Đời sống
Con Đường Thoát Khổ
Đại đức W. Rahula Thích Nữ Trí Hải dịch
03/04/2553 22:08 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Con Đường Thoát Khổ
Đại đức W. Rahula
Thích Nữ Trí Hải dịch

Chương VIII
Giáo lý Đức Phật và thế giới hôm nay

Có vài người nghĩ rằng đạo Phật quá cao siêu huyền bí, không thể thực hành được bởi những người nam, nữ thông thường trong thế giới chúng ta hằng ngày, và người ta nếu muốn trở thành một Phật tử chân chính thì cần phải từ bỏ thế giới này để rút lui vào một tu viện hay đến một nơi nào yên tĩnh.

Đấy là một quan niệm sai lạc đáng buồn do sự thiếu hiểu biết về giáo lý Đức Phật. Người ta thường đi đến những kết luận sai lầm và vội vã, sau khi tình cờ nghe hay đọc một cái gì về Phật giáo do một tác giả mà vì đã không hiểu thấu vấn đề trong mọi khía cạnh, chỉ đưa ra một quan niệm thiên lệch và chủ quan về Phật giáo. Giáo lý Đức Phật không phải chỉ cốt để dành cho những tăng lữ trong tu viện, mà còn để cho những nam nữ cư sĩ sống ở nhà với gia đình họ. Bát chánh đạo, một lối sống theo Phật học là để cho tất cả, không một phân biệt mảy may.

Đại đa số người trên thế giới không thể đi tu tất cả, hoặc ẩn dật trong hang động hay rừng núi. Đạo Phật dù cao cả và thuần khiết bao nhiêu, cũng sẽ vô dụng đối với đại chúng nhân loại nếu họ không thể theo được trong đời sống hằng ngày. Nhưng nếu bạn hiểu đúng đắn tinh thần Phật giáo (chứ không phải chỉ hiểu những chữ, câu), chắc chắn bạn có thể theo và thực hành nó trong khi vẫn sống đời của một người thường.

Có thể có vài người thấy dễ dàng và thuận tiện hơn để chấp nhận Phật giáo, nếu họ ở trong một nơi xa cách, tách biệt với xã hội những người khác. Có những người lại thấy rằng sự ẩn dật đó làm cho họ chán ngán buồn bã cả thể chất lẫn tâm thần, và vì vậy điều ấy có thể không giúp ích gì cho sự phát triển đời sống tri thức và tâm linh họ.

Sự ẩn dật chân chính không có nghĩa là thân xác phải xa lánh hẳn thế gian. Xá Lợi Phất (Sàriputta) đồ đệ trưởng của Đức Phật, nói rằng một người có thể sống trong rừng miệt mài với những luyện tập khổ hạnh, nhưng vẫn có thể đầy những tư tưởng xấu xa bất tịnh, một người khác có thể sống trong làng mạc hay thị thành, không thực hành kỷ luật ép xác nào, nhưng tâm người ấy có thể trong sạch không có cấu bẩn. Trong hai người ấy, Ngài Xá Lợi Phất bảo, người sống một đời trong sạch giữa làng mạc thị thành nhất định là cao cả hơn người sống trong rừng rất nhiều. (1)

Quan niệm thông thường cho rằng muốn theo giáo lý Đức Phật người ta phải lánh đời, là một quan niệm sai lầm. Trong văn học Phật giáo, có vô số những chỗ nói đến những người đàn ông, đàn bà sống gia đình bình thường mà vẫn thực hành một cách hiệu quả những gì Đức Phật dạy, và chứng Niết Bàn. Người khất sĩ Vacchagotta (mà ta đã gặp trong chương về vô ngã), một hôm hỏi thẳng Đức Phật rằng có người nam và nữ nào đệ tử của Ngài sống đời gia đình, mà theo giáo lý Ngài có hiệu quả, và đạt được những trạng thái tâm linh cao siêu không. Đức Phật trả lời rõ ràng rằng không phải có chỉ một hay hai, 100 hay 500 mà còn nhiều hơn thế nữa, những người nam và nữ cư sĩ sống đời gia đình đã theo giáo lý Ngài một cách hiệu quả và đạt được những trạng thái tâm linh cao siêu (2).

Đối với một số người, có thể là một sự êm dịu khi sống một đời ẩn dật trong một nơi yên tĩnh, xa hẳn ồn ào phiền tạp. Nhưng chắc chắn là thật can đảm, đáng ca ngợi hơn, những ai thực hành Phật giáo mà vẫn sống giữa đồng loại, giúp đỡ họ và làm lợi ích cho họ. Có lẽ trong vài trường hợp sẽ có ích cho một người nếu sống ẩn dật một thời gian để trau dồi tâm ý và tính tình - như một huấn luyện trước về đạo đức, tri thức và tâm linh - để về sau có đủ khả năng giúp đỡ đồng loại. Nhưng nếu một con người sống suốt đời trong cô độc, chỉ nghĩ đến hạnh phúc và "cứu rỗi" cho riêng mình, không lo nghĩ đến đồng loại, thì điều này chắc chắn không phù hợp với giáo lý Đức Phật vốn căn bản trên tình thương, từ bi và sự giúp đỡ kẻ khác.

