ly sắp đến làm cho tôi buồn man  mác. Tôi cố gắng vượt qua cơn 
buồn ám ảnh, nhưng vô hiệu. Vấn đề bất đồng ngôn  ngữ, phải nói chuyện 
thông qua người thứ ba là một chướng ngại, vì tôi không thể  bày tỏ tâm 
sự đang tràn ngập cõi lòng tôi theo như ý muốn. Trong giờ phút này,  
những lý thuyết lạ lùng kia có thật hay không cũng không còn quan trọng 
đối với  tôi. Điều đáng kể là người đạo sĩ đã vui vẻ sốt sắng để cho tôi
bước vào cuộc đời  cô đơn độc chiếc của ông ta. Tôi đã nhận thấy được 
sự cảm thông giữa hai tâm hồn  chúng tôi, và bây giờ tôi đã hiểu rằng 
đối với một người như vậy, thật là một sự  hy sinh lớn lao khi chấp nhận
dẹp bỏ sự dè dặt kín đáo của mình để thổ lộ tâm sự  với một người lạ 
mặt. 
Nhưng lúc này lòng mong muốn  hiểu biết thêm của tôi lại thắng thế. 
Tôi viện cớ sắp từ biệt trong nay mai để  cố gắng thuyết phục ông ta 
tiết lộ cho tôi một vài điều bí mật cuối cùng. Nhưng  ông ta đã giữ thế 
thủ bằng cách đưa ra câu hỏi: 
– Bạn có sẵn sàng từ bỏ chốn  phồn hoa náo nhiệt của thị thành và ẩn mình nơi thanh vắng của chốn núi rừng tịch  mịch chăng? 
– Điều đó cần phải được suy  nghĩ kỹ, Brama. 
– Bạn có sẵn sàng từ bỏ mọi  hoạt động, mọi công việc làm ăn, mọi thú vui trần tục, và để trọn thời giờ thực  hành pháp môn Yoga, không phải chỉ trong một lúc mà là trong nhiều năm  liên tiếp? 
– Chắc là không, tôi chưa có  đủ sự chuẩn bị sẵn sàng. Nhưng một ngày kia, có lẽ... 
– Nếu vậy, tôi không thể nào  dìu dắt bạn đi xa hơn nữa. Pháp môn Yoga không phải là một môn tiêu khiển  trong những giờ nhàn rỗi. 
Thế là tôi sẽ không bao giờ  trở thành một đạo sĩ! Phải thành thật mà 
nhìn nhận như vậy. Một môn tu luyện  khó khăn như thế, với một kỷ luật 
gắt gao khổ hạnh, không phải để dành cho sự  tò mò tìm hiểu của một kẻ 
hoài nghi như tôi! Tuy nhiên, có một cái gì nó hấp dẫn  tôi hơn là những
năng lực của thể xác vật chất. Tôi tỏ bày tâm sự với người đạo  sĩ: 
– Brama, những năng lực  phi thường mà ông mô tả đó hẳn là 
một điều huyền diệu và hấp dẫn vô cùng. Tôi  cũng mong ước có ngày sẽ 
được thụ giáo theo pháp môn Yoga của ông. Nhưng  rốt cuộc nó có thể đem đến cho ta một sự hạnh phúc lâu bền nào chăng? Trong  khoa Yoga, còn có một mục đích nào cao hơn nữa chăng? Tôi nói vậy không  biết bạn có hiểu ý tôi không. 
Brama mỉm cười và nói: 
– Tôi hiểu. Những thánh kinh  của Ấn Độ nói rằng pháp môn Hatha Yoga (luyện xác thân) phải đi đôi với  pháp môn Raja Yoga (luyện tinh thần). Sự thật, pháp môn trên chỉ là dọn  đường cho pháp môn Raja Yoga,
vì các bậc thầy chân chính đều biết rằng  việc tu tập không chỉ nhắm 
vào mục đích tinh luyện thể xác vật chất mà thôi...  Các ngài hiểu rằng 
sự tu luyện thể xác chỉ là một bước đầu tiên để dẫn đến sự  tu luyện 
tinh thần, và mọi pháp môn tu tập đều nhắm đến mục đích cuối cùng là sự 
toàn thiện toàn giác. 
