Thiền Sư Henepola Gunaratana xuất gia năm 12 tuổi ở Kandy, Sri Lanka. Tu tập làm 
sadi trong tám năm, tỳ kheo được bảy năm, sau đó Sư mới rời Sri Lanka vào năm 
1954 để đến Ấn Độ phục vụ cho những người thuộc giai cấp hạ lưu. Năm 1968, Sư 
đến Mỹ và trở thành vị Tổng Thư Ký Danh Dự (Honorary General Secretary) của Hội 
Phật giáo, một tu viện ở Washington D.C.  Trong thời gian đó, Sư cố gắng lấy 
bằng tiến sĩ về triết học ở Đại học American, nơi sau này Sư  trở thành vị Tuyên 
Giáo Phật giáo ở đó. Sư đã hoằng pháp trên khắp thế giới trong hơn 40 năm. Sách 
của Sư gồm có Căn Bản Chánh Niệm (Mindfulness in Plain English), do nhà xuất bản 
Wisdom Publications phát hành (ND:  Hiện nay, Sư đã xuất bản thêm 3 quyển nữa 
là: Hành Trình Đến Chánh Niệm (Journey to Mindfulness); Bát Chánh Đạo: Con Đường 
Đưa Đến Hạnh Phúc (Eight Mindful Steps To Happiness) và Con Đường Thiền Chỉ 
& Thiền Quán (The Path of Serenity and Insight). Năm 1988, Bhante Gunaratana 
trở thành chủ tịch của Hội Bhavana ở High View, phía tây tiểu bang Virginia. 
Trung tâm này khuyến khích việc tu thiền Quán (Vipassana) và đời sống xuất 
gia.
(ND: Có thể xem thêm về cuộc đời của Sư trong quyển Hành Trình Đến 
Chánh Niệm-Tự truyện của Sư Gunaratana, NXB Phương Đông 2007).
Cuộc phỏng vấn này được thực hiện 
bởi bà Helen Tworkov, Biên Tập Viên của Tạp chí Tricycle, tại Hội Bhavana vào 
tháng 11 năm 1994. Bhante trong tiếng Pali  tương đương với từ Thượng Tọa 
(Reverend) trong tiếng Anh. 
Tricycle: Hiện tại, ở Tây phương, nhiều người 
cho rằng sự phân biệt giữa đời sống của người tu sĩ và người cư sĩ như ở Á Châu 
đã lỗi thời, không còn thích hợp, không có vị trí nào ở Tây 
phương. 
Bhante Gunaratana:  Cuộc 
sống của người xuất gia tốt hơn, không phải vì mục đích chính trị hay cho một 
quyền lực nào, nhưng tốt hơn cho việc phát triển tâm linh. Đời sống nơi tu viện 
nuôi dưỡng, hỗ trợ tâm tu tập. Nếu bạn muốn sống cuộc sống thế tục, thì không 
thể gọi đó là đời sống xuất gia, và bạn cũng không thể hy vọng là mình có thể tu 
tập một cách tốt nhất. Ngày nay cuộc sống tạo ra nhiều mối tương quan, khiến 
người ta lâm vào những hoàn cảnh khó khăn, phức tạp về tình cảm hay điều gì đó. 
Mỗi cá nhân có quá nhiều bổn phận, quá nhiều việc phải làm. Trong khi chúng ta 
cần phải có không gian để trưởng thành, để cải thiện sự thực hành tâm linh. Đó 
là lý do tại sao Đức Phật nói, “Hãy giảm bớt các bổn phận.” Khi có ít bổn phận 
hơn, hãy giảm bớt công việc. Khi có ít công việc phải làm, ta có nhiều thời gian 
để tu tập hơn, ta không phải luôn sống trong căng thẳng, lo âu, bức xúc, khiến 
sức khỏe của ta bị ảnh hưởng.
Tricycle: 
Ở thời đại mới này, có cách gì để khuyến khích người ta sống theo đời 
sống của người xuất gia?