Bây giờ ta có thể hỏi: Nếu một người có thể theo Phật giáo trong khi sống đời sống cư sĩ thế tục, thì tại sao Đức Phật lập đoàn thể tăng già làm gì? Đoàn thể tăng già này tạo cơ hội cho những ai muốn hiến đời mình không những cho sự phát triển trí thức và tâm linh của riêng mình, mà còn để giúp ích kẻ khác. Một cư sĩ có gia đình khó mà hiến suốt đời mình để phụng sự những đồng loại, trong khi một vị tăng, vì không có nhiệm vụ gia đình hay một ràng buộc nào của thế tục, có thể hiến suốt đời mình "vì sự ích lợi cho nhiều người, vì hạnh phúc của nhiều người" theo lời khuyên của Đức Phật. Chính vì thế mà trong quá trình lịch sử, tu viện Phật giáo không những là một trung tâm của sự đào luyện tâm linh, mà còn là một trung tâm học hỏi và văn hóa.

Kinh Sigàla (số 31 của Digha-nikàya, Trường Bộ) chứng tỏ Đức Phật đã coi trọng cuộc đời cư sĩ, gia đình và xã hội của họ, như thế nào.

Một người trẻ tuổi tên Sigàla, thường lễ bái sáu phương hướng-đông, tây, bắc, nam, thượng, hạ - vì vâng lời và thực hành theo lời trăn trối của cha. Đức Phật bảo anh ta rằng trong kinh luật (ariyassa vinaye) của giáo lý Ngài, sáu phương ấy có nghĩa khác. Theo "luật" của Ngài, sáu phương là: Đông: cha mẹ, Nam: thầy, Tây: vợ con, Bắc: bạn bè quyến thuộc, láng giềng, Hạ: tôi tớ, người làm công và thợ thuyền, Thượng: những vị tu sĩ, bà la môn.

"Người ta nên lễ bái sáu phương ấy", Đức Phật dạy. Ở đây chữ lễ bái (namasseyya) rất ý nghĩa, vì người ta chỉ lễ bái một cái gì thiêng liêng, khả kính khả sùng. Đạo Phật xem sáu nhóm gia đình và xã hội trên đây là thiêng liêng, đáng sùng mộ kính trọng và lễ bái. Nhưng lễ bái cách nào? Đức Phật dạy rằng người ta có thể "lễ bái" chúng chỉ bằng cách làm tròn bổn phận của mình đối với chúng. Những bổn phận ấy Đức Phật giảng rõ trong bài thuyết pháp cho Sigàla.

Thứ nhất: cha mẹ là thiêng liêng đối với con cái. Đức Phật dạy: "cha mẹ gọi là Thượng Đế" (Brahmàti màtàpitaro). Danh từ Brahma (thượng đế) chỉ quan niệm cao cả thiêng liêng nhất trong tư tưởng Ấn giáo, và trong đó Đức Phật đã bao gồm cha mẹ. Bởi thế ngày nay trong những gia đình theo Phật thuần thành, con cái thực sự "lễ bái" cha mẹ hằng ngày, sáng và tối. Họ phải làm một vài bổn phận đối với song thân theo luật của Phật: phải săn sóc cha mẹ khi già, phải làm bất cứ cái gì cần làm cho cha mẹ, phải giữ danh dự của gia đình và tiếp nối truyền thống của gia đình, phải bảo vệ tài sản cha mẹ để lại, và làm tang lễ sau khi cha mẹ chết. Đối lại, cha mẹ cũng có một số bổn phận đối với con cái: họ phải giữ con cái tránh xa những đường tà, phải khiến chúng làm những việc thiện và lợi ích, phải giáo dục chúng đầy đủ, phải cưới gả chúng vào những gia đình tử tế, và phải chia tài sản cho công bằng.

Thứ hai: liên hệ giữa thầy và trò. Người học trò phải kính trọng vâng lời thầy, phải lo cho thầy nếu thầy có điều chi cần thiết, phải học hành chăm chỉ. Và thầy đối lại, phải huấn luyện học trò một cách thích đáng, phải dạy kỹ lưỡng, phải giới thiệu bạn bè cho nó, và phải cố kiếm sự bảo đảm việc làm cho nó sau khi học xong.