– Như thế, chắc hẳn phải có một  pháp môn chuyên rèn luyện tinh thần? 
– Đúng vậy, và mục đích của  pháp môn đó là dùng trí tuệ như một ngọn đèn soi chiếu vào nội tâm của chính  mình. 
– Người muốn bắt đầu học pháp  môn này phải làm thế nào? 
– Điều kiện tất yếu trước  tiên là phải có một bậc thầy hướng dẫn. 
– Phải có thầy ư? Nhưng biết  tìm thầy ở đâu? 
Brama hơi nhún vai: 
– Bạn ơi! Kẻ đói bụng thì đi  tìm món ăn, nhưng còn người sắp chết đói
thì quên hết tất cả mọi việc khác, chỉ  nghĩ làm sao kiếm được thức ăn 
mà thôi. Nếu bạn nuôi khát vọng tìm thầy như người  sắp chết đói cầu 
được thức ăn thì chắc chắn bạn sẽ tìm thấy. Bạn hãy tìm thầy với  một 
đức tin, rồi khi nhân duyên đầy đủ thì chắc chắn bạn sẽ gặp được một bậc
thầy  như mong muốn. 
– Bạn tin rằng còn có những yếu  tố khác liên quan đến việc này ngoài sự nỗ lực của bản thân hay sao? 
– Có chứ. Người Tây phương  các bạn thường xem đó là định mệnh, nhưng 
chúng tôi gọi các yếu tố phức tạp kết  hợp để gây tác động đến kết quả 
của một vấn đề là những nhân duyên. Cũng giống  như khi bạn gieo một hạt
giống thì cần có mưa và khí hậu thích hợp để nó tăng  trưởng. Nếu gặp 
phải hạn hán thì không một hạt giống tốt nào có thể nảy mầm được  cả. 
– Tôi thấy có nhiều kinh sách  cũng truyền dạy các pháp môn tu tập. 
– Không có thầy dạy thì kinh  sách cũng chỉ là mớ giấy lộn không hơn không kém. Danh từ guru
(đạo sư)  của chúng tôi có nghĩa là “người dẹp tan sự tối tăm u ám”. 
Người nào nhờ sự gắng  công tìm tòi và hội đủ nhân duyên để tìm ra được 
một vị chân sư sẽ có khả năng  tu tập thẳng đến sự giác ngộ. 
Nói đến dây, Brama tiến  đến gần tấm gỗ phẳng đặt giấy tờ và lấy đưa cho tôi một đạo linh phù đầy những  ký hiệu thần bí, những biểu tượng và chữ Tamoul
vẽ bằng mực màu đỏ, màu  xanh và màu đen. Trên hết có vẽ một hình tròn,
hẳn là biểu tượng của mặt trời,  hình mặt trăng và một con mắt, còn 
khoảng giữa thì để trống. Ông ta nói: 
– Tôi vẽ lá bùa này cho bạn  trong đêm qua. Khi bạn ra đi, bạn hãy dán
một tấm một ảnh của tôi ở khoảng trống  ngay chính giữa. 
Brama cho biết rằng chỉ cần  tập trung tư tưởng trong năm 
phút vào lá bùa lạ lùng này trước khi đi ngủ thì  tôi sẽ mộng thấy ông 
ta một cách hoàn toàn rõ rệt. Ông ta nói: 
– Dầu chúng ta có cách xa  nhau hàng ngàn dặm, chúng ta vẫn có thể gặp
nhau trong tâm thức nếu bạn tập  trung tư tưởng vào lá bùa này. Những 
cuộc gặp gỡ trong mộng cũng thật có như những  cuộc thăm viếng bằng thể 
xác, chúng ta hoàn toàn có thể trao đổi ý tưởng và thảo  luận về các vấn
đề cũng như thăm hỏi lẫn nhau. 