Bhante 
Gunaratana: Một số truyền thống nơi tu viện cũng đã được sửa đổi. Người 
tu sĩ không cần phải hoàn toàn tách rời khỏi xã hội mà họ đang sống. Ngay chính 
trong tu viện, cũng có một số điều có thể thay đổi để làm cho cuộc sống nơi đó 
sinh động hơn. Thời trước, cuộc sống nơi tu viện có vẻ rất tăm tối, đầy khổ 
hạnh. Các vị tu sĩ ngồi dưới gốc cây hay trong hang động để hành thiền suốt 
ngày. Một trong những điều mà ở đây chúng tôi thường bị một số tu viện quá 
nghiêm khắc phê bình, là chúng tôi quá thoáng. Không phải là chúng tôi đã quên 
cuộc sống ở tu viện phải như thế nào, nhưng chúng tôi cố gắng làm cho nó hiện 
đại bằng cách tạo ra một số sửa đổi.
Tricycle : Thí dụ như là?
Bhante Gunaratana: Chúng tôi cũng lái xe nếu 
cần. Đôi khi chúng tôi cũng đi chợ nếu không có ai khác làm việc đó. Và chúng 
tôi cũng có những vị tăng và ni sống ở cùng một trú xứ. Miễn là chúng tôi gìn 
giữ giới luật, thì những sự sửa đổi này là có thể chấp nhận được. Đôi khi người 
ta nói rằng, tất cả mọi giới luật tôn giáo, không chỉ là giới luật của người 
xuất gia, đều đã lỗi thời… Ở một số nơi, hay một số xã hội, đạo đức không còn là 
vấn đề quan trọng nữa, vì người ta không muốn tự kỷ luật mình. Họ không muốn có 
trách nhiệm, không tôn trọng sự chân chất, thật thà. Nhưng những đức tính này 
chẳng bao giờ lỗi thời. Chúng tôi muốn gìn giữ cái cốt lõi. Sửa đổi không có 
nghĩa là để mặc cho ai muốn làm gì thì làm. Những giới luật do Đức Phật đề ra 
đều là vì lợi ích của chúng ta. Tất cả những giới luật mà chúng ta gìn giữ là để 
thanh tịnh hóa tâm. Không có sự thanh tịnh hóa của tâm, chúng ta không bao giờ 
đạt được định, tuệ, tri thức, và chẳng bao giờ có thể tháo gỡ được sự bực bội, 
khó chịu tâm lý tiềm ẩn.
Tricycle: 
Ở Tây phương có một quan niệm tâm lý chung cho rằng cuộc sống độc thân là 
không lành mạnh.  Do đó đời sống xuất gia thu hút không phải những người muốn đi 
tìm một lời giải cho vấn đề tâm linh mà là những người có vấn đề về tình 
dục.
Bhante Gunaratana: Ngược lại, 
chúng tôi thấy rằng những người lúc nào cũng nghĩ đến tình dục mới có vấn đề. Ở 
đâu cũng thế. Chạy theo những đòi hỏi của bản năng và buông xuôi theo chúng thì 
cũng không phải là lành mạnh. Người đã tự rèn luyện mình một cách nghiêm túc, 
đầy chánh niệm để kiềm chế bản thân, cũng như tự kỷ luật mình, có thể sống một 
cuộc sống rất lành mạnh. Người ta cố gắng biện minh cho lòng tham, sân, si. 
Nhiều người trở nên u mê.
Tricycle:  U mê?
Bhante Gunaratana: Trong tiếng Pali đó là 
Galibaliso. Gali có nghĩa là nuốt, baliso có nghĩa là miếng mồi. Khi bạn quan 
niệm rằng bạn không cần phải tự kiềm chế mình, rằng bất cứ khi nào bạn cảm thấy 
có sự thôi thúc về tình dục thì bạn đi tìm và giao hợp với bất cứ ai bạn thích. 
