Lịch sử phật giáo Việt Nam
Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh
Tác giả: Lê Mạnh Thát
29/10/2554 06:36 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

05. Nguồn liệu và phương pháp viết sử

IV. NHỮNG NGUỒN SỬ LIỆU
VÀ PHƯƠNG PHÁP VIẾT SỬ

Như đã thấy, cho đến những năm 1310 tình trạng sử liệu Phật giáo Việt nam tương đối đã bị thất lạc một phần lớn, dẫn tới những phát biểu lịch sử rời rạc và thiếu sót trong Lược dẫn thiền phái đo�. Từ đó nảy sinh một ý thức và một nỗ lực mới nhằm giải quyết tình trạng ấy mà kết quả là sự ra đời của Thiền uyển tập anh. Ðể viết nó, người viết đã sưu tầm lại được một số lớn tài liệu, mà chủ yếu là gồm hai loại sau đây. Thứ nhất là những tác phẩm sử học Phật giáo Việt nam ra đời trước nó như Chiếu đối lục của Thông Biện và Biện Tài, Nam tôn tự pháp đo� của Thường Chiếu và Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật. Ðây là loại tư liệu cơ sở mà Thiền uyển tập anh đã dùng. Tiếp đến là loại tư liệu phụ bao gồm những tác phẩm sử học Việt nam như Sử ky� và Quốc sư�, những tác phẩm của những tác gia Việt nam kể cả những tác phẩm của các thiền sư, mà nó viết tới, những tài liệu trong bia, và cuối cùng là những tác phẩm Thiền tông Trung quốc, mà nổi bật nhất là Truyền đăng lục của Ðạo Nguyên.

1. NHỮNG NGUỒN SỬ LIỆU CƠ SỞ

Về loại thứ nhất thì Chiếu đối lục không được Thiền uyển tập anh trực tiếp dẫn ra như một sử liệu kiểm soát những sử liệu khác. Ðiều này, có nghĩa, hoặc Chiếu đối lục đã không được tác giả nó dùng đến, hoặc ngược lại, tác giả nó đã sử dụng. Chiếu đối lục như một sử liệu chính để viết về những vị Thiền sư ghi trong nó. Hai trường hợp này, chúng tôi nghĩ trường hợp sau tỏ ra gần sự thật hơn, bởi vì trong một chú thích ở truyện Ðịnh Huệ tờ 53b1, Thiền uyển tập anh viết: " Xét Nam tôn tự pháp đồ nói Huệ là pháp tự của Vạn Hạnh, điều này sợ sai, nay cứ bản truyện". Ta biết Ðịnh Huệ là thầy của Huệ Sinh, mà Huệ Sinh thì được Thông Biện nhắc tới trong buổi thuyết trình vào ngày 15 tháng 2 năm Hội Phong thứ 5 (1096). Do thế, Huệ Sinh cũng như Ðịnh Huệ chắc chắn phải được Biện ghi lại trong Chiếu đối lục. Cái gọi là bản truyện trong chú thích vừa dẫn mà tác giả Thiền uyển tập anh dựa và để nghi ngờ lối xếp đặt của Nam tôn tự pháp đồ về thứ tự thừa kế của Huệ hẳn phải xuất phát từ Chiếu đối lục đó, chứ không thể một nơi nào khác. Bởi vì xuất phát từ đấy, nó mới có một sức thuyết phục tác giả Thiền uyển tập anh về sự đúng đắn của nó hơn Nam tôn tự pháp đồ.

Dẫu sao chăng nữa, Chiếu đối lục là một tác phẩm chung của Thông Biện và Biện Tài. Chúng tôi nói là tác phẩm chung vì lẽ tác phẩm của Thông Biện nguyên có tên là Chiếu đối bản, như truyện Thần Nghi, tờ 40a9 đã ghi, còn Chiếu đối lục thực sự là tên của một tác phẩm của Biện Tài do vua ra lệnh "biên tu", nhưng Biện Tài là học trò nối pháp của Thông Biện. Do thế, Chiếu đối lục thực chất là do lấy Chiếu đối bản mà nhào nặn nên, và không khác gì nó cho lắm, để sau này, trong lịch sử truyền thừa, Thường Chiếu đã dùng Chiếu đối bản của Thông Biện để truyền lại cho đệ tử của mình là Thần Nghi. Bản truyền này dù vẫn gọi là Chiếu đối bản chúng tôi chắc rằng nó cũng bao gồm cả những "biên tu" do vua ra lệnh cho Biện Tài. Ngày nay, cả Chiếu đối lục lẫn Chiếu đối bản đã mất, nên ta không thể bàn cãi gì thêm về những nội dung của chúng được. Song nếu cách trên của chúng tôi về chữ "bản truyện" trong chú thích vừa dẫn trước được chấp nhận, thì Chiếu đối bản lẫn Chiếu đối lục chủ yếu là ghi lại một cách đơn sơ những nét chính về cuộc đời của các vị thiền sư Việt nam từ Tỳ Ni Ða Lưu Chi trở xuống cho tới Viên Chiếu (999 – 1090) và Huệ Sinh (? – 1064), sau khi đã mở đầu bằng một giới thiệu đại cương về lai lịch và nguồn gốc của Phật giáo Việt nam từa tựa như những gì mà Thông biện đã thuyết trình trong buổi hội năm 1096 nói trên.

