Thể loại sách khác
Du lịch xứ Phật
Đoàn Trung Còn
13/07/2554 22:55 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng


Chàng Kyipup, một người lúc trước có du học bên nước Anh, thường lại thăm tôi và nói cho tôi biết về chi tiết sở bưu điện mới bên Tây Tạng.

Từ xưa đến nay, trong xứ có cách đem thơ bằng ngựa, trạm phu chạy từ tỉnh này đến tỉnh kia. Theo lối này chỉ đem công văn, trát lệnh của chính phủ thôi. Nhiều khi người ngoài cho tiền thì họ cũng đem thơ riêng. Mấy năm sau này, lối đi thơ bằng ngựa đổi thành sở bưu điện có trật tự, có chuyển bưu phẩm và thơ riêng cho tư nhân. Bây giờ ở Tây Tạng có mười hai nhà bưu điện, lớn hơn hết là ở kinh thành Lhassa, Shigatsé, Gyangtsé và Pari. Mấy tỉnh này nằm gần trung tâm Tây Tạng, còn mấy tỉnh ngoài giao thông bất tiện nên vẫn còn giữ cách đưa thư như xưa.

Riêng về thư tín thì người ta chuyển đi bằng ngựa, chạy từ trạm này đến trạm kia thì đổi ngựa, thay người. Sở này làm việc cũng khá nhanh. Vì từ Gyangtsé đến Lhassa trên hai trăm bốn mươi cây số mà người ta chuyển một lá thư đến trong hai ngày rưỡi. Xứ Tây Tạng cũng dùng tem thư, nhưng thường thì thư được chuyển đến tận nhà là nhờ tiền thưởng cho những người phu trạm. Lẽ cố nhiên là xứ Tây Tạng không có quan hệ trực tiếp với hệ thống bưu chính thế giới, và ở ngoại quốc không thể thông tin trực tiếp với kinh thành. Nhưng đồn binh ở thành Gyangtsé, có hai bưu điện, một của người Anh, một của Tây Tạng. Nếu có quen với người làm việc tại bưu điện Anh ở Gyangtsé thì mới có thể nhận thư từ bên Âu Châu gởi qua. Nhờ vậy mà trong khi ở Tây Tạng, tôi có nhận được hai lần thư từ bên nước Anh gởi đến cho tôi đề ở thành Darjeeling. Lòng đang bực dọc, trông thư như trời hạn trông mưa, thế mà bắt được thư thì lại chỉ nói toàn những chuyện đâu đâu. Trong một bức thư, quan chức kho bạc yêu cầu tôi phải nộp thuế đủ trong mười ngày, lại còn hăm dọa này khác... Thật là buồn cười.

Mấy năm sau này, có một đường điện tín nối từ Gyangtsé đến kinh đô Lhassa. Điện tín còn sơ sài, thỉnh thoảng lại đứt giây một lần, nhưng mỗi tuần cũng chuyển được chừng năm bức điện. Ở kinh đô, nhờ có sở điện tín Gyangtsé mà người ta hiểu biết được về các nước ngoài. Hóa ra kinh đô vẫn đóng cửa kín mít, mà chuyện ngoại quốc ai ai cũng đều hay biết.

Đường giây điện tín ấy được thành lập là nhờ lệnh của Hội đồng nội các, nhất là nhờ ảnh hưởng của quan Tsarong. Mấy ông này không cần hỏi ý kiến Hội đồng quốc gia, vì biết trước rằng giới tăng sĩ có bao giờ chấp nhận việc cách tân đâu. Tôi xin thú thật rằng, nhờ sở điện tín ấy, họ mới biết tôi vào Tây Tạng lần trước, và nhờ điện tín, họ mới ra lệnh cho các quan bắt tôi mà trục xuất về Ấn Độ.

