Luận tạng Bắc truyền
Tịnh Độ Luận
Minh Đức - Thanh Lương Nhà Xuất bản Tôn Giáo - xuất bản năm 2001 ---o0o---
26/07/2554 23:40 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

PHẦN BA (1)

Kính thưa quý vị.

Trên đây là những ý kiến tương phản của hai phái cùng tu theo pháp môn Tịnh độ, một bên thiên về hiện tượng, một bên thiên về bản thể, cả hai phái đều đưa ra những lý lẽ để bênh vực cho lập trường của mình và bài bác bên kia, không bên nào chịu thua bên nào cả. Tôi đã tư duy về vấn đề này, mong tìm được những lý lẽ xác đáng để dung hoà các mâu thuẫn bất đồng của hai bên, và trong khi quán tưởng về đề tài này, tôi đã cố nhớ lại những lời Phật và Tổ đã dạy.

Phật đã khuyên chúng ta:

1.- “Phải dùng pháp của ta làm nhiên liệu để đốt cháy tâm can con, làm bùng lên ngọn lửa Bát Nhã để soi sáng con đường tiến thủ của con”. (Kinh Di Giáo).

2.- “Phải tự rèn luyện mình để trở thành một cái phao vững chắc, hay một hòn đảo an toàn làm nơi trú ẩn, đừng bao giờ tìm bất cứ một nơi ẩn trú nào khác ngoài ta, trong biển khổ trần lao mông mênh của cuộc đời”. (Kinh Pháp Cú)

3.- Phải đặt trọn niềm tin ở mình, và đặt mọi cố gắng trên Chính kiến và Chính tư duy, vì chỉ có hai thứ đó mới đưa tới cứu cánh viên mãn”. (Kinh Pháp Cú)

4.- Đừng bao giờ tin một điều gì mà tập tục, thói quen hay sự dạy dỗ theo lối nhồi sọ đã làm cho ta tin tưởng từ thời còn thơ ấu. Đối với một điều cần phải dùng trí tuệ minh mẫn để xét lại, và khi đã phân tích, cân nhắc kỹ lưỡng nếu thấy điều gì quả thật tốt lành, lợi ích cho tất cả thì hãy tin, rồi cố gắng giúp mọi người cùng tin và sống theo chân lý ấy”. (Anguttara Nikaya).

5.- Người nào chẳng may bị mắc vào lưới mê muội, mù quáng, tin càn, hiểu sai và đi lạc lối rồi thì đừng hy vọng dùng tụng kinh, cầu nguyện, lễ bái, cúng dường hoặc tu ép xác như nhịn đói, nằm đất, thức khuya dậy sớm, hành hạ xác thân để mong trở thành thanh tịnh, nếu trong tim óc của người ấy còn đầy chất độc tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến… làm cho người đó lúc nào cũng cuồng loạn. Chẳng phải vì những ngoan cố, khát vọng, tin nhảm, hiểu lầm, không theo chính đạo mà con người trở thành ô trược”. (Kinh Pháp Cú).

6.- “Chính con phải tự cố gắng đi trọn con đường của con. Ta chỉ là người hướng đạo chỉ đường cho con đi mà thôi”. (Kinh Pháp Cú).

7.- “Cúng dường vô số Phật không bằng cúng dường cho một người Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng. (Kinh Tứ Thập Nhị Chương).

8.- “Niệm vô niệm niệm, Hành vô hành hành, Tu vô tu tu, Chứng vô chứng chứng”. (Niệm đến chỗ không niệm mới là chân niệm. Làm đến chỗ không làm mới thật là làm. Tu đến chỗ không tu mới là chân tu. Chứng đến chỗ không chứng mới thật là chứng). (Kinh Tứ Thập Nhị Chương).

9.- “Này, Thiện nam tử, phải biết rằng các pháp đều bình đẳng và bất hoại diệt. Thân, Tâm và Ngã, Pháp, Sinh tử và Niết bàn đều như Không hoa. Ở trong hành giả không có tạo tác và đình chỉ. Ở quả tu không có thủ xả và đắc thất. Rốt ráo không có Năng, Sở, khứ lai, sinh diệt. Có như thế mới nhập được vào Phật đạo. (Kinh Viên Giác).

10.- Kinh Trường A Hàm có câu: “Tâm mang thế gian đi, Tâm dẫn thế gian lại, Tâm là căn bản của các pháp. Tâm sai khiến mọi sự mọi vật. Tâm nghĩ thiện thì hành động thiện, Tâm nghĩ ác thì hành động ác, hạnh phúc theo tâm như bóng theo hình”.

11.- Kinh Tâm Địa Quán có câu: “Phật pháp của ta lấy tâm làm gốc, và muôn pháp ở thế gian này đều do tâm sinh ra cả”.

12.- Kinh Hoa Nghiêm, một bộ kinh đặc biệt bàn nhiều về chữ tâm có những câu:

Tâm như công họa sư,

Họa chủng chủng ngũ ấm.

Nhất thiết thế gian trung,

Vô pháp nhi bất tạo !

13.- “Tâm, Phật, cập chúng sinh, thị tam vô sai biệt”.

14.- “Tức Tâm tức Phật”.

15.- “Nhất thiết duy tâm tạo”.

16.- “Tất cả các pháp của ta chỉ như ngón tay để chỉ mặt trăng, chớ nên lầm ngón tay là mặt trăng”. (Kinh Viên Giác).

17.- “Tâm thanh tịnh, thế giới thanh tịnh. Tâm nhiễm ô, thế giới nhiễm ô”.

18.- “Nhất thiết chúng sinh cụ hữu Như Lai trí tuệ đức tướng”.

19.- Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q 27) có câu: “Nhất thiết chúng sinh tất hữu Phật tính”.

20.- Và Tổ Huệ Năng dạy:

Bồ đề chỉ hướng tâm mịch,

Hà lao hướng ngoại cầu huyền”.

21.- “Phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ đề”.

22.- “Phải xoay ngược luồng nhãn quang về phía nội tâm mà tìm chân lý, vì chân lý không ở ngoại cảnh”.

23.- “Lòng còn mải nghĩ tới sự giác ngộ thì khó vượt được mọi mê mờ. Nguồn gốc của sự tỏ ngộ ở tâm thì nên tìm nguồn gốc đó ở bên trong, chớ đừng phí công kiếm sự tỏ ngộ ở ngoài mà đưa nó vào trong”.

24.- “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”.

25.- “Đừng nghĩ đến Thiện, đừng nghĩ đến Ác, trong lúc ấy mới hiện rõ “bản lai diện mục của mình”.

*

 

Hầu hết các kinh điển của Đại thừa Phật giáo đều chú trọng đến tâm con người. Cái tâm ấy bừng sáng lên trong mỗi bộ kinh Phật, xuyên qua bức màn danh ngôn, sắc tướng.

Từng ấy mẩu ánh sáng gom lại đủ tạo thành một bó đuốc chân lý sáng ngời dạy tôi phải tựa nương vào tâm mình để giải quyết mọi vấn đề khó khăn ở đời, và tôi có cảm nghĩ rằng Đức Tin là điều quan trọng và thiết yếu đối với người học đạo, nhất là đối với người Phật tử còn sơ cơ.

Đức Tin là mẹ của mọi công đức và phát sinh ra mọi hạnh lành. Trong tôn giáo, đức Tin mang tính chất siêu hình và siêu việt biên giới của suy tư. Trừ một số ít người sống trong chủ nghĩa hoài nghi, buông thả không định hướng và phủ nhận giá trị thiêng liêng của tâm linh thì đức Tin là điều kiện cần thiết cho người tầm đạo muốn sống một cuộc đời hướng  thượng, hữu ích.

* Trong Tín, Nguyện, Hạnh thì Tín là đức tính căn bản, hướng dẫn người tu tiến bước trên đường đạo giải thoát. Nhờ có đức Tin mà ta cố gắng phát huy trí tuệ và bồi dưỡng đạo đức, tạo thiện nghiệp cùng phát tâm vô thượng Bồ đề.

Chúng ta an tâm trước mọi thử thách và vượt qua mọi chướng ngại trên đường hành đạo. Thiếu đức Tin thì thiếu quả quyết, dũng cảm và nhẫn nại, ta sẽ ngần ngại trước sự thử thách, do đó việc tu dưỡng tâm linh của ta sẽ giảm phần hiệu năng. Nhưng đức Tin ấy cần phải lành mạnh và được soi sáng bằng trí tuệ Bát Nhã để trở nên một đức Tin sáng suốt và kiên cố, nếu không nó sẽ trở thành mê tín đưa người vào vòng tà đạo. Ta phải lấy đức Tin để soi sáng, tránh cho đức Tin khỏi trở thành cuồng tín, mới không lạc vào mê mờ, hành động mù quáng sai lầm.

Và kết quả của những đêm suy tư quán tưởng về vấn đề niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh độ đã đưa tôi đến những nhận định sau đây:

 

CHƯƠNG 4

NHẬN ĐỊNH VỀ NGHI VẤN: CÓ HAY KHÔNG CÓ ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ VÀ CÕI TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC ?