Hay khi giận dữ, bạn có thể biểu lộ lòng sân hận bằng bất cứ phương cách gì bạn 
muốn, kể cả dùng bạo lực nếu bạn thích. Những quan niệm, cách hành xử như thế sẽ 
đưa xã hội xuống dốc. Sư có cảm giác rằng đó là những gì đang xảy ra. Cố gắng đề 
cao giới luật, lòng chân thật, tín ngưỡng tôn giáo v.v…; những điều như thế đã 
trở thành giống như muốn ngăn chặn một dòng nước chảy với một tờ giấy. Tâm chúng 
ta giống như nước chảy. Nước luôn chảy xuống, nó chẳng bao giờ tự lực đi lên. 
Tương tự, tâm dễ hướng đến những điều sai trái. Đó là lý do tại sao Đức Phật nói 
rằng sự thực hành Pháp thực sự giống như “đi ngược dòng”.  Không phải là một 
việc dễ dàng.
Tricycle: Điều đó 
đúng đối với người xuất gia cũng như người tại gia phải không, thưa 
Sư?
Bhante Gunaratana: Đúng, nhưng 
mục đích duy nhất của đời sống xuất gia là tạo cơ hội cho con người tự kỷ luật 
mình. Tu viện cũng giống như một phòng thí nghiệm. Chúng ta không muốn ở mọi 
ngóc ngách đều phải có các phòng thí nghiệm, nhưng phải có ở một số nơi, một số 
không gian có kiểm soát để người ta có thể phát triển, nếu người đó thực sự muốn 
tu tập để nội tâm được an lạc. Nước Mỹ vẫn còn giống như một đứa trẻ mới lớn, 
còn vị thành niên, chỉ lo cố gắng để phát triển, nhưng trạng thái chưa trưởng 
thành về mặt tâm linh của nó lại được coi như là khuôn mẫu cho cả thế giới noi 
theo. Sư không nghĩ đó là một cách suy nghĩ đúng đắn. Chỉ khi nào chúng ta đạt 
được trạng thái tự do và có trách nhiệm thì lúc đó tất cả chúng ta mới được bình 
đẳng.
Tricycle: Chúng ta sanh ra 
không bình đẳng sao?
Bhante Gunaratana: 
Chúng ta sanh ra không bình đẳng. Chúng ta không được tạo ra một cách 
bình đẳng. Chúng ta có sự khác biệt do nghiệp quả. Chúng ta sanh ra khác nhau, 
sống khác nhau và chết khác nhau, vì nghiệp chúng ta khác nhau. Nghiệp phân 
chúng ta thành ra giàu nghèo, sang hèn, có học và vô học, đẹp xấu, khéo léo và 
vụng về, v.v… Nhưng khi chúng ta gia nhập tăng đoàn hay ni đoàn, ta buông bỏ sự 
phân biệt và trở nên bình đẳng. Và khi đạt được giác ngộ, tất cả mọi người đều 
bình đẳng. Không có sự khác biệt trong việc đạt được giác ngộ. Khi chúng ta đạt 
được niết bàn, tất cả chúng ta đều bình đẳng.
Tricycle: Phật giáo Nguyên thủy có một lịch sử 
lâu dài về sự bất bình đẳng giữa các giới, ngay chính trong lãnh vực giác ngộ 
tâm linh. Đúng ra theo như tôi hiểu, thì nữ tu không được thọ đại giới trong 
truyền thống Nam tông. 
Bhante 
Gunaratana: Đó là một sự sửa đổi mà tôi muốn đề nghị. Chúng tôi cũng gặp 
nhiều khó khăn khi muốn đưa các vị nữ tu sĩ thọ đại giới vào trong chúng. Nó đã 
trở thành một vấn đề gây tranh cãi vì có nhiều phụ nữ muốn tu theo Nguyên thủy 
và muốn được thọ đại giới, nhưng cho đến bây giờ điều đó vẫn chưa thực hiện 
được.
Tricycle:  Sự chống đối là 
do đâu? 
Bhante Gunaratana: Là từ 
các trường phái Phật giáo Nguyên Thủy.
Tricycle: Vì truyền thống?