Thứ ba: liên hệ giữa chồng và vợ. Tình yêu giữa chồng vợ được xem hầu như tôn giáo hay thiêng liêng. Nó gọi là Sadàra-brahmacariya, "đời sống gia đình thiêng liêng". Ở đây cũng thế, ý nghĩa của từ ngữ Brahma cần được lưu tâm: Đạo Phật dành cho mối liên hệ này sự kính trọng cao cả nhất. Vợ chồng phải trung thành, kính trọng và tận tụy với nhau, và họ có vài bổn phận đối với nhau. Chồng phải luôn luôn tôn trọng vợ và không bao giờ thiếu sự kính nể đối với vợ, phải bảo đảm đời sống và tiện nghi cho vợ, và phải làm vợ vui lòng bằng cách tặng nàng áo và đồ trang sức (Sự kiện Đức Phật đã không quên nhắc đến cả những món quà một người chồng nên tặng vợ, đủ chứng tỏ tình người thắm thiết của Đức Phật, thiện cảm tế nhị của Ngài đối với những tình cảm của người thường). Đối lại, người vợ phải coi sóc việc nhà, phải làm vui lòng khách khứa, bạn bè, thân thuộc và những người làm công, phải yêu thương, trung thành với chồng, phải gìn giữ tiền của chồng kiếm được, phải khôn khéo và nghị lực trong mọi công việc.

Thứ tư: liên hệ giữa bạn bè, bà con, láng giềng. Họ phải tử tế nhân từ đối với nhau, phải nói lời hòa nhã dễ nghe, phải làm cho nhau lợi ích, phải hòa hiếu với nhau, đừng gây gỗ nhau, phải giúp nhau khi cần, và đừng bỏ nhau trong khi hoạn nạn.

Thứ năm: liên hệ giữa chủ và tớ. Người chủ nhà có nhiều bổn phận đối với tôi tớ hay người làm công: phải giao công việc tùy theo khả năng và sức lực, phải trả lương thích đáng, phải cung cấp thuốc men, thỉnh thoảng phải nên cho quà tặng. Đối lại người giúp việc hay làm công phải chuyên cần không được biếng nhác, phải lương thiện, vâng lời và đừng lường gạt chủ, phải siêng năng trong công việc làm.

Thứ sáu: liên hệ giữa những người ẩn sĩ Bà La Môn với người thế tục. Những người thế tục phải coi sóc những nhu cầu vật chất của những tu sĩ Bà La Môn, ẩn sĩ, với lòng thương yêu kính trọng; những vị tu sĩ phải ban bố với lòng lân mẫn, kiến thức và hiểu biết cho người thế tục, và dẫn dắt họ theo đường chánh, xa đường tà.

Như vậy ta thấy rằng đời sống thế tục, với những liên hệ gia đình, xã hội, cũng được bao gồm trong "kỷ luật cao cả", và cũng nằm trong khung của lối sống Phật giáo như Đức Phật đã quan niệm

Bởi thế trong Samyutta-nikàya (Tương ưng bộ), một trong những bản kinh Pali xưa cũ nhất, Sakka (Đế Thích), vua của những vị trời (devas) tuyên bố rằng ông sùng kính không những các tu sĩ sống đời thánh thiện đức hạnh mà còn những cư sĩ thế tục (ưu bà tắc, upàsaka) làm những việc công đức, có đức hạnh, và duy trì gia đình của họ một cách đúng đắn. (3)

Nếu muốn trở thành một Phật tử, người ta không cần gì phải qua một lễ dẫn nhập (hay rửa tội). (Nhưng muốn trở thành một Tỳ kheo, một phần tử của đoàn thể Tăng già, người ta phải qua một thời gian dài huấn luyện giới luật và giáo dục). Nếu một người hiểu giáo lý Đức Phật, và tin chắc rằng giáo lý ấy là con đường chánh và nếu họ cố theo đường ấy, thì đấy là một Phật tử. Nhưng theo truyền thống ngàn xưa trong các xứ Phật giáo, một người được xem là Phật tử nếu nương vào (quy y) Phật, Pháp (giáo lý) và Tăng (đoàn thể tăng già) thường gọi là Tam Bảo - ba vật quí báu - và bắt đầu tuân giữ ngũ giới (Panca-sila), những bổn phận tinh thần tối thiểu của một cư sĩ Phật tử:

1. không sát sinh (giết hại sinh mạng),

2. không trộm cắp,

3. không tà dâm (ngoại tình),

4. không nói dối,

5. không uống rượu.

Không có một lễ tục bề ngoài nào một Phật tử phải làm. Đạo Phật là một lối sống, và điều cốt yếu là giữ theo Bát Chánh Đạo. Dĩ nhiên trong tất cả các xứ Phật Giáo đều có những lễ tục rất đẹp và đơn giản vào những ngày lễ Phật. Có những bảo tháp có tượng Phật, có những cây Bồ Đề trong vài tu viện, ở đấy Phật tử lễ bái, dâng hoa, thắp đèn và đốt hương. Điều này không nên xem tương tự với cầu nguyện trong các tôn giáo hữu thần. Đấy chỉ là một cách chiêm ngưỡng, tưởng nhớ lại vị Đạo Sư đã chỉ Con Đường. Những sự lễ bái cổ truyền này, mặc dù không thiết yếu, vẫn có giá trị ở chỗ thỏa mãn những cảm xúc và nhu cầu tôn giáo nơi những người còn thấp kém về tinh thần và tâm linh, và giúp họ dần bước theo Chánh Đạo.