Về Nam tôn tự pháp đồ, tác giả Thiền uyển tập anh dẫn ra cả thảy bốn lần, trong đó ba lần gọi tắt là Nam tôn đồ ở những truyện Không Lộ tờ 25b11, truyện Ma Ha, tờ 51a5 và truyện Ðịnh Giác tờ 72a1, còn một lần gọi đủ tên trong truyện Ðịnh Huệ, tờ 53b1 dẫn trước. Cứ vào những dẫn chứng đấy, ta có thể rút ra hai kết luận khá rõ rệt về vị trí cũng như nội dung nó trong liên hệ với Chiếu đối lục. Thứ nhất, nó không phải là một chép lại hoàn toàn và y nguyên văn những gì Chiếu đối lục đã ghi. Ðiều này thể hiện dứt khoát nhất trong những dẫn chứng ở truyện Ma Ha và truyện Ðịnh Huệ. Ma Ha theo nó là thuộc pháp tự của Nam Dương, nhưng Thiền uyển tập anh đã xếp ông vào hàng đệ tử của Pháp Thuận. Việc xếp đấy tất phải đến từ Chiếu đối lục bởi vì ngoài Chiếu đối lục, nó không có một tài liệu nào khác có thể giúp xếp đặt được, mà ta có thể biết. Về Ðịnh Huệ thì ta đã bàn cãi ở trên. Thứ hai, vì nó không là một sao chép hoàn toàn Chiếu đối lục, Nam tôn tự pháp đồ do thế đã có tham vọng trở thành một cuốn sử thứ hai song hành với Chiếu đối lục. Thực vậy, cũng cứ vào những dẫn chứng trên, thì nó đã không ghi lại tiểu sử và hệ phái không những của những người sống từ thời Thông Biện (? – 1134) đến thời tác giả nó là Thường Chiếu (? – 1203) một điều Chiếu đối lục không thể làm được, mà còn của những người đã được Thông Biện và Biện Tài chép ở Chiếu đối lục.

Như thế, qua hai kết luận đó thì Nam tôn tự pháp đồ rõ rệt có tham vọng trở thành một cuốn sử đầy đủ và có thể thay thế cho Chiếu đối lục. Nội dung nó do vậy không phải chỉ đơn thuần bao gồm những bản đồ chỉ ra thứ tự các thế hệ truyền pháp của các dòng thiền Việt nam, m à còn bao gồm chắc chắn cả những tiểu truyện về họ ghi rõ nơi ở, quê quán, niên đại, và hành tích nếu có, của họ. Có lẽ nhờ viết nó trên một qui mô loại đó, nên đến hậu bán thế kỷ 15 Lương Thế Vinh (1441 - ?) đã viết tựa cho việc in lại, như Văn tịch chí của Lịch triều hiến chương loại chí đã ghi. Truyền bản của nó, qua bản in có bài tựa của Lương Thế Vinh chắc chắn còn lưu hành vào tiền bán thế kỷ thứ 19 lúc Phan Huy Chú viết Lịch triều hiến chương loại chí bởi vì chính trong tác phẩm ấy Chú nói đến việc "Nam tôn tự pháp đồ, 1 quyển, thầy Viên Chiếu soạn, trạng nguyên Lương Thế Vinh viết tựa", một điều mà Nghệ văn chí của Lê Quí Ðôn không chép ra. Có thể Ðôn chưa có dịp thấy Nam tôn tự pháp đồ như một truyền bản. Ông chỉ ghi lại nó theo những gì mà Thiền uyển tập anh đã báo cáo mà thôi.

Cuối cùng là Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật. Cả Chiếu đối lục lẫn Nam tôn tự pháp đồ hình như cung ứng cho Thiền uyển tập anh những xương sườn tiểu sử của các vị Thiền sư. Còn việc viết nên những tiểu sử như chúng xuất hiện ngày nay trong Thiền uyển tập anh, tác giả chúng đã phải dùng đến Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật. Nguyên do cho một suy nghĩ như vậy bắt nguồn từ hai trường hợp khá đặc biệt sau đó là truyện Tịnh Không và truyện Nguyện Học. Ðặc điểm nổi bật nhất của hai truyện ấy là chúng có hoặc cơ duyên thoại ngữ, hoặc kệ thị tịch giống với cơ duyên thoại ngữ hoặc kệ thị tịch trong Truyền đăng lục của Ðạo Nguyên. Cho nên cuối truyện Tịnh Không, Thiền uyển tập anh đã viết câu chú ở tờ 29a5-6 thế này: "Cơ duyên thoại ngữ của truyện này cùng với truyện của Hòa thượng Giáp Sơn trong truyền đăng rất hiệp, nay xét Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật thì đều đã chép đủ, nên không dám cải chính". Còn ở truyện Nguyện Học, nó viết ở tờ 36a9: "Truyện này cùng với truyện của Huệ Tư trong Truyền đăng đại khái giống nhau. Nay cứ vào những gì do Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật chép".

Bằng hai chú thích đó, ta có thể rút ra hai kết luận khá rõ rệt, đấy là 1) Chính Liệt tổ yếu ngữ đã cung cấp những "yếu ngữ", tức những lời nói chính yếu của các Tổ sư cho Thiền uyển tập anh, và 2) Tác giả Thiền uyển tập anh có một đánh giá cao về quyền uy của những gì do Liệt tổ yếu ngữ ghi lại. Về kết luận thứ nhất, mặc dù truyện của các Thiền sư khác không ghi là yếu ngữ của họ lấy ra từ Liệt tổ yếu ngữ, chúng tôi nghĩ chúng ta phải giả thiết là một sự thực như thế đã xảy ra. Lý do cho một giả thiết đó nằm ở chỗ không lẽ Liệt tổ yếu ngữ chỉ độc nhất chép yếu ngữ của Tịnh Không và Nguyện Học mà thôi sao?. Ðương nhiên, nó không chỉ gồm yếu ngữ của những vị khác có tên trong Thiền uyển tập anh, nên ngay khi cả yếu ngữ của Tịnh Không và Nguyện Học không gì hơn là yếu ngữ của Thiện Hội và Huệ Tư trong Truyền đăng lục của Ðạo Nguyên nó vẫn được chấp nhận là đã chép trung thực yếu ngữ của những vị đó. Do thế, tác giả Thiền uyển tập anh đã có thể "dựa vào" những gì Liệt tổ yếu ngữ chép, mà "không dám cải chính" chúng. Ông đã đánh giá rất cao quyền uy của tác phẩm đấy.