Trong số người đến thăm viếng mà có phần bổ ích cho tôi, có chàng Champela là vui vẻ bặt thiệp hơn hết. Tuy chàng là người Tây Tạng, nhưng lúc nhỏ có ở thành Darjeeling, nên nói tiếng Anh rất rành và biết rõ phong tục của người Anh. Chàng có khiếu thông minh, trước có làm việc trong một ngân hàng. Sau có chuyện lôi thôi, sổ sách tiền bạc không phân minh nên chàng mới đến ở kinh đô Lhassa, vì biết rằng ở Tây Tạng không có luật bắt tội nhân mà nộp cho chính phủ nước khác. Chàng biết tiếng ngoại quốc, được làm việc trong một sở của chính phủ, và chàng được bổ làm thông ngôn chính thức của chính phủ. Vì trong nước cần có một viên quan thường trực tại kinh đô, biết tiếng Anh để dễ giao tiếp với bên ngoài.

Champela có một người em tên Karma-Subur, chính là thầy dạy tôi nói tiếng Tây Tạng tại Darjeeling. Karma-Subur là người thông minh lắm, vì ít người đem tiếng Tây Tạng mà dạy được cho người nước ngoài.

Champela thường đến viếng tôi luôn. Nhờ chàng mà tôi biết được nhiều việc. Chàng nhỏ người, hiền lành, lễ phép, vui vẻ, dễ thương và ưa nói chuyện khôi hài. Từ khi xảy ra việc lôi thôi lúc niên thiếu thì thành ra một người có tư cách đoan trang. Chàng với quan Tsarong là hai người xuất chúng ở Tây Tạng, hết lòng lo lắng việc nước, và hiểu rõ những thời cuộc chính trị ở nước ngoài. Điều này là quý lắm, vì người Tây Tạng cho đến hạng quan chức cũng không thông hiểu việc quốc chính. Vậy nên mỗi khi muốn hỏi thăm chuyện chi thì tôi cứ hỏi Champela.

Chính chàng có cho tôi hay một cách trào phúng rằng nhà vua có nhận được rất nhiều thư từ bên Anh Quốc và Hoa Kỳ. Phần đông người viết những bức thư ấy đều ca tụng đạo Phật, coi nhà vua là một vị Phật sống ở ngôi. Họ lại nói rằng họ không phải như bọn người Âu châu đuổi theo vật chất kia, mà là hạng người tôn kính Phật giáo. Họ rất hân hạnh nếu nhà vua ban phép cho họ đến kinh đô đặng khảo cứu về đạo Phật. Có khi người viết thơ ước ao được bệ kiến đức vua tại Bắc Kinh (Trung Quốc) hoặc tại thành Darjeeling.

Chàng Champela có nhiệm vụ dịch những thư ấy ra tiếng Tây Tạng. Vua xem cả bức thơ, nhưng nhiều khi ngài không trả lời. Có một lúc chính phủ bên Ấn Độ gởi thư cho vua, vua gởi trả lại mà thơ vẫn còn niêm phong. Quan toàn quyền Ấn Độ tức giận, kế đến trận chiến tranh Younghusband xảy ra một phần là do nơi lẽ ấy mà người ngoài không ai để ý. Cách đó làm giảm giá trị xứ Tây Tạng nhiều quá, thành ra một bài học đau đớn. Bây giờ đối với thư từ của chính phủ Ấn Độ gởi qua, vua đều có hồi âm. Chỉ trả lời nhạt nhẽo cho có chừng, nhưng là trả lời liền sau khi nhận thư.

Chàng Champela có cho tôi biết những sự giao thiệp giữa vua Dalai Lama với đức Ban-thiền Lạt-ma. Về chính sự thì vua Dalai Lama rộng quyền hơn vị tăng trưởng ở thành Shigatsé nhiều lắm, còn về tôn giáo thì hai ngài bằng nhau. Thỉnh thoảng hai ngài cũng có viếng thăm nhau. Về mặt ngoài và trên chỉ dụ thì hai ngài giao thiệp với nhau thân thiện lắm. Song về nội tình thì có bề xích mích, vì vua Dalai Lama vẫn còn buồn về việc hai phen ngài bỏ ngôi mà lánh nạn, đức Ban-thiền lại choán lên ngôi của ngài. Ban-thiền Lạt-ma là nhà tu hành xuất gia, ưa sự yên tĩnh định thiền. Cho nên những cơ quan chính trị thích dùng ngài mà che chở cho những sự tham vọng của họ.