Những người nghĩ rằng Phật giáo chỉ quan tâm đến những lý tưởng cao siêu, tư tưởng triết lý và đạo đức siêu phàm, và không kể đến lợi ích xã hội và kinh tế của con người, là sai lầm. Đức Phật rất quan tâm đến hạnh phúc của người. Đối với Ngài, không thể có hạnh phúc mà không sống một đời sống trong sạch, dựa trên những nguyên tắc đạo đức và tâm linh. Nhưng Ngài biết rằng sống một đời như vậy rất khó trong những điều kiện xã hội và vật chất không thuận.

Phật giáo không xem hạnh phúc vật chất như một cứu cánh: nó chỉ là một phương tiện để đến một cứu cánh - một cứu cánh cao quý hơn. Nhưng đấy là một phương tiện rất cần thiết, cần thiết để hoàn thành một mục đích cao hơn cho hạnh phúc nhân loại. Bởi thế Phật giáo công nhận sự cần thiết của một vài điều kiện vật chất tối thiểu thuận tiện cho sự thành công của tâm linh - ngay cả đối vớI một thầy tu thiền định trong một nơi cô tịch nào.

Đức Phật không xét đến sự sống một cách tách biệt, ra ngoài bối cảnh kinh tế và xã hội. Ngài nhìn đời trong toàn diện, trong tất cả mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị của nó. Những lời dạy của Ngài về những vấn đề đạo đức, triết lý và tâm linh đã được khá nhiều người biết đến. Nhưng người ta biết rất ít, nhất là ở Tây phương, về giáo lý của Ngài trong những vấn đề xã hội, kinh tế và chính trị. Tuy vậy có rất nhiều bài giảng của Ngài bàn về những vấn đề ấy rải rác khắp các bản kinh văn cổ xưa của Phật giáo. Ta hãy lấy chỉ một vài thí dụ:

Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Tu Hành (Cakkvatti-sihanàda sutta) trong Trường Bộ Kinh (Digha-nikàya, số 26) nói rõ rằng sự nghèo khó (dàliddiya) là nguyên nhân của vô đạo và tội ác như trộm cắp, tà vạy, bạo động, thù hằn, độc ác v.v... Những vị vua chúa ngày xưa, cũng như các chính phủ ngày nay, cố đàn áp tội lỗi bằng hình phạt. Kinh Kùtadanta-sutta cùng thuộc bộ ấy giải thích sự vô ích của hình phạt, nói rằng phương pháp ấy sẽ không bao giờ thành công. Thay vì vậy, Đức Phật đề nghị rằng, muốn diệt tận gốc các tội lỗi, thì cần phải cải thiện điều kiện kinh tế của con người; cần phải cung cấp cho tá điền và nông phu hạt giống và phương tiện trồng trọt khác, vốn phải được cung cấp cho những thương gia và những người buôn bán; lương hướng thích đáng phải được trả cho những người làm công. Khi mọi người đều được cung cấp những cơ hội để kiếm được một lợi tức đầy đủ, họ sẽ bằng lòng, không sợ hãi lo âu, và do đó xứ sở thanh bình và không có các tội lỗi (4).

Bởi vậy, Đức Phật thường dạy những cư sĩ tại gia tầm quan trọng của sự cải thiện điều kiện kinh tế. Điều này không có nghĩa Ngài tán đồng sự tích trữ tài sản với lòng khao khát và ràng buộc, vì nó trái ngược với giáo lý Ngài, và cũng không phải Ngài tán đồng bất cứ phương tiện sinh nhai nào. Có vài nghề thương mãi như sản xuất và mua bán khí giới bị Ngài cấm chỉ, xem như là những phương tiện sinh sống không chân chính như ta đã thấy trước đây (xem phần Bát Chánh Đạo - Chánh mạng).

Một người tên Dìghajànu một hôm đến viếng Đức Phật và bảo:

"Bạch Thế Tôn, chúng con là những người thế tục tầm thường, sống đời gia đình, có vợ con. Xin Đức Thế Tôn chỉ dạy cho vài lý thuyết để giúp chúng con được hạnh phúc trong đời này và đời sau.

Đức Phật dạy ông ta rằng có bốn điều giúp cho hạnh phúc con người trong đời này: Thứ nhất, phải tài khéo, có hiệu năng, hăng hái, và nghị lực trong bất cứ nghề nào nó làm, và phải biết rõ nghề mình (utthàna-sampadà); Thứ hai, phải bảo vệ lợi tức mà nó đã kiếm được một cách chân chính, bằng mồ hôi trán (àrakkha-sampadà); điều này nói đến bảo vệ tài sản cho khỏi bị trộm cắp, v.v.. (Tất cả mọi ý tưởng này cần được xét đến trong bối cảnh của thời ấy); Thứ ba: phải giao du với bạn tốt (kalyàna-mitta) trung thành, có trí thức, đức hạnh, phóng khoáng và thông minh, người sẽ giúp nó đi con đường chính xa lánh đường tà; Thứ bốn: phải tiêu dùng chừng mực, tùy theo lợi tức, đừng tiêu quá nhiều cũng đừng quá ít, nghĩa là không nên bo bo tích trữ tài sản, nhưng cũng không nên phung phí - nói cách khác phải sống trong giới hạn những phương tiện nó có (samajìvikatà).