Ðiều đáng ngạc nhiên là, ngoài Thiền uyển tập anh ra không thấy một tác giả nào khác nhắc tới Liệt tổ yếu ngữ. Ngay cả tác giả nó là Huệ Nhật, ta ngày nay chưa phát hiện được một tài liệu nào có ghi tên đó. Dẫu thế, chúng tôi nghĩ Huệ Nhật là người cùng thời với Ứng Thuận, vì lẽ những người kế thừa cuối cùng của hai dòng thiền Pháp vân và Kiến sơ như Tức Lự, Hiện Quang và Y Sơn thì đều có ghi "yếu ngữ" của họ cả, trừ một mình Ứng Thuận, là người kế thừa cuối cùng nhất của dòng thiền Kiến sơ đã không có ghi lại một yếu ngữ nào. Nói khác đi, Huệ Nhật đã không gồm Ứng Thuận vào số những vị tổ mà mình chọn lọc yếu ngữ. Dĩ nhiên, không phải chỉ một mình Ứng Thuận là không có yếu ngữ trong Thiền uyển tập anh. Ðiểm đáng kể là ông là người nối dõi sau cùng dòng thiền Kiến sơ và là một trong vị khai sáng ra dòng thiền Trúc lâm, mà lại không có yếu ngữ. Ðó là lý do cho ta đề nghị Huệ Nhật sống cùng thời với Ứng Thuận và viết Liệt tổ yếu ngữ khoảng những năm 1250 trở đi.

Về nội dung, thì trong số 68 vị Thiền sư thuộc hai dòng thiền Pháp vân và Kiến sơ có tên trong Thiền uyển tập anh thì có 13 vị là không có một yếu ngữ nào hết. Lối văn mô tả cuộc đời 13 vị đó mang nặng tính chất biền ngẫu của loại văn bia. Còn lại 55 vị kia thì đều có yếu ngữ dưới một hình thức này hay nọ, trong đó riêng về Viên Chiếu, thì có lẽ là không, chứ tất cả những vị khác Thiền uyển tập anh rút yếu ngữ của họ ra từ Liệt tổ yếu ngữ. Thật ra, dẫu ta muốn có một nguồn tài liệu khác cho nó rút ra, ta hiện cũng không thể đề nghị đích danh nguồn tài liệu đấy được. Từ đó, nội dung của Liệt tổ yếu ngữ ghi chép lại những lời nói chính yếu của khoảng 54 vị Thiền sư hiện có tên trong Thiền uyển tập anh. Vấn đề ta chưa thể giải quyết là Huệ Nhật đã lá6y tài liệu ở đâu để viết nên Liệt tổ yếu ngữ.

2. NHỮNG NGUỒN SỬ LIỆU PHỤ

Trên đây, chúng tôi đã giới thiệu sơ ba tư liệu chủ yếu, đấy là Chiếu đối lục của Thông Biện và Biện Tài, Nam tôn tự pháp đồ của Thường Chiếu và Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật, mà tác giả Thiền uyển tập anh đã dùng để viết tác phẩm mình. Trong số ba tư liệu đây thì Chiếu đối lục và Nam tôn tự pháp đồ cung cấp cho ông những dữ kiện tiểu sử nơi ở, quê quán, niên đại và hành tích còn Liệt tổ yếu ngữ giúp ông có được những đối thoại giữa các thầy trò Thiền sư cũng như những bài thơ và những bài kệ thị tịch và thị chúng. Ngoài những tư liệu cơ sở ấy, ông còn tham cứu và sử dụng bốn loại tư liệu phụ sau mà Thiền uyển tập anh ghi rõ lại tên hay để lại một số dấu vết và ta có thể suy luận ra.

Hầu hết là những tư liệu lịch sử chính trị Việt nam, về loại này Thiền uyển tập anh đã dẫn rõ hai tên, đó là Quốc sử và Sử ký. Quốc sử được dẫn ba lần ở những truyện Tịnh Giới tờ 34b7, truyện Vạn hạnh tờ 53a8 và truyện Ðạo Hạnh tờ 56b2. Cứ vào hai lần dẫn sau, ta có thể chắc chắn là, Quốc sử, đấy không chỉ là tác phẩm nào khác hơn là Ðại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, tức bộ sử cổ Trần Thái Tôn sai Hưu trùng tu lại bộ sử của Trần Chu Phổ và đến năm 1272 mới hoàn thành dưới triều Trần Thánh Tôn, "chép việc từ Triệu Vũ đế đến Lý Chiêu Hoàng, phàm 30 quyển". Thực vậy, lấy lần dẫn ở truyện Ðạo Hạnh làm thí dụ. Thiền uyển tập anh viết: " Xét Quốc sử thì năm Hội Tường Ðại Khánh thứ 8 (1117) các con của Sùng Hiền Hầu, Thành Khánh Hầu, Thành Chiêu Hầu, Thành Quảng Hầu và Thành Hưng Hầu được đón vào cung để nuôi dạy. Con của Sùng Hiền Hầu năm ấy mới hai tuổi. Vua rất yêu thương, bèn lập làm thái tử… Toàn thư B3, tờ 18a8-b3 cũng chép tương tự. Ðủ rõ Quốc sử không gì khác hơn là Ðại Việt sử ký của Lê văn Hưu.