 

Bởi căn cơ của chúng sinh cao thấp không đều, tính tình uỷ mị cứng rắn khác nhau, nên Phật mới phải dùng đủ mọi phương tiện, mượn cái hữu hình để chỉ cái vô hình, mở quyền chỉ thực, vị thực thi quyền, lập ra 48.000 pháp môn, xây dựng vô số thành trì giả để đưa tới một thành trì cho đó là thực, rốt cuộc thành trì mà mọi người tưởng là thực này, lại bị phá huỷ nốt vì đó vẫn chỉ là ảo ảnh phù du. Đại thừa Phật giáo trong Bát Nhã Tâm Kih đã dạy cách phá vỡ các ảo ảnh về chủ thể (ngã) và phá luôn cả cái ảo ảnh về đối tượng (pháp), để từ đó con người nhận định về Thức tại một cách trung thực hơn. Cái ảo ảnh to lớn nhất và khó phá nhất là ảo ảnh về chân lý tuyệt đối, về một đấng thiêng liêng và về một cõi Niết bàn hay Thiên đường vì đó là khát vọng ngàn đời và khắp nơi, cũng là chỗ tựa nương cuối cùng của con người đau khổ vốn ít tin tưởng vào tài sức của mình trước sự huyền vi và sức cuồng bạo của thiên nhiên.

Trong suốt quá trình lịch sử của nhân loại, con người lúc nào cũng cố gắng nối liền cái hữu hạn của đời người với cái vô cùng bất tận của không gian và thời gian. Cũng vì thế mà Phật hay Chúa đã ngự trị trên cuộc đời cơ cực, và Niết bàn, Tịnh độ Thiên đường đã dựng lên trên cõi sình lầy, gai góc, đầy bất hạnh này. Có bờ bên này đối diện với bờ bên kia. Cực lạc với Ta bà, giải thoát và trói buộc, buồn thương và hạnh phúc, hữu và vô… Đức Thích Ca Mâu Ni, Tổ Huệ Năng… và Khrisnamurti là những vị đã thoát ly khỏi cái ảo ảnh và khát vọng đó, đã siêu lên trên mọi trói buộc, để chẳng còn gì phải khát vọng nữa. Bờ bên này sở dĩ có, vì có cái ảo tưởng về sự hiện hữu của bờ bên kia. Sự thật thì giải thoát và trói buộc, Tịnh độ và Ta bà, nhân quả và phi nhân quả, tất cả những cặp mâu thuẫn trong thế giới tương đối, nhị nguyên, đều chỉ là những danh từ để chỉ những sự vật giả có, giả không, những khái niệm của ý thức so đó mà tôi. Trên đường siêu thoát, người tu phải từ bỏ dần dần cho đến thực hết những gì mình có ở đời, tương tự như người lữ hành đi trên con đường thiên lý phải vứt bỏ ở dọc đường những gì mang theo để đỡ cồng kềnh, nặng nhọc, vinh hoa, phú quý, từ bỏ hình hài của mình, cho đến cả những cảm xúc, tư tưởng của mình nữa. Và ngay cả những gì mình đã lượm được ở dọc đường tu giải thoát của nền giáo lý Phật dạy mà ta nâng niu, gìn giữ như hạt kim cương vô giá, cũng phải coi như những phương tiện chỉ cần thiết cho từng giai đoạn tu hành, như những nhịp cầu hoặc chiếc bè để qua sông, khi đã tới bờ bên kia rồi thì nhịp cầu hay chiếc bè phải để lại. Ngay cả ông lái đò đã chở mình qua sông (là Đức Phật) cũng phải từ giã nốt, để còn phải cất bước liên tục lên đường thiên lý làm nhiệm vụ hành đạo, có như thế mới là chân giác ngộ. Vì Thể của Tâm vốn “không tịch” nên không thể trụ vào tướng mê ngộ được. Cái “Hữu” bị cái “Không” vô hiệu hoá, đến lượt cái “Không” lại bị cái “Bất không” phá huỷ để cho lý trung đạo hay “Chân không diệu hữu” tỏ bày. Người quen nếp sống suy luận, nhị nguyên nặng đầu óc phân biệt cho rằng các cõi Tịnh độ, Niết bàn, là nơi hư ảo, không thật có, nhưng người có tâm vô phân biệt, quen nếp sống trực giác, tâm linh, hiểu rõ năng lực của đức Tin và Tâm thành, lại cho là các cõi Tịnh độ và Ta bà đều thực có, và chỉ là một, không hai.

Là một Đạo Sư dày kinh nghiệm, Đức Phật Thích Ca đã dẫn chúng sinh đi từ thế giới khách thể hữu hình đến thế giới bản thể vô hình, rồi lại phủ nhận cả hai thế giới hữu hình lẫn vô hình, phá cả hai bên đối đãi để hiển lộ cái lẽ phi hữu phi vô, diệc hữu diệc vô, hay cái lý Bất nhị trong thế gian, nhất nguyên vô phân biệt. Mục đích của Phật là cứu vớt chúng sinh thoát khỏi khổ đau trong tam giới, đưa tới một nơi lý tưởng Cực lạc, Niết bàn, nhưng cảnh giới cực kỳ sung sướng là Tịnh độ, Niết bàn kia chẳng phải là đâu xa lạ, mà chính lại vẫn là cảnh giới của tâm, ai ai cũng có, vốn vô sở đắc. Thế mới hay mất công bôn ba tìm kiếm khó nhọc khắp nơi, nhưng lại thấy ở nơi thật gần, ngay ở thân mình và rốt cuộc chỗ đến của lối tu tiệm ngộ theo Sự cũng là chỗ đến của lối tu đốn ngộ theo Lý. Sự chẳng khác Lý, chỉ không giống nhau ở căn cơ và hành trì siêng năng hay giải đãi mà thôi. Còn chấp Có, chấp Không, chấp Sự chấp Lý là còn mê muội và mang tâm phân biệt, chia rẽ, do đó còn bị trói buộc, khổ đau. Cũng như chứng bệnh của loài người có nhiều, lại phải có đủ mọi thứ thuốc để điều trị. 84.000 pháp môn Phật dạy, pháp môn nào cũng tuyệt diệu cả, vì có công năng trị bệnh cho loài người đến tận gốc, nhưng xét ra chỉ có hai loại là Pháp tướng và Pháp tính hay Hữu môn và Không môn đưa người tu đến toà nhà Như Lai. Khi đã tới nơi rồi thì Tướng cũng như Tính, Sự cũng như Lý, Sắc tức là Không, Tương đối tức Tuyệt đối, Hữu vi cũng như Vô vi, đường lối tuy khác nhau, nhưng cũng tụ tại một điểm là Chân Không, Chân Như, Chân Tâm, Phật tính. Pháp Tướng và Pháp Tính thoạt tưởng là độc lập khác nhau, nhưng thật ra lại bất dị, tương thành. Chúng nương lẫn nhau, tương tức tương nhập, cũng như điện âm và điện dương tưởng là tương khắc, huỷ diệt nhau, nào ngờ chúng lại kết thành một dòng điện âm dương đun đẩy tiếp nối nhau để tạo thành một dòng điện âm dương đơn thuần. Pháp tướng nhờ vào hình tướng giả bề ngoài và cái Dụng để phô bày cái Thực tướng bên trong, hay cái Thể Chân Không của các pháp. 

Người học đạo bước đầu còn dựa vào sắc tướng âm thanh, cậy vào Tha lực nhờ đó mới cởi bỏ được phiền não, nhiễm ô ở trong lòng. Pháp Tính nương vào tự lực của người tu nhiều hơn. Hành giả thu thúc lục căn, quán sát tâm mình, không lưu ý tới ngoại cảnh, cố gắng dứt bỏ chúng sinh tính, diệt trừ tận gốc tham, sân, si để tâm trở nên thanh tịnh.

Cái đích của cửa Không cũng là cái đích của cửa Hữu, giống nhau ở điểm phải thanh lọc những ác tưởng để tâm trở nên hanh khiết, pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thần diệu vì nó có sức thu hút mọi giai tầng tín đồ Phật gioá, từ bậc thượng lưu trí thức đến hàng thất học hạ căn, từ người nhàn rỗi đến kẻ bận việc, bất cứ đi, đứng, nằm, ngồi, đang làm công việc gì cũng có thể niệm Phật được cả. Pháp môn đó thoả mãn được mọi Phật tử, người nặng tình cảm và tín ngưỡng, nương vào Tha lực thì tu theo Sự tướng, lối tiệm tu, người có ý chí tự cường, tin ở tài sức của mình thì tu theo Lý tính, lối đốn ngộ. Nhưng dù theo Sự hay Lý, tin hay không tin có Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc, cũng có thể đạt được kết quả như nhau là diệt trừ phiền não và tâm được an vui, nếu cùng siêng năng hành trì theo con đường tu của mình đã chọn.

Điểm đặc sắc của pháp môn Tịnh độ là người tu theo Sự tướng, không hiểu về Lý, chỉ chuyên cần niệm Phật A Di Đà với Nhất Tâm bất loạn, cũng đạt được mục tiêu là trở về với Chân Tâm thanh tịnh của mình, y như người rành về Lý. Vì khả năng thu hút của pháp môn Tịnh độ và để thoả mãn cung nhằm vào mục tiêu có lợi cho đủ mọi hạng người không thể trả lời dứt khoát là Có hay Không có Đức Phật A Di Đà, và Có hay Không có cõi Tây phương Cực lạc, bởi lẽ nếu nghiêng hẳn về một bên, vừa không hài lòng bên kia, lại mắc vào lỗi Biên kiến, ngả và Có thì chấp Tướng, nghiêng về Không thì chấp Tính, bị lạc vào ngoan không. Bởi lẽ mọi pháp trên thế gian này đều chẳng thật có, chẳng thật không, chẳng phải hư, chẳng phải thực, nên đối với câu hỏi Có hay Không có Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc, không thể đứng trên lập trường trí thức thuần tuý, nghiêng về Lý, đóng khuôn trong hình thức nhị nguyên mà trả lời Có hoặc Không dứt khoát, mà chỉ có thể đứng trên lập trường tâm linh, trong khuôn khổ nhất nguyên mà trả lời: Có và Không, - Cũng Có và cũng Không, hoặc chẳng phải Có và chẳng phải Không. Bởi lẽ Có chẳng khác gì Không, Không chẳng khác gì Có, Có tức là Không, Không tức là Có theo Bát Nhã trí.