Rồi Đức Phật giảng bốn Đức Hạnh giúp cho một người thế tục được hạnh phúc đời sau:

- Tín (saddhà): phải tin tưởng vào những giá trị đạo đức, tinh thần và tâm linh.

- Giới (sìla): phải chừa bỏ sát sinh, trộm cắp, tà dâm nói dối và uống rượu.

- Thí (càga): phải thực hành lòng trắc ẩn bố thí, không bám víu và ôm giữ tài sản mình.

- Huệ (pannà): phải mở mang trí huệ dẫn đến sự diệt khổ, chứng Niết Bàn. (5)

Đôi khi Đức Phật còn đi vào những chi tiết về để dành tiền bạc và tiêu dùng, chẳng hạn như khi Ngài bảo thanh niên Sigàla rằng anh ta nên dùng 1/4 lợi tức vào sự tiêu pha hàng ngày, một nửa lợi tức để đầu tư vào việc kinh doanh và để riêng 1/4 phòng khi nguy cấp. (6)

Một hôm Đức Phật bảo Cấp Cô Độc (Anàthapindika) - một thương gia danh tiếng, một trong những đệ tử tại gia thuần thành nhất của Ngài đã lập cho Ngài tu viện Kỳ Đà (Jetavana) hữu danh ở Xá Vệ (Sàvatthi) - rằng một cư sĩ sống đời thường nhật, có bốn thứ hạnh phúc: thứ nhất là thụ hưởng sự bảo đảm về kinh tế hay tài sản đầy đủ, kiếm được bằng những phương tiện chính đáng (sở hữu lạc - atthi-sukkha); thứ hai là tiêu dùng tài sản ấy một cách rộng rãi cho chính mình, cho gia đình, bà con, bè bạn và trong những việc công đức (thọ dụng lạc - bhoga-sukkha); thứ ba là không có nợ nần (vô trái lạc - anana-sukkha); thứ tư là sống một đời trong sạch, không phạm những điều ác trong ý nghĩ, lời nói hay hành vi (vô tội lạc - anavajja-sukkha).

Ở đây ta phải chú ý rằng trong bốn thứ nầy, 3 thuộc về kinh tế, và cuối cùng Đức Phật còn nhắc cho thương gia ấy biết rằng hạnh phúc về kinh tế và vật chất thì không "đáng một phần mười sáu" của hạnh phúc tâm hồn phát sinh từ đời sống không lỗi lầm và lương thiện (7).

Qua những ví dụ kể trên, ta có thể thấy rằng Đức Phật xem sự thoải mái về kinh tế là cần thiết cho hạnh phúc con người, nhưng Ngài không công nhận sự tiến bộ là chân thật nếu nó chỉ thuần vật chất, không có một nền tảng đạo đức và tâm linh. Trong khi khuyến khích sự tiến bộ vật chất, Phật Giáo luôn luôn nhấn mạnh trên sự phát triển đạo đức và tâm linh để kiến tạo một xã hội Hòa Bình an lạc.

Đức Phật cũng có những lời dạy minh bạch như thế về chính trị, chiến tranh, hòa bình. Điều ai cũng biết, tưởng không cần nhắc lại, là Đạo Phật chủ xướng và rao truyền Bất Bạo Động, Hòa bình như thông điệp của mình cho tất cả thế giới, và không tán thành bất cứ một sự bạo động hay sát hại sinh mạng nào. Theo Phật giáo không có gì có thể gọi là "chiến tranh chân chính", đó chỉ là một từ ngữ sai lầm được đúc ra và lưu hành để biện minh cho hận thù, tàn ác, bạo động và chém giết. Ai định ra cái gì là chân chính hay không chân chính? Người chiến thắng và hùng mạnh là "chính" và kẻ chiến bại, yếu thế là "bất chính". Chiến tranh của chúng tôi thì luôn luôn chính đáng, còn chiến tranh của các anh thì luôn luôn "bất chính". Phật giáo không chấp nhận lập trường ấy.

Đức Phật không những đã dạy Bất Bạo và Hòa Bình, mà Ngài còn thân hành đi đến chiến trường để can thiệp, và ngăn cản chiến tranh, như trong trường hợp tranh chấp giữa những người dòng Sàkyas (Thích ca) và Koliyas (Câu lợi), sắp đánh nhau vì vấn đề nước của sông Rohini. Và những lời của Ngài đã từng ngăn được vua A Xà Thế (Ajàtasattu) khỏi tấn công vương quốc Vajjis (Bạt Kỳ).