Còn về Sử ký vấn đề hơi rắc rối hơn. Nó chỉ được dẫn một lần ở chuyện Khánh Hỷ tờ 62a11, ghi rằng: "Sử ký nói năm Thiên Chương Bảo Tự thứ 3 (1135) Sư mất". Cần mở ngoặc để nói thêm là hai bản in đời Lê và Nguyễn đều viết chữ Sử thành chữ Lại, nên trước đây có người đọc là Lại ký rồi tự hỏi có phải là Sử ký hay không. Chi tiết này, ngày nay ta có thể tự giải quyết một cách ổn thoả với khẳng định rằng chữ Lại là một cách viết sai của chữ Sử, bởi vì truyện Ðạo Hạnh tờ 56b3 cũng có trường hợp tương tự, ở đấy, Quốc sử bị viết thành Quốc lại. Thế thì, Sử ký của truyện này muốn chỉ cho cuốn sử nào? Trước đây, Hoàng Xuân Hãn cho lời chua vừa dẫn là của người đứng in bản in năm 1715 của Thiền uyển tập anh nên ông đồng nhất Sử ký với Toàn thư. Nhưng hiển nhiên đó là một quan niệm sai lầm, vì tất cả những lời chua trong bản in đấy phải là của chính tác giả Thiền uyển tập anh. Do thế, Sử ký đấy tất không thể chỉ Toàn thư. Nếu vậy phải chăng nó chỉ Ðại Việt sử ký của Lê Văn Hưu? Theo chúng tôi, không phải vì lẽ Ðại Việt sử ký đã được gọi bằng Quốc sử, như vừa thấy trên. Ấy thì, Sử ký chỉ cuốn sử nào?

Chúng tôi nghĩ, nó chỉ cuốn Sử ký của Ðỗ Thiện, mà Việt điện u linh tập dẫn đích danh tới những bốn lần ở những truyện Trương Hống và Trương Hát tờ 24, truyện Lý Phục Nan tờ 25, truyện Cao Lỗ tờ 29 và truyện Thần Ðằng châu tờ 38. Ngoài những lần dẫn đích danh này, những truyện Hai Bà Trưng tờ 11, truyện Tô Lịch tờ 18, truyện Phạm Cự Lượng tờ 19 và truyện Mục Thận tờ 22 trong đấy cũng đều nói là xuất phát từ Sử ký, Việt điện u linh tập, như chính bài tựa nó xác định, là một tác phẩm vào năm Khai Hựu thứ I (1329) do Lý Tế Xuyên thực hiện. Mặc dù niên đại ấy bị một số người nghi ngờ, sự nghi ngờ đó không dựa trên một bằng chứng xác đáng nào, ngoài trừ cứ vào việc kỵ huý, mà chủ yếu là cái họ Lý của Lý Tế Xuyên. Tuy nhiên, vì truyền bản đời Trần của Việt điện u linh tập ngày nay không còn nữa, ta khó có thể dựa vào kỵ huý đó để bác bỏ niên đại 1329 vừa nêu. Thực sự, thì tất cả những sách vở đời Trần cải họ Lý thành họ Nguyễn đều bị các tác giả đời Lê chữa thành họ Lý hết. Việc Nguyễn Tế Xuyên đời Trần bị đổi lại thành Lý Tế Xuyên đời Lê tất cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Một khi Việt điện u linh tập đã viết vào năm 1329 và đã dẫn Sử ký như một tác phẩm của Ðỗ Thiện thì Sử ký do Thiền uyển tập anh dẫn năm sau đó chắc chắn không thể chỉ là một cuốn sách nào hơn là cuốn sách của Ðỗ Thiện.

Nhân vật Ðỗ Thiện này cùng Sử ký của ông cũng gây ra khá nhiều bàn cãi. Nguyên do là Toàn thư B3 tờ 27a có ghi tên một nội nhân Ðỗ Thiện được Thần tôn giao cho nhiệm vụ cùng xá nhân Bồ Sùng đi báo việc lên ngôi của mình cho Sùng Hiền Hầu, cha của Thần Tôn, vào năm 1127. Như vậy, nếu Ðỗ Thiện của Sử ký là nội nhân Ðỗ Thiện đây, thì ông phải sống vào khoảng thượng bán thế kỷ thứ 12 và viết Sử ký vào khoảng thời gian đó. Song, vì Việt điện u linh tập đã dẫn Sử ký với những thêm thắt của mình cho nên có người dựa vào những thêm thắt đấy để quả quyết có một Ðỗ Thiện sống vào hạ bán thế kỷ thứ 13 cho đến thượng bán thế kỷ 14, còn Sử ký của Ðỗ Thiện đây chắc chắn phải viết vào khoảng đầu thế kỷ 14, tức khoảng giữa những năm 1287 – 1329. Những quả quyết như thế, đương nhiên là sai lầm, do không phân biệt được đâu là những trích dẫn từ Sử ký và đâu là những thêm thắt của Việt điện u linh tập. Một khi đã phân biệt được, thì Ðỗ Thiện của Sử ký chính là nội nhân Ðỗ Thiện phục vụ dưới triều Lý Nhân Tôn và Lý Thần Tôn. Và Sử ký dẫn trong truyện Khánh Hỷ của Thiền uyển tập anh chính là Sử ký của Ðỗ Thiện.