Lời dặn dò của Brama làm cho tôi nghĩ rằng ngày từ biệt của chúng tôi đã sắp đến và tôi tỏ ý băn  khoăn không biết ngày nào mới có thể gặp lại Brama. Ông ta bèn an ủi  tôi: 
– Chúng ta không bao giờ có  thể quyết định được mọi việc trong đời 
sống, vì chúng tùy thuộc vào rất nhiều  nhân duyên khác nhau. Nhưng hãy 
vững tin nơi thiện ý của bản thân mình, vì chắc  chắn nó sẽ mang lại cho
mỗi người chúng ta những kết quả tốt lành. Về phần tôi,  tôi cũng sẽ ra
đi vào mùa xuân, đến địa phận tỉnh Tanjore. Tại đó có hai  
người đệ tử đang chờ đợi tôi. Còn tương lai về sau thế nào, chúng ta đều
không  thể biết trước. Tuy nhiên, như bạn đã biết, tôi vẫn luôn chờ đợi
lời kêu gọi của  thầy tôi. 
Brama im lặng một lúc và  nói tiếp bằng một giọng rất thấp mà
tôi nghe như tiếng thì thầm. Tôi đoán chừng  hay là anh ta lại tiết lộ 
thêm điều gì bí mật nữa chăng? Tôi quay lại người  thông ngôn thì nghe 
anh ta chuyển dịch lại nội dung ấy là: 
– Thầy tôi đã hiện ra với tôi  trong đêm vừa qua. Ngài có nói chuyện về bạn. Ngài nói với tôi rằng: “Vị Sahib
bạn con đang khát khao sự hiểu biết. Anh ta vốn là người đồng môn với 
chúng ta  trong một kiếp trước. Anh ta đã tu luyện theo phép môn Yoga,
nhưng thuộc  về một môn phái khác. Ngày nay, anh ta đã trở lại Ấn Độ 
trong thể xác của một  người Anh. Anh ta đã quên những gì anh ta đã học 
với chúng ta, nhưng không bao  lâu anh ta sẽ có cơ hội nhớ lại. Ngày nào
chưa gặp lại được thầy thì anh ta vẫn  sẽ không phục hồi lại được ký ức
về dĩ vãng. Tuy nhiên, ký ức đó vẫn luôn tiềm  tàng, sau này thầy anh 
ta chỉ cần khơi động một chút cũng đủ làm cho nó bừng dậy.  Vị thầy đó, 
con hãy cho anh ta biết là anh ta sẽ có dịp gặp lại. Điều đó chắc  chắn 
sẽ đến, anh ta không cần phải băn khoăn gì nữa. Anh ta sẽ được toại 
nguyện  trước khi rời khỏi xứ này.” 
Nghe đến đây, sự ngạc nhiên của  tôi thật là vô hạn. Dưới ánh đèn dầu 
leo lét, gương mặt của người bạn tôi dường  như biến đổi một cách khác 
thường. Tôi hỏi anh ta với một giọng mà tôi lấy làm  hối tiếc là đã lộ 
vẻ nghi ngờ: 
– Phải chăng ông đã nói rằng  lệnh tôn sư đang ở xa lắm, tận xứ Népal? 
– Phải, thầy tôi vẫn ở đó. 
– Tức là cách đây 1.200 dặm?  Làm sao lệnh tôn sư có thể nói chuyện với ông qua một khoảng cách đường dài như  vậy? 
– Thầy tôi luôn có mặt mỗi  khi tôi tưởng nhớ đến ngài, dầu cho chúng 
tôi ở cách xa nhau muôn dặm. Tôi cảm  nhận được những tư tưởng của thầy 
tôi khi chúng đến với tôi xuyên qua không  gian và hiển hiện rõ ràng 
cũng giống như mọi thứ trước mắt tôi. 
– Phải chăng đó gọi là thần  giao cách cảm? 
– Có thể nói như vậy. 
Tôi đứng dậy, vì đã đến lúc  kiếu từ. Chúng tôi còn đi dạo một lần 
cuối cùng dưới ánh trăng khuya, dọc theo  những vách tường cũ của ngôi 
đền bên cạnh nhà của Brama. 
Chúng tôi dừng bước dưới một  hàng dừa cành lá sum suê có ánh trăng rọi xuyên qua in bóng trên mặt đất. Trước  khi từ giã, Brama thì thầm: 
– Bạn cũng thấy là tôi không  sở hữu gì nhiều. Đây là một vật quý giá nhất của tôi, bạn hãy cầm lấy. 