Vào thời Đức Phật, cũng như ngày nay, có những nhà cai trị xứ sở một cách bất công. Dân chúng bị đàn áp, bóc lột, đánh đập, tù đày, sưu cao thuế nặng và chịu những hình phạt dã man. Đức Phật rất động lòng trước những sự vô nhân đạo ấy. Kinh Dhammapadattha-kathà chép rằng: vì thế, Ngài chú tâm đến vấn đề một nền cai trị tốt đẹp. Ta nên xét quan điểm của Ngài với bối cảnh xã hội, kinh tế và chính trị lúc bấy giờ. Ngài đã chứng minh rằng toàn thể một xứ sở có thể trở thành đồi trụy, thối nát và bất hạnh nếu những người cầm đầu việc cai trị, nghĩa là vua, các quan lại và những nhân viên hành chánh, đều thối nát và bất công. Muốn cho dân một nước được sung sướng cần phải có một nền cai trị công bằng. Một nền cai trị công bằng có thể được thực hiện bằng cách nào? Đức Phật đã nói rõ trong bài thuyết pháp của Ngài về "10 nhiệm vụ của nhà vua" (Thập vương Pháp, dasa-ràjadhamma) như đã được thuật trong Jàtaka (chuyện tiền thân) (8).

Dĩ nhiên danh từ "vua" (Ràja) ngày xưa phải được thay th‰ bằng danh từ "chính phủ": "mười nhiệm vụ của nhà vua" có thể áp dụng cho tất cả những người ở trong chính phủ ngày nay, như quốc trưởng, bộ trưởng, lãnh đạo chính trị, nhân viên hành chánh và tư pháp v.v...

Nhiệm vụ thứ nhất trong "10 nhiệm vụ của vua" là sự rộng rãi, bố thí, bác ái (dàna). Người cai trị không được có một thèm khát và bám víu nào đối vớI tài sản, tiền của mà phải bố thí cho dân được no ấm.

Thứ hai, một đức tính luân lý cao đẹp (giới - sila). Vua phải không bao giờ sát hại, lừa bịp và bóc lột kẻ khác, tà dâm, nói lời sai quấy, và rượu chè. Nghĩa là, ít nhất ông phải theo 5 giới của người cư sĩ.

Thứ ba, hi sinh tất cả vì hạnh phúc của dân (biến xả hay vĩnh xả - pariccàga), ông phải sẵn sàng từ bỏ mọi tiện nghi cho cá nhân mình, tên tuổi, danh vọng, và ngay cả sự sống của mình vì lợI ích của dân.

Thứ tư, trực hạnh (ajjava). Ông phải xa lìa sự sợ hãi và thiên vị khi thi hành nhiệm vụ, phải thành thật trong ý định, và khộng được lừa bịp quần chúng.

Thứ năm, khổ hạnh (tapa). Ông phải sống một đời giản dị, và không được xa hoa. Ông phải biết chế ngự bản thân mình.

Thứ sáu, nhu hòa (maddava). Ông phải có một tính tình hòa nhã.

Thứ bảy, không thù hận, ác độc (vô sân - akkodha). Ông không được có tư thù với bất cứ ai.

Thứ tám, bất hại (avihimsà) không những có nghĩa là ông không được làm hại ai, mà còn có nghĩa ông phải cố tạo hòa bình bằng cách tránh và ngăn ngừa chiến tranh, hay mọi sự dính dáng đến bạo động và sát hại sinh mạng.

Thứ chín, nhẫn nhục (khanti). Ông phải có thể chịu đựng những khó khăn, khổ nhọc và những sự nhục mạ mà không mất bình tĩnh.

Thứ mười, không đối lập, không ngăn cản (avirodha), nghĩa là ông không được đi ngược với ý chí của toàn dân, không được cản bất cứ biện pháp nào đưa đến sự lợi lộc cho toàn dân. Nói cách khác ông phải cai trị thuận với ý chí của dân.

Nếu một nước được cai trị bởi một người có những đức tính ấy, thì dĩ nhiên nước ấy phải là hạnh phúc. Nhưng điều ấy không phải là một điều không tưởng, vì trong quá khứ đã có những ông vua như A Dục Vương (Asoka) cuả Ấn-Dộ đã thiết lập các vương quốc căn cứ trên những ý tưởng đó.

Thế giới ngày nay luôn sống trong sợ hãi, nghi ngờ và căng thẳng. Khoa học đã sản xuất những khí giới có năng lực phá hoại kinh hoàng. Tạo ra những dụng cụ mới của chết chóc, các cường quốc hăm dọa, thách thức nhau, khoe khoang không hổ thẹn rằng mình có thể gây nhiều phá hoại tang thương trong thế giới hơn cường quốc khác.

Họ đã đi quá xa trên đường điên rồ ấy đến nỗi ngày nay họ chỉ cần bước thêm một bước, kết quả sẽ không là gì ngoài ra sự hủy diệt lẫn nhau và hủy diệt toàn thể loài người.