Cuốn Sử ký ấy ngày nay đã mất, nhưng cứ tám truyện dẫn trong Việt điện u linh tập và truyện Khánh Hỷ trong Thiền uyển tập anh, ta có thể nghĩ rằng nó có lẽ là một bộ sử mô phỏng theo lối Sử ký của Tư Mã Thiên. Nói khác đi, nội dung nó rất có thể đã bao gồm những bộ phận chính của một cuốn sử viết theo lối đó, tức phần Bản kỷ ghi tóm tắt những sự việc của một đời vua, phần Chi chép lại các chế độ của một triều đại, và phần liệt truyện ghi chép hành tích và sự nghiệp của những công thần và nghịch tiếm thần. Truyện Khánh Hỷ và truyện của tám người nói trên chắc được trích từ phần Liệt truyện của cuốn Sử ký đó. Tám truyện đấy, đều đề cập tới những việc xảy ra trước thời Lý Thần Tôn. Trừ truyện Hai Bà Trưng có ghi việc dưới triều Lý Anh Tôn. Lời dẫn trong truyê�n Khánh Hỷ nói: "Sử ký viết năm Thiên Chương Bảo Tự thứ 3 (1135) Hỷ mất…". Như thế, Ðỗ Thiện chắc chắn phải viết Sử ký sau năm 1135, nếu không là dưới triều Lý Anh Tôn.

Ðiều này giải thích không ít cho ta, tại sao những truyện do Sử ký ghi lại và dẫn trong Việt điện u linh tập quả đã phủ trong một không khí u linh đáng sợ. Ðỗ Thiện đã phục vụ một triều đại cực kỳ ưa thích việc lạ lùng, đó là triều đại Thần Tôn nhà Lý. Cho nên, dù Thần Tôn chỉ trị vì có 10 năm, sử ghi tới những 29 "việc lạ" như truyện "đào bốn tấc sanh hoa" hay phướn chùa không gió mà nhảy múa", "hươu trắng xuất hiện" v.v….Với một triều đại chú trọng đến những "việc lạ" loại đó, Ðỗ Thiện tất không thể nào không chịu ảnh hưởng. Do thế, khi viết Sử ky� khoảng dưới triều Lý Anh Tôn, Thiện đã viết nó theo xu hướng chính đó của triều đại. Và có lẽ vì viết theo xu hướng đấy, Sử ky� đã tự đánh mất giá trị mình đi rất nhiều trước những cặp mắt phê bình lịch sử khách quan, dẫn cuối cùng đến một sự quên lãng hầu như hoàn toàn, nếu không nhờ những cây bút có ít nhiều thiện cảm với sự u linh của nó nhắc tới như Việt điện u linh tập hay Thiền uyển tập anh.

Tiếp đến là những tài liệu trong tác phẩm của các tác giả sống trước năm 1337. Về loại này, Thiền uyển tập anh chỉ nêu đích danh một tác phẩm, đấy là Tự Ngu tập, ở truyện Hiện Quang tờ 42b5. Tự Ngu tập đây, ngày nay ta không thấy một sử sách nào ghi lại hết. Chỉ biết chắc chắn là, nó phải viết giữa giai đoạn khi Hiện Quang mất vào năm 1221 và lúc Thiền uyển tập anh ra đời. Về tác giả, thì cứ nhan đề Tự Ngu tập, chúng tôi đoán là nó do Ngu ông viết. Lược dẫn thiền phái đồ tờ 7b có kê một đệ tử của Tiêu Diêu tên Ngu ông sống đồng thời với Tuệ Trung cùng chín đệ tử khác như Vị Hài, Ðạo Tiềm, Thủ Nhân, Thạch Ðầu, Thần Tán v.v…Tuệ Trung, cứ vào Hành trạng do Trần Nhân Tôn viết trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 42b1, ra đời năm 1230 và mất năm 1291. Niên đại của Ngu Ông chắc cũng rơi vào khoảng đó, tức khoảng giữa những năm 1221 – 1337. Về nội dung cứ vào câu dẫn ở truyện Hiện Quang vừa nói, theo đấy khi Quang "mất, không biết ở đâu", ta có thể tưởng tượng nó là một tập hợp thi văn ghi chú đủ loại, đặc biệt là những gì liên hệ với núi Yên Tử, trung tâm xuất phát của phái thiền Trúc lâm.

Ngoài Tự ngu tập ra, Thiền uyển tập anh đã sử dụng một số tác phẩm khác của các tác gia trước nó, nhưng không nêu rõ tên đề. Trường hợp tiêu biểu nhất là những cơ duyên thoại ngữ, tức câu hỏi và câu trả lời giữa hai thầy trò Thiền sư, chép trong truyện Viên Chiếu. Ðây là một tập đại thành những thoại ngữ đó lớn nhất và xưa nhất trong lịch sử Thiền tôn Việt nam hiện còn. So với đối cơ của Thượng sĩ ngữ lục, nơi chép những thoại ngữ giữa Tuệ Trung và những học trò của mình, thì về số lượng cũng như chất lượng, những thoại ngữ của truyện Viên Chiếu đã vượt hẳn. Truyện Viên Chiếu chứa đựng đến những 118 câu hỏi và trả lời, trong khi phần đối cơ chỉ gồm vẻn vẹn có 92. Bây giờ, khảo về nguyên lai chúng, ban đầu chúng tôi tưởng chúng được rút ra từ Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật. Nhưng sau đọc kỹ lại phần Phương ngoại trong An nam chí lược 15 tờ 147, ở đây, Lê Tắc đã ghi một vài dòng sơ lược về Mai Viên Chiếu chúng tôi mới hiểu ra và tin chắc rằng những 118 thoại ngữ đấy đều phải trực tiếp rút ra từ tác phẩm Tham đồ hiển quyết của chính Viên Chiếu. Tắc viết: "Thiền sư Mai Viên Chiếu thường viết Tham đồ hiển quyết, đại lược nói rằng: Một hôm trong lúc đang ngồi trước nhà, bỗng có vị tăng đến hỏi: "Phật cùng với Thánh nghĩa ấy là thế nào?" Trả lời: "Cúc trùng dương dưới dậu, oanh thục khí đầu cành". Sách đó phần lớn gồm những loại như thế". Rõ rằng, hai thoại ngữ tắc dẫn như tiêu biêu cho nội dung và loại văn chương của Tham đồ hiển quyết là hai thoại ngữ bắt đầu cho 116 thoại ngữ tiếp theo trong truyện Viên Chiếu. Như vậy, kết luận tất yếu phải là, 118 thoại ngữ trong truyện Viên Chiếu chính là Tham đồ hiển quyết, chứ không gì nữa. Nói chúng là Tham đồ hiển quyết, vì qua sự so sánh trên, ta thấy ngay cả phần đối cơ của Thượng sĩ ngữ lục cũng chỉ gồm có 92 câu hỏi và đáp, do thế, 118 thoại ngữ tự chúng có thể tạo thành ra một tác phẩm, và tác phẩm đó là Tham đồ hiển quyết. Quả vậy, cái tên Tham đồ hiển quyết có nghĩa "làm rõ những bí quyết (giác ngộ) cho những đồ đệ học tham thiền" và từ đó, biểu dương khá rõ rệt bản chất của những thoại ngữ, mà nó chứa đựng. Những thoại ngữ đấy không nhằm một mục đích nào khác hơn là "làm rõ cái bí quyết tiến tới giác ngộ cho những ai tham thiền".