Đối với người theo Sự, không hiểu về Lý, còn phải dựa vào Tha lực mà nuôi dưỡng tinh thần họ. Nhưng đối với ai tu đã lâu năm mà quen thói ỷ lại, cứ bám vào hình tướng, không chịu dưỡng tính tu tâm mà không chịu tin ở tự lực của mình thì cần phải trả lời là Không có.

Ở đây chúng ta nên nhớ tới lời Tổ Huệ Năng khuyên các đệ tử cách trả lời mỗi khi có người hỏi về những sự việc có tính cách đối nghịch. Tổ nói: “Hễ ai nghiêng về Có, phải lấy Không để đáp lại. Hỏi Thánh thì lấy phàm, hỏi phàm thì lấy Thánh để đối đáp, như vậy giữa hai thái cực Có, Không, Thiện, Ác… nảy sinh lý Trung Đạo hay Bất Nhị bao trùm cả hai bên, có như thế mới khỏi mắc vào lỗi thiên kiến cực đoan.

 

CHƯƠNG 5 

NHẬN ĐỊNH VỀ VẤN ĐỀ ĐỚI NGHIỆP VÃNG SINH 

Điểm nghi vấn Có hay Không có đới nghiệp vãng sinh cũng được giải đáp tương tự như nghi vấn: Có hay Không có Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc.

Để trấn an những tâm hồn yếu đuối, đức tin không vững, và ngại mình phúc mỏng nghiệp dầy tạo nhiều quả ác, thì mong gì được dự phần hưởng phúc ở cõi Cực lạc Tây phương để chung sống với các bậc Hiền, Thánh. Về điểm này Cổ Đức có dạy: Phàm là chúng sinh ai cũng phải mang nghiệp vào thân, chẳng nặng thì nhẹ, không ai thoát khỏi nghiệp báo, do đó đừng nên thắc mắc về nhân quả, luân hồi. Cũng ví như mây đen bao phủ bầu trời, đến khi gió thổi thì mây đen liền tan, hoặc gian phòng đang tối, bỗng đèn điện bật sáng thì bóng tối biến liền. Cảnh mây đen và bóng tối chỉ là hư ảo, cũng như vô minh tạm thời che khuất Chân Tâm, chẳng phải là cảnh thật, vì đã gọi là thật thì vĩnh viễn cứ như thế mãi không hề đổi thay. Đèn điện và gió thổi có khả năng xua đuổi bóng đen thì ánh linh quang của trí tuệ cũng có khả năng phá tan vô minh phiền não, cho nên chẳng sợ mang nghiệp vào thân mà chỉ cần lo gieo nhân lành thật nhiều, và chuyên tâm thành kính niệm danh hiệu Phật A Di Đà để tới khi lâm chung quen việc niệm Phật.

Hễ nuôi dưỡng Tín Tâm cho vững và thực hành được từ 1 đến 10 niệm thanh tịnh trong lúc hấp hối cũng đủ để Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn về quốc độ của Ngài. Cũng ví như người phải vác một tảng đá lớn lội qua sông trong cơn phong ba thì khó bề tránh khỏi thuỷ tai, nhưng nếu người ấy lại được chuyên chở bằng thuyền bè, tượng trưng cho Tha lực của chư Phật thì dù phải mang nặng hàng tấn đá vẫn ung dung ngồi vững trên thuyền lướt sóng bình yên trong cơn giông bão, chẳng tổn hơi sức. Đó là lý của những người tu theo Sự, tin ở Tha lực và thuyết Đới nghiệp vãng sinh. Đối với người không hiểu về Lý thì tất cả mọi hiện tượng tâm, vật lý đều thực có, như vậy thì nghiệp báo sao lại chẳng có. Nhưng đối với người đã hiểu chân lý lại tin rằng: Xác thân này hư giả, vô ngã, vọng tâm lại điên đảo, vô thường thì nghiệp báo sao lại có được ? Đó chỉ là vấn đề nhân duyên giả sinh, giả hợp mà thôi, vậy chẳng cần phải lo ngại. Vì thế mà tâm họ lúc nào cũng an nhiên tự tại. Họ chẳng sợ quả báo mà chi lo không gieo được nhân lành. Họ hiểu rằng: nhân quả là luật thiên nhiên, có vay thì phải trả. Họ tìm mọi cách vượt lên trên nhân duyên để được giải thoát. Cũng như khi con người đã hiểu rõ luật thiên nhiên thì không làm điều gì trái luật thiên nhiên, lại còn biết lợi dụng sức mạnh của thiên nhiên để chế ra nào là tàu thuỷ, tàu ngầm, thuyền buồm… để di chuyển dưới nước, vượt biển rộng; nào là khinh khí cầu, phi cơ, hoả tiễn để đi trên không, vượt trời cao; nào là máy in, máy điện tín, điện thoại, máy chữ… để thông tin xa nhau hàng vạn dặm, nhờ đó mà thu ngắn được khoảng cách, nối liền quá khứ, hiện tại, vị lai. Con người thời nay, nhờ trí thông minh của mình đã đạt được ngũ thông và đã trở thành khổng lồ, có sức bay nhanh hơn chim, lặn sâu hơn cá, vác nặng hơn voi, chạy nhanh hơn thỏ, nghe được suốt lục địa, nhìn thấu các vật vô hình, lại có sức phá rừng, lấp biển, xuyên núi, chặn đứng các thác nước cuồn cuộn đổ xuống từ cao…

Đứng trước nghiệp và khổ đau, con người có hai cách để vượt qua:

1.- Một là đối diện với nghiệp và khổ đau để tìm hiểu nguyên nhân sinh ra nghiệp trong thân, khẩu, ý để tìm cách tiêu diệt những nhân tố ấy. Đó là thái độ áp dụng trong Tứ Diệu Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

2.- Hai là đối diện với nghiệp khổ đau, nhưng không chống lại chúng theo lối ăn miếng trả miếng, mà lại dùng Nhẫn Nhục, như một thế võ Nhu đạo, mượn cái đà của chúng để tiêu diệt chúng. Nói cách khác, khi khổ đau và nghiệp tấn công, ta không chống cự lại mà lợi dụng thế võ “Nhu thắng cương, nhược thắng cường”, lấy Nhẫn nhục ba la mật để đối phó lại. Cũng như khi quân giặc đến tấn công nếu ta đem quân ra chống cự lại, ắt phải tổn thất nhân mạng, đổ máu nặng nề, nhưng nếu ta lại bỏ ngỏ thành áp dụng chiến thuật “vườn không, nhà trống” thì quân giặc không giết hại được gì cả. Dùng nhẫn nhục để đối phó thì tính nhẫn nhục của ta được tôi luyện thêm sắc bén, ta chịu đựng khổ đau mà không kêu ca, sân hận thì ta phá được Ngã chấp, Pháp chấp, đắc quả Vô sinh Pháp nhẫn. Khi đã không sân hận oán thù thì không gây thêm nghiệp ác mới nữa, ta đình chỉ được luật nhân quả và đạt được Chân Tâm, Phật tính của mình.

Bởi vì khi trực diện với nghiệp và khổ đau thì chúng chỉ tác dụng trên con người giả của ta mà thôi, nghĩa là chúng chỉ làm cho thể xác và tinh thần hay cái thân ngũ uẩn giả hợp này bị ảnh hưởng, chứ tuyệt nhiên chúng không thể tác hại đến phần tinh thần là Chân Tâm, Phật tính của con người thật (Chân Ngã) của ta được. Những ai đã hiểu rõ luật nhân quả đều biết rằng: nghiệp với ta là một. Nghiệp chính là mình, vì ai muốn tạo nghiệp gì tuỳ ý. Không ai thoát khỏi nghiệp, bởi nghiệp gắn liền với tư tưởng và hành động của con người. Còn suy tư là còn nghiệp, chẳng dữ thì lành. Họ không sợ nghiệp và khổ đau, vì biết rằng có nghiệp mới có Giải thoát, có phiền não mới có Bồ đề. Không bị khổ đau, không vượt qua nghiệp chướng, tất không thể nào siêu thăng. Giải quyết những mâu thuẫn của trí thức như thế nào thì cũng giải quyết vấn đề nghiệp báo như thế. Trí sai biệt và phân biệt được giải quyết bằng trí Vô sai biệt và Vô phân biệt, thì nghiệp cũng được giải quyết bằng Phi nghiệp. Đau khổ và nghiệp là duyên lành tạo niềm an lạc cho tâm hồn, cũng như đoá sen thơm ngát mọc lên từ bãi sình lầy hôi tanh.