Vì hoảng sợ trước một hoàn cảnh mà chính họ đã tạo ra, con người muốn tìm một lối thoát, giải pháp nào đó. Nhưng không có giải pháp nào ngoài giải pháp Đức Phật đã đề xướng - thông điệp của Ngài về Bất Bạo và Hoà bình, về tình thương và từ bi, về khoan hồng và thông cảm, về chân lý và trí huệ, về sự tôn trọng đối với mọi sự sống, về sự dứt bỏ ích kỷ, hận thù và bạo động.

Đức Phật dạy: "Hận thù không bao giờ được dập tắt bằng hận thù, mà chỉ dập tắt được với tình thương. Đây là một sự thật muôn đời" (Dhp. 15)

"Người ta nên lấy từ bi thắng lướt hận thù, lấy lòng tốt đối lại với sự xấu xa, lấy bác ái đối lại ích kỷ và lấy sự chân thật đối lại gian tà" (Dhp. XVII 3)

Con người không thể nào có hạnh phúc an vui bao lâu nó còn khao khát ham muốn chinh phục và chế ngự đồng loại. Phật dạy : "kẻ chiến thắng nuôi hận thù, và kẻ chiến bại nằm xuống trong đau khổ. Người nào từ khước cả thắng cũng như bại, sẽ được hạnh phúc an vui" (Dhp. XV 5)

Chiến thắng duy nhất đem lại hòa bình hạnh phúc là chiến thắng tự tâm. "Người ta có thể chinh phục hàng triệu người trong trận chiến, nhưng chỉ có người nào tự chinh phục được mình mới là người chiến thắng vinh quang nhất".(Dhp VIII 4)

Bạn sẽ bảo rằng tất cả điều đó rất đẹp, cao cả và tôn quý, nhưng không thực tiễn. Thế thì có thực tiễn khi thù ghét nhau chăng? Khi giết nhau chăng? Khi sống mãi trong hãi hùng và nghi kyhư thú dữ trong rừng sâu? Điều này thực tiễn và tiện nghi hơn chăng? Có bao giờ ác độc được điều phục bằng ác độc? Có bao giờ hận thù được dập tắt bởi hận thù? Nhưng đã có những trường hợp, ít nhất là trong những trường hợp cá nhân, trong ấy hận thù được thoa dịu bằng thương yêu và lòng tốt, và ác độc được chinh phục bằng thiện cảm. Bạn sẽ bảo điều này có thể có thật, có thể thực hiện trong những trường hợp cá nhân, nhưng nó không bao giờ thực hiện được trong những giao tiếp quốc gia và quốc tế. Con người quả đã bị thôi miên, tâm lý bị rối ren mờ ám và bị lừa dối những từ ngữ dùng để tuyên truyền chính trị như "quốc gia", "quốc tế", "tổ quốc". Tổ quốc là gì nếu không phải là một đoàn thể rộng lớn gồm những cá nhân?

Một quốc gia hay tổ quốc không hành động, chính là cá nhân mới hành động. Cái gì cá nhân nghĩ và làm chính là cái gì mà quốc gia nghĩ và làm. Cái gì có thể áp dụng cho cá nhân cũng có thể áp dụng cho quốc gia hay xứ sở. Nếu trên bình diện cá nhân, hận thù có thể dập tắt hận thù, thì trên bình diện quốc gia và quốc tế chắc chắn điều này cũng có thể thực hiện. Ngay cả trong trường hợp một cá nhân riêng rẽ muốn đối lại hận thù bằng yêu thương, người ta cũng cần phải có một can đảm siêu việt, một sự mạnh dạn, một lòng tin vô bờ đối với sức mạnh tâm hồn. Có phải chăng ta còn cần nhiều cố gắng hơn thế nữa trong trường hợp giao tiếp quốc tế?

Nếu khi bảo rằng "không thực tế", ý bạn muốn nói "không dễ dàng", thì là bạn nói đúng. Nhất định nó không dễ dàng. Tuy nhiên ta cần cố thử. Bạn sẽ bảo sự cố gắng ấy hơi mạo hiểm. Nhưng chắc chắn là nó không mạo hiểm hơn sự thử một chiến tranh nguyên tử.

Thật là một an ủi cho ta ngày nay khi nghĩ rằng: ít nhất trong lịch sử cũng đã có một vị vua cai trị lỗi lạc, đã có can đảm, đức tin và kiến giải đủ để áp dụng lời dạy này của Đức Phật về Bất Bạo, hòa bình và yêu thương trong sự cai trị một đế quốc rộng lớn về cả nội bộ lẫn ngoại giao - A Dục Vương, vị Hoàng đế Phật tử của xứ Ấn (thế kỷ thứ III trước Tây lịch), "người con yêu quí của các thần linh" như ông đã được mệnh danh.