Với kết luận ấy, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, ta đã tìm thấy lại một tác phẩm thời Lývới tất cả thịt xương nó. Tham đồ hiển quyết có thể nói là tác phẩm đó. Nó duy nhất được bảo tồn có lẽ một cách hoàn toàn giữa 18 tác phẩm khác liệt ra trong Thiền uyển tập anh như Dượcsư thập nhị nguyện văn, Tán viên giác kinh, Thập nhị bồ tát hạnh chứng đạo trườngViên Chiếu tập của Viên Chiếu, Chiếu đối bản của Thông Biện, Chiếu đối lục của Biện Tài, Nam tôn tự pháp đồ Thích đạo khoa giáo của Thường Chiếu, Bồ tát hiệu sám hối văn của Pháp Thuận, Pháp sự trai nghi, Chư đạo tràng khánh tán vănBia văn của Huệ Sinh, Ngộ đạo thi tập của Khánh Hỷ và Chư phật tích duyên sự, Hồng chung văn bia ký, Tăng già tạp lụcViên Thông thi tập của Viên Thông. Ngoài Tham đồ hiển quyết ra, ta chưa biết Thiền uyển tập anh có trích dẫn tác phẩm khác của những người vừa dẫn không, vì không có vết tích nào để có thể truy cứu. Thứ ba là những tài liệu văn bia, Thiền uyển tập anh hai lần dẫn rõ tên loại tư liệu đấy. Ở cuối truyện Tịnh Giới tờ 34b7, người viết chua thêm:"Truyện này đại khái cùng với Quốc sửBia văn không giống, nay khảo chính lại". Còn ở cuối truyện Tịnh Thiền tờ 68a-b3, ông không những nói văn bia của Tịnh Thiền là do môn đồ Pháp Ký soạn, mà còn chép nguyên lại một đoạn tiêu biểu cho những gì viết trong đó. Như thế, Thiền uyển tập anh sử dụng văn bia vào hai mục đích chính, đấy là: 1) để kiểm tra giá trị sử liệu những loại tư liệu khác, và 2) là để bổ sung cho những gì đã viết về một nhân vật. Ngoài hai mục đích đó, hình như nó cũng dùng văn bia để viết lại tiểu truyện của một người trong trường hợp người ấy không có được đề cập tới qua những loại tư liệu khác. Chẳng hạn, truyện Bản Tịch tờ 60b2-11 với những câu "Từ đó, Sư không vướng mắc hữu vô, gồm rõ đốn tiệm, đến đâu cũng gieo khắp mưa pháp, xa gợi gió huyền, quan lại đốc theo, anh hào ngưỡng mộ", rõ rệt thể hiện một thứ văn bia, mà tác giả Thiềnuyển tập anh đã nhào nặn lại. Việc xử dụng văn bia cho mục đích cuối cùng này chắc xảy ra nhiều, nhưng ta hiện chưa thể phát hiện nó hết được.

Cuối cùng là loại tài liệu Trung Quốc, mà chủ yếu là Truyền đăng lục do Ðạo Nguyên viết vào khoảng năm 1004-1007 của niên hiệu Cảnh Ðức đời Tống Chân Tôn, nên cũng gọi Cảnh đửc truyền đăng lục. Thiền uyển tập anh chắc đã tham khảo Truyền đăng lục một cách rất kỹ càng, thể hiện qua các lời chua trong các truyện Vô Ngôn Thông, Tịnh Không vàNguyện Học, nhất là hai truyện sau. Bởi vì hai truyện sau chứa đựng những cơ duyên thoại ngữ và kệ thị chúng có trùng hợp với những gì do hai Thiền sư Trung Quốc phát biểu và chép lại trong Truyền đăng lục. Ðây là một nỗ lực đối chiếu cố ýnhằm không những xác định vị trí tư tưởng của các vị thiền sư Việt Nam mà còn giúp ta kiểm soát được cả truyền bản của Thiền uyển tập anh lẫn truyền bản Truyền đăng lục bằng cách dựa vào những trường hợp vừa nói. Ngoài Truyền đăng lục ra, Thiềnuyển tập anh còn nói tới Tuyết đậu ngữ lục của Trùng Hiển (980-1052), nhưng không dẫn ra trong một lời chua nào. Về những tác phẩm Thiền tôn Trung quốc nổi danh khác như Bích nham lục của Viên Ngộ Khắc Cần, Vô môn quan của Vô Môn Huệ Khai, Nhân thiên nhãn mục của Hối Nham Tri Chiếu v.v… mà các thiền sư đời Trần ngiên cứu và giảng thuyết khá rộng rãi, Thiền uyển tập anh chắc có tham khảo, nhưng đã không thấy nhắc tới hay dẫn ra.