Năm 1904, quân Anh tràn qua Tây Tạng. Vua Dalai Lama phải đi lánh bên Mông Cổ, mấy nhà quyền chức Trung Quốc đóng ở Lhassa thừa dịp ấy mà phế ngài và tôn đức Ban-thiền lên làm chúa xứ Tây Tạng. Ngài Dalai Lama nhờ thương thuyết ngay với chính phủ Trung Quốc ở Bắc Kinh nên được trở về nước và phục ngôi. Bấy giờ đức Ban-thiền nhường chức cho ngài và giữ địa vị thứ hai.

Kế, qua năm 1912, người Trung Quốc thấy vua Dalai Lama độc lập quá, bèn đem quân chiếm xứ Tây Tạng. Chuyến này nhà vua chạy sang Ấn Độ. Quân Trung Quốc phế ngài lần thứ nhì và cũng lập đức Ban-thiền lên. Họ chỉ dựng ngài lên làm bình phong để dễ bề cai trị, bóc lột.

Năm ấy, người Tây Tạng nổi lên phản kháng quân Trung Quốc, họ đòi được quyền độc lập và kết quả của cuộc phản kháng là vua Dalai Lama trở về nước, đức Ban-thiền Lạt-ma bèn giao ngôi báu lại cho ngài.

Từ đó, giữa hai ngài thường có việc bất hòa, và vị tăng trưởng Trashi-Lama vẫn nhường nhịn luôn. Sau này, khi tôi trở về Âu Châu rồi, tôi nghe tin ông sang Trung Quốc, có đến ở Thượng hải vào tháng 12 năm 1925, chắc cũng là vì sự bất mãn chứ chẳng không.

Tôi cũng có tiếp khách là mấy ông quan làm kho bạc. Họ nói với tôi rằng tình hình tài chính của chính phủ Tây Tạng eo ngặt lắm. Ấy là vì quan lại làm giàu rất nhanh, còn chính phủ thì vẫn chịu ngèo. Phần đông các quan đều lãnh lương ít lắm, là bởi lý này: họ là người giàu có sẵn rồi, chẳng cần lãnh tiền nhà nước nhiều. Mà thật sự thì lương bổng chỉ là một phần nhỏ trong những mối lợi của các quan. Có nhiều món tiền đáng lẽ vào ngân sách Nhà nước, lại chạy vào túi sâu hút của các quan. Ngoài ra, vị quan nào không đủ tiền xài thì có thể hóa giá lấy đất nhà nước đặng tăng thêm hoa lợi riêng cho mình.

Các quan tổng đốc năm mươi ba tỉnh trong xứ Tây Tạng thâu thuế của dân về đất đai và gia đình. Thuế đất thì dân nộp bằng hoa màu, như khoai, bắp... tính lấy một phần trong số thu hoạch. Nhưng thuế vụ không phải là nộp cả cho chính phủ. Chẳng những đất cát mênh mông của các nhà chùa không phải nộp thuế, mà Nhà nước còn phải trích ra một phần thuế để trợ cấp cho các sư trong những chùa tại kinh đô Lhassa.

Nhà nước cũng có đánh thuế lông cừu, đánh thuế và thu lợi về việc làm tiền đồng, tiền giấy. Quan Tsarong-Shapé trông thấy tình hình tài chính suy yếu, ngài mới đặt ra cách làm tiền giấy và mấy thứ thuế khác nữa để có thêm tiền, nhằm làm việc cải cách cho nước nhà. Tài chính của đất nước và gia nghiệp nhà vua là khác nhau. Nhà vua thu lợi về đất đai ruộng vườn, ngài lại thâu nhận các lễ vật rất đáng giá của những người thiện tín cúng dường. Lợi tức của ngài mỗi năm đều trội hơn tiền chi ra. Người Tây Tạng không biết cách làm cho đồng tiền sinh lợi. Khi dư giả thì họ đem vàng bạc mà chôn, xem như một cách giữ của. Vì thế, mỗi năm vua đem rất nhiều tiền mà chôn dưới hầm, phía dưới là núi, phía trên là đền Potala. Người ta nói rằng gia tài của vua lớn lắm, không thể ước tính nổi. Chỉ có một lần đào tiền lên là vào năm 1910, khi vua đi lánh bên Ấn Độ. Ngài cần mang tiền theo để dùng trong mấy năm lưu lạc.