Bhante Gunaratana: Vâng.  Đúng ra truyền thống 
để cho người nữ được thọ đại giới trước kia đã có, nhưng sau này biến 
mất.
Tricycle: Như thế thì những 
nữ tu sĩ Nguyên thủy ngày nay thọ giới như thế nào?
Bhante Gunaratana : Họ không thọ đại giới, 
nhưng thọ giới Sadi. Trong một quốc gia mà Phật giáo vẫn còn mới mẻ như Mỹ, thì 
việc để cho các nữ tu được thọ đại giới cần được thiết lập. 
Tricycle : Các huynh đệ của Sư ở Sri Lanka sẽ 
nghĩ thế nào về quan điểm của Sư trong việc này? Liệu họ có nghĩ rằng, “Ồ, có 
thể là ông ấy đã sống quá lâu ở Tây phương?”
Bhante Gunaratana: (cười) Vâng, đúng vậy. Tuy 
nhiên trong bài kinh Kalama nổi tiếng, Đức Phật đã khuyên, “Đừng tin vào truyền 
thống, đừng chỉ tin vào những gì được nghe. Đừng chấp nhận bất cứ điều gì chỉ vì 
chúng được nói đến trong kinh điển. Đừng chấp nhận bất cứ điều gì chỉ vì vị thầy 
có vẻ là một người thành thật, đáng tôn kính. Đừng chấp nhận bất cứ điều gì vì 
nó có vẻ tri thức, lô gic hay triết lý. Đừng chấp nhận bất cứ điều gì chỉ vì bạn 
thấy thích hợp. Hãy tự xét bằng chính kinh nghiệm của mình, quán sát, điều tra, 
thảo luận, suy nghĩ về điều đó và đặt câu hỏi. Chỉ lúc đó, nếu những gì bạn đã 
học được tốt cho bạn, tốt cho người, tốt cho cả hai, thì hãy chấp nhận nó. Nếu 
nó không tốt cho bạn, không tốt cho người, không tốt cho cả hai, thì hãy buông 
bỏ nó”. Vì thế sự tự do được tìm hiểu là điều Đức Phật luôn khuyến khích.  Do đó 
dựa trên những lời dạy này, Sư đã đưa ra đề nghị đó.
Tricycle: Tôi chắc rằng nhiều phụ nữ ở Tây 
phương và Á châu rất ủng hộ quan điểm này. Ngay cả trong những xã hội chấp nhận 
cho nữ tu sĩ được thọ đại giới, thì giới luật dành cho ni vẫn nhiều hơn gấp đôi 
cho tăng, và ni vẫn bị coi là thấp kém hơn tăng. Ngay chính ở đây (Trung Tâm 
Bhavana), tôi đã quan sát thấy các tăng sĩ rời thiền đường trước các nữ tu sĩ, 
và thức ăn được mang đến phục vụ họ trước. 
Bhante Gunaratana: Ở đây chúng tôi không có các 
nữ tu sĩ thọ đại giới. Tất cả những phụ nữ ở đây đều là nữ tu. Theo thứ bậc ở tu 
viện, thì người nào ở trong tăng đoàn lâu nhất được coi là trưởng lão nhất, và 
người đó dẫn dắt tăng đoàn, người đó đi trước, người đó ngồi trước. Cấp bậc được 
xếp đặt dựa trên thời gian tu hành của họ.
Tricycle: Nếu việc truyền giới đầy đủ cho các 
ni được thành hình, Sư có ủng hộ việc hoàn toàn bình đẳng giữa tăng và 
ni?
Bhante Gunaratana: Sư hỗ trợ 
điều đó. Sư tán đồng điều đó. Một vị tỳ kheo ni đã thọ đầy đủ các giới, phải có 
cùng quyền hạn như các tỳ kheo đã thọ đại giới khác. Đó là sự bình đẳng mà Sư 
ủng hộ. Đức Phật đã chế ra thêm một số giới cho các chư ni, vì ở thời Ngài còn 
tại thế, nếu Ngài không làm như thế, không tạo ra thêm một số giới luật cho nữ 
tu sĩ, thì đã có sự chống đối mãnh liệt, sự nổi dậy từ các vị tăng khác cũng như 
từ giới cư sĩ. Để tránh những tình huống đó, Đức Phật đã đặt ra những điều luật 
này. Nhưng trong xã hội mới ngày nay, những điều đó có thể được châm 
chế.