Ngoài những loại tư liệu chính và phụ vừa kể, tác giả Thiền uyển tập anh còn sử dụng cả đến những tư liệu truyền khẩu, phản ảnh không ít những quan niệm và đánh giá của quần chúng nhân dân đối với những nhân vật lịch sử mà nó viết về. Ðiển hình nhất là lời chua ở truyện Tịnh Giới tờ 34a3-6, nói về việc "tục truyền" Tịnh Giới nhờ cầu được mưa, mà thoát khỏi nạn đóng thuế. Ghi lại một sự kiện truyền khẩu như thế, Thiền uyển tập anh đã cho ta một cảnh tượng bòn rút của cải từ nhân dân lao động bằng chế độ thuế khóa khắc nghiệt của chính quyền Lý Cao Tôn. Cũng cần thêm là, Thiền uyển tập anh nói Giới "xuất thân trong một gia đình hàn vi " nghĩa là trong một gia đình nghèo hèn không có một tấc đất. Sử dụng đến tư liệu khẩu truyền để viết về Tịnh Giới, nó do thế đã phản ánh khá trung thực những quan niệm và đánh giá của nhân dân lao động đối với những nhân vật lịch sử, mà các sử sách khác thường bỏ qua.
 
 

3. PHƯƠNG PHÁP VIẾT SỬ

Trên đây, chúng tôi đã phân tích những nguồn tư liệu chính và phụ mà tác giả Thiền tuyển tập anh sưu tập và sử dụng. Trong lối viết sử thì thông thường sau khi đã lựa chọn đề tài công tác sưu tầm tài liệu lịch sử liên hệ, nếu hoàn thành, là đã xác định không ít phương pháp viết sử của một sử gia. Ở trường hợp Thiền tuyển tập anh đây, vì ngày n ay bài tựa của chính tác giả cuốn sách đã bị thất lạc không biết tự đời nào, cho nên ta rất khó mà biết một cách đích xác quan niệm và phương cách viết sử của ông. Dẫu thế, qua những nguồn sử liệu vừa phân tích trên, ta có thể nói ông muốn đạt đến một lối viết sử khách quan khoa học, nhằm trình bày lại quá khứ vừa như một thực tế sinh động có những màu sắc của riêng nó, vừa như một khí cụ giáo dục rút tỉa những kinh nghiệm có ích không những cho công tác tu hành, mà còn cho những công tác chính trị xã hội khác. Một quan niệm viết sử như thế, đương nhiên không có gì là lạ, nhất là khi Kim Sơn, một nhà sư thân cận và được tin cậy của Trần Minh Tôn, quả đã viết ra Thiền uyển tập anh. Lối viết sử của ông chủ yếu là như thế này.

Ông dùng ba tài liệu sử học chính yếu trước thời ông, đấy là Chiếu đối lục, Nam tôn tự pháp đồ Liệt tổ yếu ngữ, để nhào nặn nên những người kế thừa hai dòng thiền chính của Việt nam, từ lúc chúng bắt đầu cho đến đời Lý và bước sang đời Trần khoảng năm mười năm. Trong khi nhào nặn, ông có lẽ đã sử dụng những tài liệu của Chiếu đối lụcNam tôn tự pháp đo� làm những xương sườn tiểu sử, rồi chắc chắn sử dụng Liệt tổ yếu ngữ để bôi phết thịt da cho những bộ xương sườn đó. Xong ông dùng những tài liệu phụ gồm từ Quốc sử cho đến văn phẩm các tác gia hay tục truyền và Bia văn cùng tài liệu Trung quốc để kiểm tra sự thực cùng mức độ sự thực của những truyện mà ông vừa nhào nặn nên, đồng thời bồi dưỡng cho chúng thêm những mẫu tin và dữ kiện mới góp phần làm cho chúng phong phú hơn lên. Ðấy là lối sử dụng mà ông đã để lộ ra một cách công nhiên trong Thiền uyển tập anh. Với một lối sử dụng như thế, ta phải thành thật nhìn nhận tác giả nó đã đạt được vào thời đại ông, môt mức độ viết sử khoa học khách quan nhất định.