Tôi đến chưa mấy ngày, có hỏa hoạn trong đền vua. Và cũng lạ thật, có người đồn rằng vì có tôi đến nên trận cháy mới xảy ra. May là cũng chẳng mấy người đồn, nếu không thì thật khó cho tôi. Bên Tây Tạng, không có hỏa hoạn, là vì người ta không cất nhà bằng lá với bằng cây. Rủi ro có lửa, chỉ tạt chừng vài thùng nước là xong. Hôm lửa cháy lần này, trong đền không thiệt hại gì nhiều, chỉ có vài món đồ trong một căn nhà trường thôi. Trường này để đào tạo các viên chức vừa làm quan vừa làm tăng sĩ. Những học sinh nào tu tại gia thì khỏi thi, học vừa biết viết biết đọc văn tự hành chánh thì có thể ra làm việc được.

Lúc trước người Trung Quốc cai trị, có lập ra các phẩm nghạch cho quan chức. Từ ngày người Trung Quốc buộc phải rút về nước thì phẩm nghạch ở Tây Tạng không phân minh. Tuy vậy, nhìn chung người ta có thể đếm được bảy bậc quan. Nhỏ hơn hết, quan thất phẩm và lục phẩm, là những thầy mới vào làm việc và chưa đủ thế lực mà xin thăng chức. Khá hơn nữa, ngũ phẩm, là mấy viên tổng đốc cai trị các tỉnh với chức Dzongpons, tứ phẩm là quan cai trị ba tỉnh lớn, với chức Depons hay là những quan ở Gyangtsé lo cuộc thương thuyết giao tế với chính phủ Ấn Độ.

Trên nữa thì không được rõ ràng, vì hồi mấy năm trước, người Trung Quốc cai trị, người Tây Tạng không trông gì lên được chức cao. Nhưng nói chung thì tam phẩm là mấy nhà sang trọng. Vinh hiển thì có chức Teitji, Dzasa, Ta-lama, mấy ông quan tứ trụ Shapés. Còn quan đầu viện Lonchen là nhị phẩm. Nhất phẩm tức là ngôi vua...

Có một người thường lại viếng tôi, làm hộ trưởng của dân Hồi giáo tại Lhassa. Tuy kinh đô Lhassa là trung tâm của các nhà sư đạo Phật, các nhà sư ấy có danh là khoan dung, nhưng ở đó có hai thánh đường Hồi giáo, một là của người Trung Quốc và một của người Ấn Độ. Có một người gốc ở Népal quen với tôi và giúp tôi nhiều việc lớn. Ông ta biết chụp ảnh, là điều mà tôi rất mừng. Trong lúc tôi bị giam, người này đi chỗ nọ chỗ kia, chụp những ảnh lạ, những dấu tích xưa mang về cho tôi.

Lại cũng có một vị thương gia đến viếng tôi, là một người giàu có trong thành. Ông này biết tôi yếu trong mình nên có đem theo hai chai rượu Cô-nhác mà biếu tôi. Hôm ấy tôi mệt lắm, có bảo kẻ thuộc hạ của tôi là Sa-tăn ra ngoài cầm khách. Hai người nói chuyện giây lát, bèn khui rượu ra và đánh chén. Tôi biết rằng Sa-tăn ưa rượu lắm, mà rượu vô thì hắn trở nên lỗ mảng. Nhưng lúc nảy tôi trót đã quên mất điều này rồi! Người kia cũng có tánh nói chuyện và nóng nảy khi gặp thần men. Hai đàng đánh chén hừng chí, mới luận bàn các việc và cãi nhau. Sau cùng sanh ra ẩu đả, Sa-tăn mới vác gươm chạy lại chém, may không gây thương tích gì nặng. Tôi phải xen vào ngăn lại. Không chịu, hai người lại càng làm dữ. Tôi phải xin lỗi người thương gia và mời người đến dùng cơm chiều bữa kế với tôi. Từ đó, người thường lại viếng tôi luôn. Còn về phần Sa-tăn thì tôi đã cho hắn thong thả đi làm ăn rồi. Tôi không la rầy nhiều, vì biết rằng nếu hắn oán hận thì có thể hội hiệp với đám người hôm nọ mà làm hại tôi.