Theo nghĩa thông thường thì nghiệp là luật nhân quả tự nhiên, nhưng dưới cặp mắt của người đạt đạo quen sống với lý Bất Nhị thì nghiệp tức là phi nghiệp. Giữa mê và ngộ, nghiệp không tác động như nhau. Trong lúc người mê không ngớt than thân trách phận về nghiệp quả nặng nề, thì người ngộ lại không cảm thấy gánh nặng của nghiệp đè lên vai mình. Tuy cùng đeo nghiệp như nhau, nhưng họ lại không để ý đến nghiệp, bởi thế, tâm họ luôn thanh thản. Họ không xoá bỏ luật thiên nhiên nhưng tuỳ thuận thiên nhiên mà sống, đồng nhất với thiên nhiên trong cảnh tự tại vô ngại. Nghiệp dù có đến, họ thản nhiên chịu hậu quả của nghiệp như để trả một món nợ đã đáo hạn cho xong. Người đạt đạo trong hoàn cảnh đau buồn, dĩ nhiên là biết nhưng dường như không biết, bởi vì người này đã ẩn mình trong tính “Không”, nên mới giải thoát khỏi đau buồn. Người ấy cũng cảm xúc như ai, nhưng họ hiểu rằng, không ai tránh khỏi luật nhân quả, phải lấy tính nhẫn nhục để che cho thân mình. Đó chẳng phải là trạng thái tinh thần trơ như gỗ đá, cũng chẳng phải là ươn hèn, nhưng chính là tự độ, tự giác để giác tha. Bởi vì theo luật biến hoá của vọng tâm sinh diệt, thì khi người ta đau buồn thường hay sinh ác tưởng. Để thoả mãn ác tưởng phải tăng thêm nghiệp ác, cho nên người tu hạnh đầu đà, nhẫn nhục, tạm ẩn trong tự tính thanh tịnh Niết bàn để ngăn ác tưởng không cho phát sinh. Đó là một việc làm khó, đòi hỏi phải đi ngược dòng sinh của ác tưởng. Nhờ công phu tu tập của pháp Từ, Bi, Hỷ, Xả mới dẹp được mầm ác manh nha và an tâm vào tình trạng khách quan thanh tịnh. Đó là một cách để diệt khổ được vui, làm mất hiệu lực của luật nhân quả. Con người cũng có thể vượt qua nghiệp bằng cách chuyển Nghiệp thành Nguyện. Cũng như con người, khi đã biết rõ luật thiên nhiên thì tìm cách lợi dụng sức mạnh của thiên nhiên, vượt qua nó để phục vụ cho hạnh phúc của mình. Tâm tạo nghiệp thì tâm cũng giải được nghiệp. Có chuyển được nghiệp, cắt đứt mối giây nhân quả mới khỏi bị nghiệp trói buộc. Cứ phát ra những lời đại nguyện thanh tịnh, chân chính, vị tha, rồi cố gắng thực thi những đại nguyện ấy thì chẳng còn sợ nghiệp báo, Nhân quả nữa.

“Bất lạc nhân quả, bất muội nhân quả” khác nhau chính là ở điểm này. Do đó, những người này không tin thuyết “Đới nghiệp vãng sinh”, và đối với câu hỏi: “Có hay không có đới nghiệp vãng sinh ?” Cũng như với câu hỏi: “Chúng sinh Có hay Không có Phật tính ?”, thì có thể trả lời: “Có và Không”, “Cũng Có và cũng Không”, hay “Chẳng phải Có, chẳng phải Không”, hay “Chẳng phải không có, chẳng phải Không không có”. Tiện đây, tôi xin kể lại câu chuyện rất quen thuộc đối với đa số người trong đạo Phật:

Một bữa, một người hỏi Thiền sư Triệu Châu:

- Bạch Hoà thượng, con chó có Phật tính không ?

Ngài đáp: Không.

Người này lại hỏi:

- Kinh Pháp Hoa có nói: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính”, cớ sao con chó lại không có Phật tính ?

Ngài đáp:

- Bởi vì Vô minh che lấp Chân Tâm, nên nói: Không. Con chó không thấy Phật tính của nó, cho nên tuy nó có Phật tính mà cũng coi như nó không có vậy.

Bữa khác, có người lại hỏi Thiền sư Triệu Châu:

- Bạch Hoà thượng, con chó có Phật tính không ?

Ngài đáp: Có

Người ấy gặng hỏi:

- Nếu có Phật tính, sao nó lại phải đội lốt chó ?

Ngài đáp:

- Bởi vì đã biết là có Phật tính mà nó còn hành động theo lối súc sinh, nên mới phải đội lốt chó. Cũng như người có kiến thức mà lại cư xử thiếu nhân cách, không sống theo nhân đạo thì phải đoạ kiếp chó và đội lốt thú chứ sao ?

Như vậy, ta thấy rõ: “Tuỳ theo căn cơ và tính tình của người đặt câu hỏi mà phải trả lời lúc Có, lúc Không về cùng một vấn đề, âu cũng là phương tiện để người nghe giải mê, khai ngộ”.

 

CHƯƠNG 6 

NHẬN ĐỊNH VỀ MỘT SỐ QUAN NIỆM SAI LẦM THÔNG THƯỜNG CỦA NGƯỜI THỜI ĐẠI.

 

Xin lưu ý quý vị về mấy điểm sai lầm thông thường sau đây của người thời đại:

Mục 1: Thuyết nhị nguyên.

Với đường lối thuần lý của triết học và khoa học Tây phương đặt cơ sở trên luận thuyết “Cogito ergo sum” của Descartes thì đa số người Tây phương hiện nay vẫn còn quen nhận thức cuộc đời theo đường lối Nhị nguyên. Thậm chí họ còn đặt ra nguyên tắc “Bài trung” (Principe du Tiers exclu) để đánh đổ chủ nghĩa “nửa vời”.

Theo họ thì việc dời đổi chẳng thế nọ cũng thế kia, chẳng tốt thì xấu, chẳng đúng thì sai, chẳng đen thì trắng, nếu Có thì tất chẳng phải là Không. Họ cho rằng: mọi hiện tượng trong trời đất đều thật có, bởi vì cái gì cũng rõ ràng, sờ sờ ngay trước mắt. Theo biện chứng: Tôi tư duy, vậy thì tôi hiện hữu, cho nên phải có Ta, có Người, có Sinh, có Diệt, có Vật, có Tâm… quyền lợi mâu thuẫn sinh ra tranh chấp, chứ không thể có tình trạng nửa vời, chẳng trắng, chẳng đen, chẳng thiện, chẳng ác, chẳng đúng, chẳng sai, chẳng không, chẳng có, mờ mờ ảo ảo. Khi nào trí óc của con người còn đi theo con đường mòn nhị nguyên xưa nay, thì kết quả không sao tránh khỏi là phải phủ nhận hoặc chấp nhận dứt khoát, và như thế là rơi vào thế đối lập, chia rẽ, phân biệt bạn và thù. Phật giáo chủ trương: Chỉ khi nào không khẳng định cũng không phủ định, và sống trong sai biệt - vô sai biệt, và phân biệt - vô phân biệt, thì lúc đó mới đạt tới Thực tại tuyệt đối.

Nhưng gần đây đã thấy xuất hiện trên thế giới một số Triết gia và Khoa học gia tân tiến, lên tiếng cảnh cáo đường lối thuần lý của nền Triết học và Khoa học ở thế kỷ XIX như Heidegger, Nietztsche, Kierkegard, Dostoiewsky. Những vị này đã can đảm nhận thấy những khuyết điểm của quan niệm xưa kia, nhìn đời bằng con mắt thị phi, phân biệt rành rẽ, vì sau nhiều cuộc thử nghiệm trong lãnh vực Điện tử, họ đã đi sâu vào một thế giới lạ lùng ở đó chẳng phải là sự, chẳng phải là tâm, mà chỉ là một hệ thống chằng chịt, trong đó quan niệm thông thường về vật chất tan biến như mây khói. Nếu coi Điện tử là nền tảng của vật chất như các vật thể khác thì nó lại không có khối lượng vật chất khi nó ở thể loãng, bất động, trái lại nó lại năng động. Họ đâm ra lúng túng không biết nên đặt Điện tử vào khu vực vật chất với danh hiệu là Lượng tử hay Chất tử (Corpuscule de matière) hay cho nó vào hàng ngũ Năng lực (tinh thần) với danh hiệu là Ba động của Tinh lực (Onde d’énergie) bởi vì nó gồm đủ cả tính của vật chất lẫn năng lực, vừa là Vật vừa là Tâm. Rốt cuộc, buộc lòng người ta phải tạm đặt cho nó danh từ là Lượng tử Ba động (Onde Corpuscule) để chỉ cho một Thực tại nghịch lý phi vật chất, phi tinh thần ấy.

* Theo thuyết Tất Định hay Định Mệnh của La Place cho rằng: “Không có gì ngoài vật chất cả, và mọi hiện tượng trong vũ trụ đều do vật chất sinh ra”, biến hoá theo luật nhân quả, do đó có thể đoán định được tất cả những gì sẽ phải xảy ra. Nhưng tới năm 1927, nhà bác học Đức Heisenberg đã chứng minh cho thế giới thấy rằng nguyên lý Tất Định hay Định Mệnh an bài không thể áp dụng trong thế giới Điện tử được nữa, và không sao biết trước được vị trí và tốc độ của Điện tử ra sao cả. Hơn nữa các Khoa học gia ngày nay không còn dám tự hào là mình đã dùng cặp mắt và khối óc khách quan để quan sát ngoại vật như thường lệ nữa, mà họ đã phải thú nhận rằng những đặc tính của Lượng tử hay Chất tử đều do trí óc chủ quan của họ tạo nên, chứ thật sự thì các vật này không có những đặc tính riêng biệt, độc lập đối với trí óc của người quan sát (L’electron ne possède pá de propriétés indépendantes de mon esprit - trích tài liệu Tham luận tại cuộc toạ đàm ở Cordoue, Tây Ban Nha, năm 1979, về đề tài Sciece ét Conscience - Khoa học và Tâm thức).