Nhưng tiếp đến, vấn đề bố cục cuốn sách và viết nên truyện của các Thiền sư thì tác giả Thiền uyển tập anh đã phạm phải một số khuyết điểm làm cản trở việc triển khai những ưu điểm có sẵn trong phương thức sử dụng sử liệu. Thứ nhất, về bố cục, ông đã để cho quan điểm trường phái ông chi phối cách xếp đặt và tổ chức tư liệu, dẫn đến một hiện tượng khá lạ kỳ trong một cuốn sách về lịch sử Thiền tôn Việt nam là, thứ tự niên biểu của các dòng thiền bị đảo ngược. Dòng thiền Pháp vân, dù xuất hiện trước đến hơn 200 năm, đã bị xếp lui sau dòng thiền Kiến sơ, dòng thiền của người viết Thiền tuyển tập anh. Rồi tới việc viết nên tiểu sử các Thiền sư, mặc dù người viết đã biết sưu tầm và sử dụng những sử liệu, ông đã để cho ảnh hưởng phương pháp sử Thiền tôn của Truyền đăng lục, một phần nào lấn át khả năng phán đoán của mình, từ đó chưa vận dụng hết những ưu điểm tư liệu sẵn có cho việc tạo dựng nên những tiểu sử đầy đủ hơn. Cuối cùng, ông chưa vượt khỏi những cản ngăn của quan điểm sử học Phật giáo của Thông Biện và Thường Chiếu, cho nên vẫn tiếp tục bỏ rơi, không ghi lại một cách đầy đủ hai dòng thiền khác của nền Phật giáo thời Lý, đấy là dòng thiền Nguyễn Ðại Ðiên và dòng thiền Nguyễn Bát Nhã. Ðương nhiên, việc ông ghi kèm theo Thiền uyển tập anh bảng danh sách các Thiền sư của dòng thiền Nguyễn Bát Nhã, đã tỏ ra ông có một đánh giá mới đối với dòng thiền này, mà trước đây đã không được ngay cả kể tới tên. Ðấy là một tiến bộ đáng kể. Dẫu thế, ông đã bỏ lỡ cơ hội để viết một cách đầy đủ về các dòng thiền đấy, như ông đã làm đối với dòng thiền Pháp vân và Kiến sơ. Nguyên do của tình trạng ấy tất nhiên không phải vì tác giả Thiền uyển tập anh thiếu tài liệu về chúng. Tên phản quốc Lê Tắc còn có thể ghi lại môt vài nét về Thảo Ðường trong An nam chí lược, đang khi sống vất vưởng nơi quê người. Sau này, Tây hồ chí còn cho ta biết Thảo Ðường họ Lý, và chính bản thân Thiền uyển tập anh đã đề cập tới Ðại Ðiên trong truyện Ðạo Hạnh. Do thế, ta phải kết luận là, chính những quan điểm sử học Phật giáo thời Thông Biện và Thường Chiếu đang còn chủ trì xu thế sử quan những người viết sử Phật giáo Thiền tôn Việt Nam đời Trầ�n.

Ðấy là những giới hạn và khuyết điểm cụ thể của phương pháp viết sử của tác giả Thiền uyển tập anh. Dĩ nhiên, con người làm nên lịch sử, nhưng lịch sử cũng phát triển theo những qui luật tất yếu của nó. Cho nên, những giới hạn và khuyết điểm ấy cũng đã xuất hiện trong một thời kỳ lịch sử nhất định.

Vấn đề đánh giá phương pháp viết sử của tác giả Thiền uyển tập anh cũng phải giải quyết theo chiều hướng đó.
 
 

V. VẤN ÐỀ HIỆU BẢN PHIÊN DỊCH VÀ CHÚ THÍCH

Trong khi bàn về vấn đề truyền bản, chúng tôi đã vạch ra là giữa ba truyền bản hiện còn lưu hành, đấy là bản đời Lê I, bản đời Lê II và truyền bản đời Nguyễn, thì bản đời Lê I có nhiều ưu điểm vượt hẳn lên so với bản đời Lê II và bản đời Nguyễn, đáng được chấp nhận làm bản đáy cho bản dịch của chúng tôi. Tuy nhiên, bản đời Lê I này vẫn còn chứa đựng những sai lầm và thiếu sót. Do thế, để thực hiện một bản dịch nghiêm chỉnh và đầy đủ, chúng tôi đã hiệu đối bản đáy đó với bản đời Lê II và bản đời Nguyễn cũng như trích từ truyền bản đời Trần trong Lĩnh nam trích quái, bản đời Hồ trong An nam chí nguyên và tham khảo thêm những sách sử khác, khi cần thiết, mà hầu hết, đều có ghi lại và giải thích trong phần chú thích, trừ một số rất ít chúng tôi đã hiệu lại theo cách của chúng tôi.

Trong hiệu bản này, dấu * đi với chữ nào là muốn chỉ chữ đó sau đấy vẫn tiếp tục được hiệu như thế. Còn những chữ viết tắt thì có ý nghĩa như sau:

Al = An nam chí lược

An = An nam chí nguyên

Ð = Ðại việt sử lược

H = Ðại phương quảng phật hoa nghiêm kinh

Ty = Truyền đăng lục

L = Lĩnh nam trích quái truyện

T = Ðại việt sử ký toàn thư

Tr = Trần thư

V = Việt sử tiêu án.

Về phương pháp phiên dịch, chúng tôi cố gắng dịch sát theo hiệu bản chúng tôi về cả văn xuôi lẫn văn vần. Về văn vần thì chúng tôi giữ đúng thể thơ và số chữ của nguyên bản trong khi dịch. Trong phần dịch nếu có chú thích dấu hoa thị (*) ở cuối trang thì đó là nguyên chú của Thiền uyển tập anh .

Về chú thích, chúng tôi nhắm vào những mục đích sau,

- Một là , để đính chính, khảo chính bản văn, nhằm giải thích những sai lầm trong nguyên bản.

- Hai là, để giúp cho những người nghiên cứu ở những bộ môn khác nhau sử dụng Thiền uyển tập anh có những tư liệu liên quan tới những điểm họ muốn khảo cứu trong tác phẩm đây. Ðiểm này, chúng tôi muốn nhắm tới trước hết những người nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam và lịch sử Phật giáo Việt Nam, để họ có những tư liệu nhằm phát hiện những nét dị biệt giữa Phật giáo cùng tư tưởng Trung Quốc. Ngoài ra nhằm bổ sung một số kiến thức mới về lịch sử dân tộc ta, chúng tôi cố gắng thu thập một số tài liệu khác có liên quan tới các vị Thiền sư trong Thiền uyển tập anh. Thí dụ những văn kiện ngoại giao màvua Lê Ðại Hành gởi cho vua Tống mà theo tác giả Thiền uyển tập anh thì có thể chính bản thân Thiền sư Pháp Thuận đã thảo ra. Cũng như chúng tôi chú thích rõ và xác định tại sao bài từ đầu tiên của văn học cũng như ngoại giao của nước ta là gồm bao nhiêu chữ cấu trúc từ pháp như thế nào, nhờ nghiên cứu điệu từ Nguyễn lang quy của đời Tống bên Trung Quốc.