Tricycle: Những sự châm chế 
mà Sư đã đề nghị có thể áp dụng ở Á châu không?
Bhante Gunaratana: Theo Sư nghĩ thì ở Á châu 
việc truyền đại giới cho người nữ sẽ chẳng bao giờ xảy ra vì truyền thống, thói 
quen quá sâu đậm. Điều đó chỉ có thể xảy ra ở những xã hội giống như xã hội này 
(Mỹ), nơi Phật giáo vẫn còn là điều mới mẻ. Một khi nó đã được thiết lập ở nơi 
này thì có thể từ từ nó sẽ được lan truyền sang những cộng đồng Phật giáo Á 
châu.
Tricycle: Thế những điều gì 
Sư nghĩ là không nên thay đổi? 
Bhante 
Gunaratana: Pháp có thể được chuyển dịch sang những ngôn từ mới mẻ, đơn 
giản. Nhưng ý nghĩa của nó không được thay đổi tùy tiện.  Một số hình thức, nghi 
lễ có thể thay đổi, nhưng việc mặc y áo không nên thay đổi. Ngay chính trong 
thời của Đức Phật, y phục của người cư sĩ hoàn toàn khác với y áo của các vị tu 
sĩ. Và ngày nay cũng thế. Chiếc y này che chở cho chúng tôi. Con người chúng tôi 
không phải là hoàn toàn, nên khi chúng tôi mang y áo, nó nhắc nhở chúng tôi đến 
vị trí của mình, ngăn chặn chúng tôi không đi vào những hoàn cảnh xấu, làm những 
điều xấu.
Tricycle: Một số cộng 
đồng Nguyên thủy khác đã sửa đổi một số truyền thống như chỉ tụng đọc bằng tiếng 
Pali hay không ăn sau giờ ngọ; tại sao Sư lại muốn duy trì những nghi lễ 
này?
Bhante Gunaratana: Nếu không 
duy trì hình thức của Phật giáo Nguyên thủy, thì dần dần người ta sẽ không biết 
chúng như thế nào. 
Tricycle: Điều 
gì thật sự khác biệt giữa truyền thống Nguyên thủy với Đại thừa Phật 
giáo?
Bhante Gunaratana: Truyền 
thống Nguyên thủy cố gắng duy trì Phật giáo theo như trong các kinh điển Pali.  
Phật giáo Nguyên thủy nhấn mạnh đến sự thực hành giới, định và tuệ, y cứ sát sao 
theo lời Phật dạy càng nhiều càng tốt. Là những người Phật tử tu theo truyền 
thống Nguyên thủy, chúng tôi cố gắng để gìn giữ tiếng Pali, sử dụng tiếng Pali 
khi thuyết pháp, cũng như trong các nghi lễ cúng tụng hằng ngày. 
Tricycle: Duy trì ngôn ngữ của Đức Phật có ích 
lợi gì?
Bhante Gunaratana: Điều 
ích lợi là khi chúng ta có bất cứ mối nghi ngờ, thắc mắc gì về những lời Phật 
dạy, bất cứ lãnh vực nào còn gây khó hiểu, ta luôn có thể tra xét lại trong đại 
tạng kinh Pali. Chúng tôi luôn duy trì tiếng Pali như một ngôn ngữ tham khảo để 
làm rõ một số thuật ngữ trong Phật giáo. Nếu không có một căn bản như vậy, hay 
tương tự như vậy, chúng ta phải dựa vào các bản dịch, mà nếu người dịch có phạm 
lầm lỗi nào, thì sai lầm đó sẽ được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. 