Nói khác đi, thì họ phải công nhận rằng trong lãnh vực cực vi thì chủ thể quan sát không tách rời khỏi đối tượng được quan sát, và như vậy thì khoa học ngày nay cũng đi tới nhận thức giống như của Long Thọ Bồ tát trong Phật giáo Đại thừa ở thế kỷ thứ II dương lịch là: Phi hữu phi vô, diệc hữu diệc vô, tức là pháp môn Bất Nhị hay tâm vật nhất như, mà lời nói của loài người khó diễn tả nổi. Phật giáo cho rằng: Các pháp đều do nhân duyên giả sinh, giả diệt, và bản chất của chúng vốn Vô tự tính. Các pháp không tự nhiên có, phải do tương quan với những cái không phải nó mà có, nên sự Có ấy là Giả có. Có khái niệm về Sinh vì có khái niệm về Diệt. Sự mâu thuẫn giữa Có, Không, Sinh, Diệt đưa đến một tổng đề Phi Có Phi Không, Phi Sinh Phi Diệt hay Bất Nhị, nhưng trong cái Bất Nhị vẫn ngầm chứa cái Nhị đối lập với nó. Cứ như thế, một pháp luôn luôn hàm chứa một pháp khác, mâu thuẫn với nó. Từ đối nghịch, mâu thuẫn đi tới một tổng đề, vẫn hàm chứa một mầm mâu thuẫn mới, nằm trong giới hạn của khái niệm, danh từ Tổng để cứu cánh phải là Thực tại tuyệt đối vượt ra ngoài tính chất tương đối, so đo của ngôn ngữ, khái niệm.

Hiểu rõ lý nhân duyên trùng điệp sẽ phá tan được những cặp mâu thuẫn nhị nguyên và những khái niệm nhị biên để đạt tới Chân lý tuyệt đối, không còn tranh luận hão huyền nữa. Thấu triệt lý nhân duyên tức đi tới thể Không tịch, phá vỡ được Ngã chấp, Pháp chấp và đạt tới chân trời Chân Không Diệu hữu.

Lý nhân duyên chuyển được sự thúc phọc thành sự tự do. Trong các Kinh điển của Đại thừa Phật giáo chủ trương Chân Không - Diệu Hữu đều hàm chứa lý đó như: Vô tận trùng trùng duyên khởi trong Kinh Hoa Nghiêm, Thực tướng quan trong Kinh Pháp Hoa, Chân như quan trong Khởi Tín Luận và Tịnh độ quan trong Kinh A Di Đà và Kinh Vô Lượng Thọ.

Phật giáo chủ trương phá chấp triệt để nào là chấp Có, chấp Không, chấp Thường, chấp Đoạn, chấp Ngã, chấp Pháp, vì với xu hướng Nhất Nguyên hay tinh thần Bất Nhị, đạo Phật đã đạt chân lý tuyệt đối viên dung, không còn bị vướng mắc vào lỗi lầm nào cả. Muốn được như vậy, người Phật tử học đạo phải gột sạch óc phân biệt nhị nguyên, từ bỏ mọi ràng buộc vào Có, Không, Thường, Đoạn, và không chấp vào danh từ, để thấy được Thực tại toàn diện và nhất quán, một Thực tại thoát lý cả Có lẫn Không, vượt khỏi mọi khái niệm, siêu việt trên lãnh vực của hình, danh, sắc, tướng, ở ngoài nhận thức chủ quan, tương đối.

Muốn được như vậy thì người học đạo phải rời bỏ mảnh đất thuần lý của khoa học và triết học cổ điển, lỗi thời mà dấn thân vào cảnh giới tâm linh, tức là vượt qua lý trí để trực quán thực tại nguyên thuỷ của tâm, siêu lên mọi phân biệt tỷ giảo của triết học và khoa học nhị nguyên, chỉ thấy Thực tại trong Tỷ lượng một cách méo mó, thiên lệch, làm cho Chủ và Khách, Tâm và Cảnh đối đầu nhau đưa tới tình trạng phân ly, vị kỷ, cố chấp mà không thấy được chân lý “Vạn vật đồng nhất thể”, “Chúng sinh giai hữu Phật tính”, “Ta là Người, Người là Ta, bình đẳng vô phân biệt và vô sai biệt”. Người giác ngộ sống với lý Bất Nhị, thấy rõ thực tướng của các pháp đều Không, Vô tướng, Vô tác, thấy rõ tính cách ảo ảnh phù du của ý thức và giác quan là đầu mối của vô minh, đã bóp méo và cắt xén thực tại, làm cho con người bị mù quáng và khổ đau, và thấy được tính cách trong sáng của sự vật ở đời, khi đã từ bỏ được nhận thức thiên lệch để thấu triệt được thực tại phổ quát, đại đồng, và khi ấy thì phá được hàng rào ngăn cách Chủ và Khách, Tâm và Cảnh để không còn yêu ghét, khổ đau nữa. Muốn tiến tới điểm đó thì không thể đi theo đường lối của Lý trí suy luận, phân biệt và phải bằng trực giác tâm linh và Đức Tin lành mạnh, tức là bằng Thiền quán và Niệm Phật, Chính mê vọng tạo ra cảm giác, nguồn gốc của khổ đau, đưa tới ác tưởng và hành động sai lầm. Đó là mục đích mà Phật ra đời để khai thị cho chúng sinh ngộ nhập vào tri kiến Phật của mình và thấy được Thực tại toàn chân.

Mục 2: Hư vô chủ nghĩa.

Thà nghiêng về phía chấp Có, khẳng định có Đức Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc, rồi thành kính tin tưởng vào Tha lực và chuyên cần niệm danh hiệu Phật A Di Đà, cầu mong tha thiết được đới nghiệp vãng sinh về quốc độ của Ngài, còn hơn là ngả về phía chấp Không, phủ nhận cõi Tịnh độ Tây phương, chẳng chịu chăm lo gieo nhân lành, vun trồng cội đức, không tin có Tha lực để rồi chẳng chịu khó niệm Phật, mất Tín Tâm thành người vô đạo.

Lý “Đệ Nhất nghĩa Không” hay “Nhất thiết giai Không”, trên mặt bản thể của đạo, và thuyết “Tất cả mọi sự vật đều thực hữu trên mặt hiện tượng” là hai bộ mặt của một Thực tại toàn diện gồm đủ cả Tính lẫn Tướng, Thể và Dụng. Sống trong thế gian dù biết là mê vọng, giả dối, nhưng ta vẫn phải sống hết mình, làm tròn sứ mạng của ta, để cuộc đời mình được thăng hoa tiến bộ về mọi mặt. Ta không thể khư khư ôm giữ mãi lý “Không” trong giấc ngủ mê man siêu hình, hoặc khoanh tay ngồi nhìn thiên hạ, sống ngoài vòng cương toả, mà phải tích cực hoạt động làm lợi ích cho đời, có như thế mới hiểu rõ mối liên hệ mật thiết giữa pháp Không và pháp Có, giữa Tuyệt đối và Tương đối, giữa Chân Ngã và Giả Ngã, giữa Phật thừa và Nhân thừa.

Câu nói: “Tự tính Di Đà, duy tâm Tịnh độ” có nghĩa là ngoài bản tính của ta thì không có Phật A Di Đà, và ngoài tâm mình thì không có cõi Tịnh độ. Đó là trạng thái tuyệt đối của bản thể Chân Tâm khi đã chứng ngộ được lý “Chân Không Diệu Hữu”. Đây là cảnh giới hư vô tịch tĩnh của bậc chân nhân khi đã phá vỡ được xiềng xích của Ngã chấp và Pháp chấp. Đối với người thường, còn phải dầy công tu luyện khi chưa đạt tới bậc thang đó, còn phải tập đi lần từng bước ngắn và thấp cho khỏi vấp ngã, dựa vào Tướng, Dụng của các pháp phương tiện để thân chứng được “Đệ Nhất nghĩa Không”. Nếu chẳng tự lượng sức mình, cứ nhắm mắt bắt chước những bậc thượng căn, học đòi hành theo lý “Đệ nhất nghĩa không” ngay từ lúc mới chập chững bước vào cửa đạo là một việc làm tối nguy hiểm. Bởi vì hành động của người đạt đạo đã chứng “Đệ nhất nghĩa Không” là hành động của người theo lý “Tri hành hợp nhất”, còn đối với kẻ chưa am hiểu lý “Đệ nhất nghĩa Không”, cái gì cũng cho là không cả, ngả theo Hư vô chủ nghĩa, thì chẳng khác nào người khờ dại, phải lội qua sông khi chưa biết bơi đã vội phá huỷ cây cầu nối liền hai bờ, hay không chịu dùng thuyền bè để qua sông. Khi ta còn ở trong vòng tương đối, chưa ngộ được lý “Đệ nhất nghĩa Không”, thì còn phải dựa vào sắc tướng, nương vào âm thanh để tiến tu từng bước đầu. Mỗi bậc tu có những quả sở đắc riêng, nếu công phu nội chứng của hành giả chưa đạt tới trình độ chín muồi thì không thể bảo rằng: Tâm Cảnh đều không, năng sở đều tịch, do đó cảnh Cực lạc Tây phương cùng Phật A Di Đà  là những đối tượng cần thiết để nương tựa mà tiến tu cho tới giải thoát cứu cánh. Chỉ khi nào triệt thấu được chân tướng của các pháp là Phi hữu, Phi vô, diệc hữu diệc vô, mới khỏi bị mắc kẹt vào gọng kìm Có, Không của thế tục, nghĩa là không còn ở trạng thái “hiệp giác bội trần”, cũng chẳng “hiệp trần bội giác”. Pháp Có chẳng ràng buộc nổi mình nên không còn bị phiền não quấy rối, mà pháp Không cũng chẳng lôi kéo nổi ta, do đó mới ung dung thành tựu được mọi lợi ích cho đời. Người chấp Hữu có thể dùng môn thuốc “Không” để trị cho lành bệnh, còn người chấp Vô, lạc vào Hư vô chủ nghĩa thì nguy hiểm vô cùng, vì đó là một chứng bệnh nan y khó chữa. Trong lục độ ba la mật thì Trí Bát nhã là phần cốt tuỷ cần phải đạt tới mới mong được giải thoát. Lý Bát Nhã Chân Không là một liều tiên dược đối với ai thiên về sự tướng, nhưng lại là một liều độc dược giết người đối với ai không biết cách sử dụng nó. Tỷ như người hành đạo mà coi thường giới luật, cứ sát sinh, uống rượu, ăn thịt, nói năng bừa bãi, rồi viện lẽ “nhất thiết giai không” để biện minh cho việc làm càn bậy của mình thì phải đoạ địa ngục nhanh như tia chớp. Những ai đã hiểu lý “Chân Không” một cách chân chính, biết buông thả vọng duyên thì tu pháp môn nào cũng đạt tới “Tam Luân Không tịch”, phá được Ngã và Ngã sở, lìa hết các pháp để tới chỗ “Hành vô hành hạnh”, “Tu vô tu tu”, thì lý Bát Nhã quả là Thánh dược lợi ích vô cùng.