Sa-tăn ra thành phố, sẵn trí khôn lanh, trong ít hôm thì kiếm được một cô vợ, đàn bà góa nhà giàu. Hắn vốn có sẵn một người vợ tại thành Darjeeling rồi, vẫn cùng với một anh khác chia phiên nhau mà sống với người vợ ấy. Nhưng bây giờ hắn định bỏ tục một vợ nhiều chồng mà theo lối sống một vợ một chồng.

Hắn viết thư cho người vợ trước, bảo rằng cô ta được thong thả mà tự liệu. Như thế là xong việc rồi! Liền đó, hắn làm lễ cưới với cô vợ mới. Hắn yêu cô thì cô nuôi dưỡng và chăm sóc hắn rất kỹ càng...

Sau cuộc lễ cúng đức Di-lặc, các tu sĩ lần lượt kéo nhau ra khỏi kinh thành và về các tỉnh, các quan lại nắm quyền chính như trước. Thiện nam tín nữ đi hành hương cũng ra khỏi kinh thành mà trở về nhà. Qua những ngày kế, thành phố Lhassa trở nên yên tỉnh như thường. Giới tăng sĩ đông đảo về đây trong ba tuần lễ choán hết các nẻo đường, bây giờ họ đi hết rồi, thành đô xem ra vắng vẻ lắm. Những người này đi hết rồi, tôi cũng hết lo ngại. Người ta để cho tôi thong thả đi ra đường. Tôi thú thật, tôi đã tự tiện đi đây đi đó lâu rồi. Song tôi cũng thừa dịp này mà đi dạo các nẻo và các phố phường, mặc đồ Tây Tạng cho người ta khỏi để ý. Tôi lấy làm vui sướng mà được thong thả. Và có nhiều khi tôi đi dạo ra khỏi thành. Đứng ngoài trông vào, thấy thành nội, đền vua và trường y học. Tôi viếng hết cả các dinh thự công cộng trong thành và ngoài thành.

Tôi cũng có viếng các nhà chùa, các đền thờ và đài Norbu-Linga là tòa cung điện riêng của đức vua. Tôi cũng có vào tòa nhà của ông thầy tiên tri ở Lhassa. Và tôi có đi khắp các dãy trong nhà chùa Drépung to lớn nhất Tây Tạng. Tôi có vào các hàng bán đồ. Ở đây, trong mấy tiệm và quán, người đàn bà làm chủ và đứng bán, vì chẳng những hàng phụ nữ có thế lực về xã hội, lại có thế lực về kinh tế nữa!

Có ba đường lớn từ kinh đô thông ra ngoài. Một đường chạy tới Bắc Kinh, bây giờ ít người đi. Là vì Tây Tạng thôi không giao thiệp với Trung Quốc và cấm người Trung Quốc vào nước. Một đường nữa đi tới Kashmir, đi ngang thành Shigatsé. Hồi trước, đường này đông người lắm, nhưng bởi đi vòng cho nên bây giờ người ta ít đi. Đường thứ ba nhiều người dùng hơn hết, đi ngang nhiều thành phố lớn và chạy tới xứ Kalimpong. Nhưng đường không được tốt vì tài chính Tây Tạng đang còn yếu kém.

Trong nước hàng năm xuất cảng nhiều lông cừu và súc vật, nhưng vẫn không mạnh về nông nghiệp. Lợi tức từ các hầm mỏ cũng không khá: việc khai phá các mỏ không phát triển là vì giới tăng sĩ quá tin dị đoan. Họ nói rằng nếu đào đất thì ma quỷ dưới âm phủ sẽ lên và phá hại con người với mùa màng. Trong nước, người ta đi đãi vàng theo nhiều con sông, để khỏi đào đất xuống sâu. Có vài cái mỏ người ta lấy vàng vừa được một vài thế kỷ, nhưng không lấy được nhiều vì phương pháp lạc hậu. Xứ Tây Tạng có nhiều mỏ sắt rất lớn, nhưng phải về sau may ra mới đào được mà dùng. Người ta cũng nói rằng có nhiều mỏ dầu lửa rất lớn, nhưng chưa ai khai thác được.