Điều đó đã xảy ra đối với một số hệ phái Phật giáo khác, vì không thông ngôn ngữ 
truyền thống, họ phải đọc các bản dịch hay giảng giải đã tam sao, thất bản, 
không còn giử được ý nghĩa nguyên thủy. Giáo lý nguyên thủy được duy trì bằng 
ngôn ngữ Pali truyền thống. Không thể nghi ngờ gì về điều đó.
Tricycle: Nhiều người nghĩ Phật giáo Nguyên 
thủy thiếu vắng hạnh nguyện Bồ Tát, hạnh nguyện muốn cứu giúp tất cả chúng sanh 
và luôn đặt người khác trước bản thân, do đó đã làm suy giảm vai trò của tâm từ 
bi như chúng ta thấy trong các truyền thống khác. Sư có thể nói thêm về điều đó 
không?
Bhante Gunaratana: Trong 
khi cố gắng để đạt được giác ngộ, chúng ta phải giúp đỡ người khác. Không ai có 
thể làm khác được. Thí dụ, khi đang đi trên đường, ta gặp người cần được giúp 
đỡ. Thực phẩm, nước, người bệnh, hay gì đó. Chúng ta không thể chỉ nói: “Ồ, tôi 
đang trên đường đi, bạn phải đợi đến khi tôi đã hoàn thành cuộc hành trình. 
Không ai có thể nói như thế. Chúng ta phải giúp đỡ người ngay lập tức. Đạo đức, 
tình người bắt buộc chúng ta phải hành xử như thế. Đó là những gì Đức Phật đã 
làm. Ngài đã trở thành hoàn hảo bằng cách làm những việc Ngài cần phải làm. Ngài 
tu tập ở trong xã hội loài người, với con người. Thuyết pháp, dạy dỗ, giúp đỡ, 
phụng sự và làm tất cả những gì Ngài phải làm để cứu giúp thế gian. Và sự giúp 
đỡ đó, sự tu tập đó đã đạt đến mức hoàn hảo. Chúng ta không cần phải đợi đến khi 
đạt được giác ngộ.
Tricycle: Sư có 
nghĩ rằng một số người Tây phương đã hiểu lầm Phật giáo Nguyên thủy vì sự thiếu 
vắng của một hạnh nguyện Bồ tát thực sự? 
Bhante Gunaratana:  Mặc dầu Phật giáo Nguyên 
thủy không có hạnh Bồ tát đặc biệt nào, trong thực tế chúng ta khó có thể bỏ qua 
việc giúp đỡ người khác. Mà việc giúp đỡ người khác cũng không chỉ dành riêng 
cho người Phật tử.  Đâu chỉ có người Phật tử mới có tâm rộng lượng, đúng không? 
Đúng ra, cũng không chỉ con người mới có thể thực hành tâm rộng lượng. Chúng ta 
cũng đã chứng kiến thú vật chia sẻ đồ ăn với nhau. Phải phân biệt giữa Đại thừa 
và Tiểu thừa theo cách nhìn đó thì không thực tế chút nào. Điều thử thách chúng 
ta là làm sao để người ta hiểu được những giáo lý căn bản, như là vô thường, vô 
ngã, không nên tin vào một đấng tạo hóa. Khía cạnh thứ nhất, vô thường thì dễ 
rồi. Nếu ta đọc bất cứ cuốn sách gì về vật lý, hóa học, hay khoa học, ta sẽ biết 
tất cả về vô thường. Nhưng vô ngã và không tin có một đấng sáng tạo, hai điều 
nay thật là vô cùng khó khăn để truyền đạt cho người.
Tricycle: Có thể nào một xã hội như là một tổng 
thể trở nên ít chấp ngã hơn, hay là đó chỉ là vấn đề tu tập của cá 
nhân?