* Quan niệm về “Không” biểu thị giá trị siêu việt của thực tại, thoát ly mọi nhận thức chủ quan thiên lệch. Đó cũng là tư tưởng tích cực nhập thế giúp ta không sợ khổ đau để ung dung tiến bước trên đường hành đạo Bồ tát, với đôi giày Nhẫn nhục và Tinh tiến. Nhưng muốn đạt tới Chân Không là bản thể của các pháp người học đạo phải băng qua chặng đường dài chấp Hữu, cũng như muốn đạt tới địa vị Vô học, phải học đủ các pháp môn, nghiên cứu đủ Tam tạng kinh điển để không còn gì phải học nữa, rồi dùng pháp Xả để tùng Tướng nhập Tính. Nhờ quán tưởng và Thiền định lâu ngày, nhờ tư duy sâu sắc người tu hành thấy rằng, dù ở nội tâm hay ở ngoại cảnh, không có cái gì trường tồn vĩnh cửu, bất biến, cũng không có tự ngã trong mọi dòng hiện tướng, do đó người tu loại bỏ được mọi khuynh hướng ích kỷ, tham luyến, đắm say, sống với toàn thể vũ trụ bằng trái tim tràn đầy tình thương bao la, không tham sống, không sợ chết, vui vẻ đợi sự giải thoát đến với mình để tiếp tục một cuộc sống tươi đẹp hơn ở kiếp sau.

Mục 3: Tri phải Hành

Biết tức là Hành, Hành tức là Biết. Biết cặn kẽ đến ngọn nguồn tức là Giác ngộ. Giác ngộ và Hành động triệt để theo sự hiểu biết viên mãn của mình tức là thành Phật.

Phật học và khoa học giống nhau ở điểm chung là Tri Hành hợp nhất. Sau khi hiểu rõ lý thuyết thì nhà khoa học đi ngay vào thực nghiệm, cũng như người học Phật đem giáo lý Phật dạy ra thực hành ở đời.

Không bao giờ có Tri lại thiếu Hành vì đạo Phật là một đạo thực tiễn, không ưa lý luận suông, nhất là đối với pháp môn Tịnh độ. Bản ý của Phật là muốn cho chúng sinh thoát khổ được vui nên Phật mới dùng phương tiện niệm Phật A Di Đà để chúng sinh gieo những hạt giống tốt lành vào tâm hồn của mình, cốt để an tâm dưỡng tính diệt trừ mầm ác cho tâm trở nên thanh tịnh an vui. Không cần xét xem Có hay Không có cõi Tây phương Cực lạc rồi mới niệm Phật A Di Đà, bởi vì biết như vậy chẳng lợi ích gì, mà còn làm mất thời giờ dùng để niệm Phật và giảm Tín Tâm cần phải nuôi dưỡng để mỗi ngày thêm vững mạnh hơn chỉ cần niệm Phật cho chuyên, cho thuần là đủ, rồi kết quả đạt được, tuỳ ý muốn của hành giả, hoặc được tâm thanh tịnh ở hiện tại, hoặc được về thế giới Cực lạc Tây phương trong vị lai, đều diệt trừ được phiền não, tâm được tự tại cả. Vấn đề Tịnh độ, Niết bàn, Chân tâm, Phật tính thuộc về bản thể siêu hình chỉ cảm thấy mà không thể chỉ bày hay lý giải bằng giác quan, ngôn ngữ của người thế gian mà phải thể nghiệm bằng trực giác và chấp nhận bằng đức Tin tuyệt đối. Tuy không thể chỉ bày những thứ đó bằng mắt bằng tay được, bởi vì chúng không có sắc tướng, nhưng đó lại là một thực thể thường hằng, hiện diện khắp không gian và thời gian. Khi nào Chân Tâm hiển lộ thì Phật A Di Đà mới xuất hiện tại tâm. Đức A Di Đà mà ta thấy được là Phật của tâm ta, do đó mới bảo là Tự tính Di Đà, duy tâm Tịnh độ. Khi nói đến duy tâm, tự tính thì phải hiểu đó là chân tâm thanh tịnh và Phật tính sáng suốt bất sinh bất diệt của mình, không phải là cái tâm tà vọng bất tịnh, giả hợp, giả hoại của ta. Cầu được thấy Đức Phật kia tức là cầu được thấy chân tâm, tự tính của mình. Mong được vãng sinh Cực lạc thế giới tức là mong được thấy những đức tính thanh cao quý báu của ta. Đó là ý nghĩa câu kinh “Tức Tâm tức Phật” và “Tức thân thành Phật”.

Vấn đề Có hay Không có Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc chỉ là nghi vấn của hạng người sơ cơ thiên về Lý bỏ Sự, tín tâm không vững, hoặc của những học giả mang tâm phân biệt, nhị nguyên, chỉ muốn thoả mãn tính đa nghi mà thôi, chứ đối với bậc tu hành chân chính đã luyện được tâm bình đẳng, Bất nhị, thì càng đi sâu vào đường đạo lại càng gột rửa được tâm phân biệt nhị nguyên bấy nhiêu. Những ai đã đi sâu vào đạo lý thì tín tâm sáng suốt vững mạnh, hết lòng tin lời Phật dạy và họ hiểu rằng Phật không bao giờ nói sai lời, dối gạt ai bao giờ và mọi thắc mắc, hoài nghi đều có hại cho đức tin. Do đó ta thấy những bậc tu chứng cao, những vị cao Tăng thạc đức chưa từng vị nào thắc mắc hoài nghi về vấn đề hiện hữu hay không hiện hữu của Phật A Di Đà cả. Chắc hẳn các Ngài không muốn gieo mối hoài nghi có hại, thoái chuyển những người mới vào đạo, tín tâm chưa vững. Các Ngài dạy rằng: hãy cứ Tin Sâu, Nguyện thiết và Niệm Phật A Di Đà với tâm bất loạn, rồi muốn cầu gì cũng sẽ được toại nguyện. Đó là một lời dạy bảo thiết thực đầy ý nghĩa: Tri Hành hợp nhất mới được giác ngộ, giải thoát thành Phật.

 

CHƯƠNG 7

NHẬN ĐỊNH VỀ NGHI VẤN: LỜI PHẬT VÀ LỜI TỔ DẠY CÓ MÂU THUẪN NHAU KHÔNG ?

 

Phật dạy: “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết”. Phật lại dạy: “Y pháp bất y nhân. Y nghĩa bất y ngữ. Y trí bất y thức. Y liễu nghĩa kinh bất y bất liễu nghĩa kinh”. Người học đạo, khi đọc tụng kinh điển phải hiểu ý Phật muốn dạy gì qua lời kinh. Muốn khỏi hiểu lầm Phật, phải xét xem Phật đã đứng về phía tục đế của quảng đại quần chúng trong thế giới lưỡng nguyên tương đối đầy phân biệt và sai biệt, hay đứng về phía Chân đế trong thế giới bình đẳng nhất nguyên vô sai biệt và vô phân biệt. Khi Phật thuyết về Viên giáo hay Chân lý tuyệt đối, Không hai thì bao nhiêu cặp mâu thuẫn trên thế gian này đều bình đẳng như nhau: Phật, Chúng sinh, Niết bàn, Ta bà…, bao nhiêu những pháp phương tiện đều chỉ có giá trị phù du, ảo ảnh. Có khi Phật dùng ngôn thuyết pháp, lấy những vật hữu hình để dẫn dắt chúng sinh thâm nhập vào thế giới vô hình của Chân Không. Lại có khi Phật dùng vô ngôn hay tâm truyền tâm để đi vào đạo. Đối với từng hạng người, căn cơ cao thấp khác nhau, tính tình uỷ mị, sắt đá bất đồng, Phật tuỳ nghi nói pháp để trả lời lúc Có, lúc Không về cùng một vấn đề. Có hiểu được lời nói của Phật mới mong thoát khỏi mắc vào sai lầm đáng tiếc.