Sau khi tôi được trả tự do, tôi thường ra đồng để coi binh lính luyện tập. Binh pháp điều động theo lối tân thời, hẳn là kết quả của nền độc lập Tây Tạng đó.

Theo luật nước, nhà nào có trên một người con trai, phải cho một người vào lính. Nhưng nhà nước chưa buộc gắt gao, là vì tài chính. Sắc phục và súng ống còn thiếu, nên binh lính toàn là những người thạo việc chiến chinh, và số binh sĩ ngày một tăng thêm. Họ đeo lưỡi lê bồng súng dài, nai nịt theo như quân đội Anh, nhưng cũng có vài đại đội còn bịt khăn chứ không đội mũ. Mấy ông quan võ thấy khác hơn vì có đeo quân hàm, còn những quan võ cấp cao thì mặc đồ như quan võ bên nước Anh. Binh tập coi rành rẽ, đi đứng mạnh mẽ, linh hoạt và thông thạo. Binh lính có vẻ oai nghiêm, có thể tin được là khi hữu sự họ sẽ đủ sức đảm đang gìn giữ nước nhà. Nhưng có chỗ không hay là hạng quan võ phần đông vốn con nhà quý tộc ở Lhassa. Họ đã quen với cách sống phong lưu nhu hòa rồi, cho nên có nhiều người không có phong thái uy nghiêm, hùng dũng.

Mỗi ngày tôi đều được thấy thêm chuyện lạ. Nhưng tôi đã bắt đầu thấy nhớ nhà và muốn trở về nước Anh. Công chuyện của tôi dồn dập tới nhiều, và trong người tôi không được khỏe, nên tôi xin phép trở về. Tôi chắc rằng chính phủ sẽ lấy làm vui mà phê cho tôi đi, nhưng lại có nhiều việc xảy ra làm cho trễ nãi. Sau tôi phải nói gắt, yêu cầu chính phủ cho người đưa tôi đi. Cuối cùng, chẳng những tôi được đủ cả giấy tờ, người ta lại còn cho thêm thú vật để chở đồ, thay thế cho mấy con vật của tôi đã lạc mất. Người ta cho tôi nghỉ ngơi ở các nhà trọ lớn của chính phủ, và cho theo tôi một toán binh để hộ vệ tôi cho đến khi ra tới biên giới.

Tôi gặp lại mấy người bạn cũ, rất lấy làm vui. Tôi có đến thành Kalimpong ở Ấn Độ, thuộc Anh, và qua thành Peshok, vào viếng quan chủ tỉnh, người thay mặt cho chính phủ Anh lo việc quốc chính ở xứ Shikkim. Ông ta cho hay rằng tôi đi ẩu qua Tây Tạng làm cho chính phủ Tây Tạng trách móc chính phủ Anh bên này rất nhiều. Nhưng ông điều đình đâu đó đã êm rồi.

Ngày 17 tháng 4, tôi về đến Darjeeling và gặp mấy bạn đồng hành kỳ trước là Knight, Ellam và Fletcher.

Cuộc phiêu lưu mạo hiểm của tôi đến đây là dứt. Tôi đã lắm khổ tâm, nhọc nhằn. Tôi còn nhớ xứ Tây Tạng, nhớ kinh thành linh hiển, nhớ xứ Phật, và nhất là nhớ cái xứ sở không cho người ngoại quốc vào, mà tôi thì vào được, cho dù phải qua bao nhiêu bước đường trở ngại. Nhớ đến đây, tôi cho sự cực nhọc kia là đáng lắm, vì giúp tôi được thấy biết thêm nhiều điều hay lạ.

 

Dịch xong năm 1929
Đoàn Trung Còn