Bhante Gunaratana: Thật ra 
đó là một vấn đề tu tập cá nhân. Ngay cả trong thời Đức Phật, khi Ngài đã  đạt 
được giác ngộ, thì tham, sân, si trong thời đó cũng không kém gì thời nay. Mục 
đích duy nhất của Ngài để đạt được giác ngộ là để phục vụ chúng sanh. Nhưng ngay 
khi đạt được giác ngộ, Ngài đã trở nên quá thất vọng. Ngài đã nghĩ : «Làm sao ta 
có thể truyền pháp cho những người này? Họ quá vô minh, tham, sân, ganh tỵ, sợ 
hãi, căng thẳng, lo âu, và tham đắm, làm sao họ có thể hiểu được những điều 
này?” Nhưng Đức Phật vì lòng từ bi, cũng bắt đầu giảng dạy. Ngài chẳng bao giờ 
có thể loại bỏ tất cả mọi khổ đau trên đời. Không bao giờ. Ngài có thể giúp một 
số người diệt bỏ được khổ đau, nhưng so với bao nhiêu người còn u mê trên thế 
giới, thì con số người đạt được giác ngộ không đáng kể. Ngày nay với dân số ngày 
càng tăng, nhiều của cải vật chất được sản xuất bởi những tiến bộ khoa học kỹ 
thuật, thì càng có nhiều thứ kích thích sự ham muốn, làm tăng trưởng lòng tham, 
ích kỷ, sợ hãi, lo âu, và căng thẳng của ta hơn. Thực ra ngày nay thực hành pháp 
thanh tịnh càng khó hơn. Nhưng đó không chỉ là vấn đề riêng của Phật giáo. Đó là 
vấn đề của tất cả mọi tôn giáo. Tín đồ thuộc nhiều tôn giáo đang cố gắng với tất 
cả khả năng của mình. Cùng lúc, trong thế giới vật chất,  người ta cũng cố gắng 
để quảng bá các sản phẩm của họ, làm tăng thêm lòng tham của con người. Ngày 
càng có nhiều truyền hình, máy vi tính hơn,  nhiều cái này hơn, nhiều cái kia 
hơn; vì thế chúng ta phải cạnh tranh với những thứ đó.
Tricycle: Làm sao chúng ta có thể bảo vệ Pháp 
một cách tốt nhất trong môi trường này?
Bhante Gunaratana: Người nào bảo vệ Pháp sẽ 
được Pháp bảo vệ, cũng giống như người bảo vệ cây dù sẽ được cây dù bảo vệ lại. 
Để bảo vệ Pháp, chúng ta cần làm gì? Mỗi cá nhân chúng ta phải thực hành Pháp. 
Ai thực hành Pháp đến một mức độ nào, thì người đó sẽ được Pháp bảo vệ đến mức 
độ ấy. Chúng ta không bao giờ được bảo vệ bởi một thứ gì khác hơn, dầu chúng ta 
có mua bao nhiêu bảo hiểm, cần bao bảo vệ hay có bao nhiêu chìa khóa an toàn, . 
. . không bao giờ.
Tricycle: Sư có 
mục đích gì riêng cho bản thân không?
Bhante Gunaratana: Sư nghĩ Phật giáo giống như 
một thân cây. Cây phải có gốc rễ, lá, hoa, cành con, thân, vỏ cây, phần gỗ cứng 
và mềm, v.v… Chúng ta muốn được phần cốt lõi của Pháp, cũng giống như ta muốn 
được phần cốt lõi của cây. Mọi thứ khác đều có thể che đậy sự thật.  Có quá 
nhiều thứ phủ vây chân Pháp (true Dhamma). Và chúng ta có thể dễ dàng bị lôi 
kéo, hoang mang, lạc lối bởi rất nhiều, rất nhiều hình thức của sự vật. Đức Phật 
đã dạy rất rõ: «Khi vàng giả chưa xuất hiện ở chợ thì vàng thật sáng chói. Ngay 
khi vàng giả có mặt, không ai biết cái nào là vàng thật, cái nào là giả ». Vì 
thế Sư muốn chỉ cho người ta thấy thứ vàng ròng này, để họ không bị lôi cuốn bởi 
tất cả những gì hào nhoáng, chói sáng. Đó là mục đích của Sư