Một buổi, một đệ tử hỏi Phật về vấn đề Có hay Không có Niết bàn ? Phật đáp: “Không có Niết bàn, cũng chẳng có sinh, tử nốt”.

Thấy vậy, người đệ tử sửng sốt hỏi tiếp:

- Bạch Đức Thế Tôn, nếu vậy thì trì giới tu Thiền, giữ gìn phạm hạnh và cầu được tri kiến Phật, chẳng có chút lợi ích gì sao ?

Lúc đó Phạm Thiên Vương lên tiếng đáp thay Phật, và nói:

- Này ! Thiện nam tử, kẻ ngu muội muốn lẫn tránh hư không, chạy khắp Đông, Tây, Nam, Bắc và bốn phương bàng đâu đâu cũng gặp hư không. Còn người đi tìm hư không mà chẳng biết hình tướng của hư không ra sao chạy lùng khắp nơi mà chẳng thấy hư không đâu cả, rốt cuộc chỉ tốn công vô ích.

Kẻ cầu Niết bàn cũng vậy. Người ấy hàng ngày thường sống trong Niết bàn mà chẳng biết Niết bàn ở đâu cả. Họ thường sống ở trong Niết bàn mà không biết Chân Thể của Niết bàn ra sao. Bởi thương chúng sinh phải sống trong trần lao sinh tử nên Phật Thích Ca mới chỉ cảnh giới Cực lạc Tây phương để đối lại với cảnh giới Ta bà, mong gợi lòng ham thích được sống ở nơi hạnh phúc yên vui mà chán ghét cõi khổ đau này. Nhưng muốn được sinh về cõi Cực lạc Tây phương phải đâu dễ dàng mà cần phải có đủ ba điều kiện là Tín, Nguyện, và Hành, nghĩa là phải Tin lời Phật dạy, phải thiết tha cầu nguyện được về nơi này và phải nhất tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà, tức là phải tự mình gắng sức đem những chủng tử lành gieo vào A lại da thức làm cho tâm mình dần dần trong sạch. Ta nên hiểu mật ý của Phật ở đây là muốn thấy hạnh phúc thì phải tìm ở nội tâm không ở ngoại cảnh, nghĩa là phải diệt trừ tận gốc những dục vọng điên cuồng khiến cho cõi lòng mình được trong sạch, chính đó là Niết bàn, Tịnh độ, nơi tạo ra hạnh phúc chân chính đời đời. Đức Phật Thích Ca đã nhằm về phía quần chúng, phần đông căn cơ thấp kém, không hiểu thế nào là Phật tính, chân tâm, nên Ngài mới khuyên chúng sinh nên hướng về hưởng hạnh phúc, nhưng cõi Cực lạc đâu phải là ở nơi xa lạ, mà chính lại là cái tâm thanh tịnh của mình, và Đức Phật A Di Đà lại chính là Đức Phật của ta, hay chính là ta khi đã giác ngộ.

* Đối với Tổ Huệ Năng thì đối tượng của Ngài khi giảng về vấn đề này lại là những đệ tử, phần đông là Thiền sinh đã hiểu ít nhiều thế nào là Chân Không, Chân Như, Phật tính, nên Tổ mới khuyên họ là phải “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”.

Phương pháp của Tổ Hụê Năng là dạy người đời phải xa lìa đối tượng, từ bỏ quan niệm lưỡng nguyên, đi sâu vào bản thể, sống với lý Bất Nhị, vì theo đó thì phiền não tức Bồ đề, chúng sinh tức Phật, niệm trước còn mê muội là phàm phu, niệm sau giác ngộ liền thành Phật. Niệm trước còn dính cảnh trần thế còn phiền não, niệm sau lìa trần cảnh thành Bồ đề.

Tổ nói: “Tâm con người đã là Phật rồi, còn hồ nghi gì nữa ? Bởi vì kinh Phật có nói: “Tâm sinh chủng chủng pháp sinh. Tâm diệt chủng chủng pháp diệt”. Muốn thành Phật hay muốn có Trí Bát Nhã phải đạt tới chỗ “Nhất hạnh và Nhất tướng Tam muội”. Nếu ở trong bốn oai nghi, bất luận ở đâu và lúc nào cũng giữ cho tâm thuần nhất, không trụ vào đâu cả và thực hành Tịnh độ, như thế gọi là Nhất hạnh và Nhất tướng tam muội. Ngài có làm bài kệ khuyên chúng sinh như sau:

Yêu ghét chẳng quan tâm,

Duỗi dài hai chân nằm.

…Đối cảnh, Tâm nhiễu động,

Bồ đề làm sao lớn ?

Chủ trương của Tổ Hụê Năng khuyên người đời hướng vào nội tâm để thành Phật, nào có gì mâu thuẫn với lời giáo huấn của Đức Thế Tôn ? Có khác chăng chỉ là ở chỗ Tổ Hụê Năng đã dùng lời nói thẳng để chỉ vào cái đích mà Đức Phật Thích Ca cũng ngầm mong chúng sinh tiến tới, nhưng Phật lại không muốn nói thẳng ra vì sợ có người không hiểu, hoặc hiểu mà lại ngại khó không dám theo. Vì thế mà Phật đã phải dùng những pháp quyền để chỉ thực, “dĩ huyễn độ chân”, nhằm vào cái tâm đầy ngã dục của người không hiểu thế nào là Phật tính, chân tâm nên Ngài mới khuyên chúng sinh nên hướng về cõi Cực lạc cầu Phật A Di Đà để được hưởng hạnh phúc tuyệt vời ở Tây phương, cách xa cõi trần hàng vạn ức Phật độ, ai muốn được sinh về nơi ấy thì phải dốc lòng tin, cầu nguyện được về cõi đó, và cố gắng niệm Phật A Di Đà, sẽ được Ngài phóng quang tiếp dẫn. Thực ra theo lý Bất nhị thì cõi Tây phương Cực lạc chỉ là tâm của người giác ngộ và Phật A Di Đà chỉ là Phật ở trong tâm của người đó thôi.

Tổ Huệ Năng khi nêu lên thuyết “kiến tính thành Phật” chẳng hề có bài bác tín ngưỡng của môn phái Tịnh độ, cũng chẳng hề có ý muốn đề cao Thiền tông tối thượng thừa và hạ thấp môn phái Tịnh độ do Thích Ca đề xướng, chẳng qua chỉ muốn thức tỉnh những ai quá thiên về Sự trụ tâm vào hình tướng Phật và cảnh Cực lạc mà quên hẳn tâm mình chính là Tâm Phật và tính mình là Phật tính, vì thế mà không hiểu được ý nghĩa lời Phật dạy, chỉ biết niệm Phật cầu vãng sinh mà chẳng biết vãn hồi Phật tính, không biết minh tâm kiến tính để thấy Phật tại tâm mình.

* Vậy “Kiến tính” là gì ? Kiến là nhìn thẳng. Tính là cái tính thấy biết của mình. Kiến tính là nhìn thẳng vào lòng mình. Đó là phương pháp “hồi quang phản bản” hay “Nội quán” để quan sát tự tâm, dùng toàn lực tinh thần (lý trí và tình cảm) làm đối tượng cho ý thức của mình. Bởi vì những hiện tượng tâm lý có tính cách chủ quan, ngoài mình ra không ai thấy được nên sự thấy biết ở đây phải là trực tiếp, không bằng căn trần, giác quan hay suy luận, mà bằng Tụê nhãn của chân tâm. Muốn thấy Phật tính của mình cần phải thấy bản tính hay cái tính bẩm sinh thanh tịnh trong con người mình bấy lâu bị vô minh tà kiến phiền não và sở tri làm chướng ngại, nay được sáng tỏ tức thời. Sự trực giác đó không đến lần lần và tuần tự trong suy tư phân biệt. Từ chỗ trực ngộ đó, ta có một nhãn quan đổi mới hẳn cuộc đời mình, làm cho ta xử kỷ tiếp vật theo đúng chân lý. Nhìn thẳng vào lòng mình thì lòng mình là đối tượng và tính thấy biết của mình là chủ thể. Ta tự đối diện với ta. Ta soi vào gương lòng để nhìn thấy rõ bộ mặt thật xưa nay của mình, hay thấy rõ lương tâm ta. Lúc đó thì Năng Sở, Chủ Khách, Tâm Cảnh, người hát và kẻ nghe hát chỉ là một. Khi ta nhìn thẳng vào lòng mình, lắng đọng mọi suy tư, không để cho vọng niệm buồn, thương, yêu, ghét dấy lên, ta chợt nhận thấy tính mình là tính Phật, và bộ mặt xưa nay của ta cùng với sắc diện quang minh của Phật không khác. Rất tiếc là xưa nay chúng ta vẫn quen phóng luồng nhãn quang ra phía ngoài để ngó cảnh vật mà không hướng nó về phía nội tâm. Ta mải đuổi theo những hiện tượng bên ngoài mà quên mất Đức Phật vẫn ngự trị trong lòng mình. Điều quan trọng là phải biết trở về Giác tính hay Tự tính Di Đà của mình. Lấy trí tuệ để soi sáng sự vật mà không phải mượn nguồn ánh sáng hay bàn tay nào để soi hộ mình cả. Phải cầm đuốc mà soi đường đời hay đường đạo mà đi. Đó là giác ngộ tại tâm hay trở về với bản tính thanh tịnh của ta. Đó là Trực giác Đốn ngộ, nhờ tự lực quán chiếu. Khác hẳn lối tìm sự giác ngộ ở ngoài tâm hay Tiệm ngộ, nhờ vào Tha lực và sùng tín. Muốn Kiến tính phải làm bừng sáng cái đức sáng sẵn có của mình, hay cái Tính năng biết của ta, và nhìn đời trực tiếp theo nghĩa Kiến (     ) chứ không gián tiếp theo nghĩa chữ Thị (     ) mang đầy tính chất phân biệt, thị phi. Đó là phương pháp tu để được giải thoát rốt ráo, trong một Sát na, trừ sạch các vọng niệm và làm bừng sáng cái tâm Chân Như vô sở trụ và vô sở đắc, hay làm hiển lộ Trí Bát nhã của mình.