Nói xong, anh ta cởi chiếc nhẫn  đang đeo ở ngón tay áp út bên trái và
đặt vào lòng bàn tay lật ngửa. Dưới ánh  trăng, tôi thấy chiếu sáng 
ngời một viên ngọc bích màu xanh có gân màu nâu sậm,  lồng trong khung 
nhẫn bằng vàng. Brama đeo chiếc nhẫn vào ngón tay tôi  và siết bàn tay tôi để từ giã. Tôi vừa tỏ ý không dám nhận món quà tặng quý giá  đó thì Brama đã ngăn chặn lời từ chối của tôi bằng cách siết bàn tay tôi  chặt hơn nữa. Anh ta nói: 
– Tôi nhận được chiếc nhẫn  này của một vị hiền giả. Người ấy đã tặng 
cho tôi khi tôi bắt đầu bước chân lên  đường đạo. Bây giờ, đến lượt bạn 
hãy đeo nó. 
Brama giải thích thêm với tôi  rằng viên ngọc thạch này là một vật rất
linh nghiệm. Nó có công năng giúp cho  những người đủ cơ duyên sớm được
gặp gỡ các bậc chân sư, hiền giả. 
Tôi chưa thấy được sự linh  nghiệm đó, nhưng những lời giải thích xem ra rất quả quyết và tự tin của Brama
đã sớm khích động trong tôi những tư tưởng lạ kỳ, xâm chiếm lấy khối óc
trần tục  còn loạn động của tôi. Những lời nhắn nhủ lạ lùng của một vị 
chân sư ở cách xa  ngàn dặm thật quá sức lạ lùng đối với tôi nên xin 
miễn bàn luận thêm. Một sự giằng  co mãnh liệt đang diễn ra trong tâm 
hồn tôi giữa sự ngờ vực và đức tin. Còn về  chiếc nhẫn này? Làm sao có 
thể tin được rằng một chiếc nhẫn vô tri vô giác lại  có thể gây ra một 
ảnh hưởng huyền bí nào đó về phương diện tâm linh hay vật thể?  Phải 
chăng niềm tin đó chỉ là một điều dị đoan mê tín? Nhưng Brama tỏ ra  tin chắc ở điều đó. 
Cuối cùng, tôi phải tự nhủ rằng  dường như việc gì cũng có thể xảy ra 
được cả ở cái xứ lạ lùng huyền bí này! Tôi  vẩn vơ suy nghĩ lan man đến 
nỗi đi lệch khỏi con đường mòn và đâm sầm vào một gốc  dừa. Dưới nhành 
lá dịu dàng phất phơ của nó, những điểm sáng đom đóm bay lượn  thành 
từng vòng tròn lập lòe huyền bí. 
Nền trời trong vắt một màu  xanh thẫm. Sao Kim chói rạng tỏa ra một 
ánh sáng rực rỡ xem dường như rất gần.  Cảnh vật thiên nhiên đắm chìm 
trong một bầu không khí hoàn toàn yên lặng, cả đến  những con dơi lớn 
đang vụt bay ngang qua trên cao cũng không phát ra một âm  thanh nào. 
Trong giây lát, tôi tự thả hồn trôi theo cái thú vị triền miên của  
những giờ phút tĩnh mịch thần tiên này. 
Về đến nhà, tôi trằn trọc suốt  đêm không sao ngủ được. Mãi đến lúc 
gần sáng tôi mới chợp mắt được đôi chút khi  những ý nghĩ vẩn vơ trong 
đầu óc của tôi tạm thời lắng dịu. 
 
Về sau tôi đã kiểm chứng và thấy việc ấy quả thật xảy ra năm 1837 tại 
Lahore. Người  thuật sĩ được chôn sống trước mặt vua Ranjit Singh, Sir 
Claude Wade, bác sĩ  Honighbetget và nhiều nhân chứng khác. Quân lính 
canh gác suốt ngày đêm ở một  bên ngôi mộ. Sau đó bốn mươi tám ngày, 
ngôi mộ được  khai quật lên, thì người thuật sĩ vẫn còn sống. Quý  vị 
nào muốn biết thêm chi tiết xin hãy tra cứu tài liệu ở văn khố chính phủ
tại  Calcutta.