Ban đầu ông theo gương vua cha (Tần bà sa la- Bindusàra) và ông nội (Chandragupta) muốn hoàn thành việc chinh phục xứ Kalinga, và sát nhập nó vào đế quốc mình. Hàng nghìn người bị giết, bị thương, bị tra tấn và bắt tù binh trong trận này. Nhưng về sau, khi trở thành một Phật tử, ông hoàn toàn thay đổi nhờ giáo lý của Đức Phật. Trong một tuyên ngôn danh tiếng của ông khắc trên đá (Trụ đá XIII, như ngày nay thường gọi) còn có thể đọc được ngày nay, nói đến sự chinh phục Kalinga, Hoàng Đế A Dục đã công khai bày tỏ sự "sám hối" của ông và nói ông "vô cùng đau đớn khi nghĩ về sự tàn sát ấy". Ông tuyên bố công khai rằng ông sẽ không bao giờ rút gươm ra để làm một việc chinh phục nào nữa, nhưng ông "mong mỏi tất cả mọi chúng sinh sống trong Bất Bạo, tự chủ, tập luyện sự an tĩnh và ôn hòa. Điều này dĩ nhiên Người con yêu chuộng của các thần linh (A Dục Vương) xem là chiến thắng bằng chánh pháp (dhamma-vijaya)". Không những tự ông chối bỏ chiến tranh, mà ông còn tỏ lòng mong muốn rằng "con ta và cháu ta sẽ đừng nghĩ về một cuộc chinh phục nào khác nữa xem như đáng làm ... Chúng hãy chỉ nghĩ đến một sự chinh phục độc nhất, sự chinh phục bằng Đạo Đức. Điều ấy lợi ích cho đời này và cả đời sau".

Đấy là tấm gương độc nhất trong lịch sử nhân loại về một người chiến thắng vinh quang đang ở tột đỉnh của uy quyền, còn có sức mạnh để tiếp tục những cuộc chinh phục đất đai, nhưng lại từ bỏ chiến tranh và bạo động mà trở về với hòa bình, bất bạo.

Đấy là một bài học cho thế giới ngày nay. Vị hoàng đế cai trị một đế quốc rộng lớn đã công khai quay lưng lại với chiến tranh, bạo động và đón nhận thông điệp của bất bạo và hòa bình. Không có bằng chứng lịch sử nào nói rằng có vua láng giềng nào đã lợi dụng sự sùng đạo của vua A Dục để tấn công ông về quân sự, hay có một cuộc nổi loạn nào trong đế quốc ông lúc sinh thời. Trái lại khắp trên lãnh thổ đều được hòa bình và ngay cả những xứ bên ngoài Vương quốc ông cũng dường như đã chấp nhận sự lãnh đạo nhân từ của ông.

Thật điên rồ khi nói đến việc duy trì hòa bình bằng cách làm quân bình các thế lực hay bằng sự hăm dọa của võ khí nguyên tử. Thế lực của binh bị chỉ có thể phát sinh ra sợ hãi, chứ không phát sinh hòa bình. Trong sợ hãi không thể nào có hòa bình lâu dài và thực sự. Từ sợ hãi chỉ có thể sinh ra thù hận, ác độc, có thể bị đè nén trong một thời gian nhưng sẵn sàng bùng dậy và trở nên hung bạo bất cứ lúc nào. Hòa bình chân thật chỉ có thể ngự trị trong một không khí của lòng thương (mettà), thân thiện, không có sợ hãi nghi ngờ và nguy hiểm.

Phật giáo nhắm mục đích kiến tạo một xã hội ở đấy người ta từ bỏ sự tranh chấp thế lực rất tai hại, ở đấy an tĩnh và hòa bình ngự trị xa hẳn chiến thắng và chiến bại, ở đấy sự áp bức người vô tội phải bị mạnh mẽ tố cáo, ở đấy một người tự thắng mình được kính trọng hơn những người chiến thắng hàng triệu bằng chiến tranh quân sự và kinh tế, ở đấy hận thù được chinh phục bằng yêu thương, và sự ác độc bằng thiện cảm, ở đấy thù hận ganh ghét, ác độc và tham lam không nhiễm độc tâm trí con người, ở đấy từ bi là nguyên nhân động lực cho hành động, ở đấy tất cả kể cả những sinh vật nhỏ bé nhất đều được đối xử với lòng yêu thương lân mẫn, ở đấy cuộc sống bình an hòa điệu - trong thế giới đầy đủ về vật chất - được hướng về mục đích cao quý nhất, sự thực chứng chân lý tối hậu, Niết Bàn.

Dịch giả Thích Nữ Trí Hải
Sài Gòn, 10 tháng 11, 1966

Chú thích:

(1) M I (PTS), pp. 30-31.

(2) Ibid, pp. 490 ff.

(3) S I (PTS), p. 234.

(4) D I (Colombo, 1929), p. 101.

(5) A (Colombo, 1929) pp. 786 ff.

(6) D III (Colombo, 1929), p. 115.

(7) A (Colombo, 1929), pp. 232, 233.

(8) Jakata I, 260, 399; II, 400; III, 274, 350; V, 119, 378.