* Tâm con người tựa như biển cả, nổi sóng không ngừng, khó bề Kiến tính để thấy được Tự Tính Phật hay Chân Tâm của ta. Muốn Kiến tính phải Định Tâm an thần bằng sức mạnh tập trung của ý chí vào nội giới, không để cho ý thức buông lung phóng ra ngoài và phân tán năng lực tinh thần qua cửa ngõ của các giác quan. Sự chuyển hướng luồng nhãn quang từ ngoài vào trong là cả một công phu tu luyện lâu dài, bền bỉ, đòi hỏi phải có sự quyết tâm của hành giả để tự thắng mình.

Khi ta suy nghĩ, ta biết lần hồi theo đà của suy luận. Cái biết đó là tiệm biết. Khi ta Thấy (Kiến    ) ta thấy rõ tất cả trong một sát na bừng sáng, hoặc chẳng thấy gì, chứ không thể thấy lần hồi được. Cái Thấy đó là thấy Đốn. Tổ Hụê Năng dạy phương pháp “Kiến tính thành Phật”, tức là nhắm vào cái Thấy đó. Đối với Lục Tổ thì: hoặc là thành Phật hẳn, hoặc là không thành Phật, chứ không thể có việc thành Phật lần hồi, mỗi ngày một chút theo lối cải thiện hay Tiệm tu. Với Kiến tính thì Lý chẳng ngoài tâm, Lý là Sở ngộ mà tâm là Năng ngộ (Kiến phần) và Phật sở ngộ (Tướng phần) là một. Giác ngộ là thấy rõ chân tướng của sự sống chết trong thực tế, ở ngay lúc hiện tiền và ngay đây chứ không phải đâu xa và trong tương lai. Cõi Tịnh độ ở tâm của người giác ngộ không còn phân biệt nhân ngã, tâm cảnh nữa, tức là ở trạng thái sinh hoạt bình thường ngay tại đây và ngay lúc này, ý thức được rõ ràng công việc của mình đang làm, tức là ở trạng thái chính niệm vậy.

* Để giúp các đệ tử đả thông tư tưởng về Phật tính hay Tri kiến Phật của mình, các Tổ Sư Thiền thường dùng câu thoại đầu: “Bính Đinh đồng tử lai cầu hoả” (Bính, Đinh là hai cung Hoả trong Tử vi). Ý muốn nói: Thần lửa lại còn đi xin lửa, để chế diễu những ai còn si mê, lòng đầy tự ty, tự khinh mình không có khả năng thành Phật.

Cũng như người cầu đạo cứ cầu xin người khác chỉ đạo cho mình, chẳng ngờ mình đã sẵn có đạo nơi mình rồi, mình đã có Phật tại tâm, còn đi kiếm Phật ở nơi khác.

* Trong Thiên Chúa giáo cũng có câu mang ý nghĩa tương tự: “Đạo ở bên ngươi. Đạo ở trong miệng và trong lòng ngươi, để ngươi có thể đem nó ra mà thực hiện…” (…Car la Parole est tout près de toi pourque tu la mettes en pratique… (Bible de Jérusalem).

* Và theo quan niệm của Nho gia Trình Y Xuyên thì người quân tử hành đạo phải thực hành cho được mục tiêu sau đây: Không phải là truyền đạo trời cho người, mà là truyền đạo của lòng mình cho người. Cũng không phải là truyền đạo của lòng mình cho người mà là truyền đạo của lòng người cho người”. Có nghĩa là phải khai mở đạo tâm hay chỉ bày Tri kiến Phật hoặc Phật tính sẵn có nơi mỗi cá nhân để cho ai nấy đều thấy rõ mình là Phật sẽ thành, mình là Phật đang thành.

* Mỗi chúng ta đều có hạt Như ý bảo châu tức là Phật tính hay Tri kiến Phật, một kho tàng vô giá mà ta không biết khai thác. Muốn tìm Phật hay cõi Tịnh độ phải biết tìm trong đáy lòng mình, bởi vì:

Liên Tâm đã sẵn trong đầu

Niết bàn chớ có tìm đâu ngoài lòng.

(B.S. Nguyễn Văn Thọ)

Để diễn tả cái ý Phật tại tâm, ngoài tâm không có Phật, trong vườn hoa Thiền có bài thơ truyền tụng như sau:

Tùng hạ vấn đồng tử

Ngôn: Sư thệ dược khứ

Chỉ tại thử sơn trung

Vân thâm bất kiến xứ.

(Dịch: Dưới gốc tùng hỏi đồng tử. Đồng tử thưa: Thầy tôi nói là đi hái thuốc. Chỉ quanh quẩn núi này mà thôi, nhưng bởi mây phủ nên không thấy). Đại ý nói: Chúng sinh đi tìm Phật. Phật chẳng ở đâu xa, chỉ ở ngay tâm mình, nhưng vì chúng sinh bị vô minh che lấp chân tâm nên không thấy mà thôi. Phải tìm sự giải thoát ở ngay cái hiện hữu, không ngoài sự vật ở thế gian, và đạo là Tự nhiên hay tâm bình thường vậy. Người hành đạo phải vượt lên trên cái bình thường tương đối để tới cái Phi thường tuyệt đối, nhưng khi đã đạt tới đó rồi, lại phải từ nơi tuyệt đối phi thường trở về với cái bình thường tương đối nghĩa là phải tìm cõi Phi thường trong những cái bình thường tìm cái Vô hạn trong những cái Hữu hạn, tìm cõi Tịnh độ ở ngay chốn Ta bà, hay ở ngay trong tâm ta. Đó là cái mà Thiền tông cho là từ trong đạo lý bình thường mà minh tâm kiến tính vậy.

Tổ Huệ Năng dạy:

Phật Pháp tại thế gian,

Bất ly thế gian, giác

Ly thế mịch Bồ đề,

Khắp như cầu thố giác.

Nếu lánh thế gian mà tìm sự giác ngộ thì khác nào đi tìm sừng thỏ, lông rùa khắp nơi ? Với nhãn quan đó thì “thấy” ở đây tức “thấy cái không thể thấy được”. Thấy cái “không thấy” tức là thấy cái Chân tướng Vô tướng, hay Chân Như hoặc Chân Không của vạn pháp.

Cái thấy về thể tính chân tâm vốn vô sinh, cho nên không có sự phát sinh ra cái thấy ấy. “Kiến tính thành Phật” tức là thấy cái chân lý “Không” của mọi sự vật trong trời đất một cách viên mãn tuyệt đối.

* Người đời thường không làm theo những điều mình nói, chỉ ham học hỏi mà biếng nhác việc tu hành, có biết đâu đã có Tịnh độ duy tâm thì phải có Tây phương Cực lạc thế giới, và khi có Di Đà tự tính, tất phải thân chứng được Di Đà Tây phương. Trong khi niệm Phật ta đình chỉ được mọi tạp niệm và thể nhập vào chỗ thâm viễn của tâm thể thì ngay lúc đó ta là Phật A Di Đà và tâm ta là cõi Cực lạc theo lý “Tức thân thành Phật”.

* Pháp môn Tịnh độ viên mãn ở chỗ tỏ ngộ được “Phật khác tức là Phật mình”. Nếu chỉ biết có “Phật mình” thì còn ngã kiến, ngã chấp. Nếu chỉ thấy có “Phật khác”, là còn tha kiến, vọng ngoại. Chấp tha kiến hay chấp ngã kiến, chấp ngoại cảnh hay chấp nội tâm, đều là nhị biên điên đảo. Phải nên hiểu rằng: Phật Di Đà ở Tây phương và Phật Di Đà trong tâm ta không khác, như thế mới là tỏ ngộ câu: “Phật tức Tâm, Tâm tức Phật”, và mới thấy rõ lý: Phải có sự trì danh, cầu Phật khác hiện ra, mới ngộ được lý trì danh, thấy được “Phật mình” hiển lộ. Chính trong lúc ta thấy Phật A Di Đà và Thánh chúng hiện ra đón mình là lúc ta thấy Phật mình hiện rõ trong tự tâm.

Tất cả các pháp môn Phật dạy dù thuộc về Tính hay Tướng đều chỉ là phương tiện, giá trị ngang nhau, nghiêng về phía nào cũng đều có hại. Lối tu không thấp, không cao, mau, chậm. Sự sai biệt do công phu của người hành trì, tinh tiến chuyên cần hay biếng nhác giải đãi mà thôi. Có những người thiên về Lý mà xao lãng công phu niệm Phật, bởi họ đã lầm lẫn Chân đế với Tục đế, không phân biệt được Dụng với Thể, Tương đối với Tuyệt đối, còn đang lẽo đẽo trên đường tu và đã muốn tới ngay nơi cứu cánh giải thoát rồi. Họ có biết đâu rằng: học đạo cần phải dầy công thực tu thực chứng, qua nhiều giai đoạn trong Tục đế mới chứng được Chân đế, chứ đâu phải là công việc dễ dàng.

Trong Kinh Kim Cương, Phật dạy ông Tu Bồ Đề:

Nhược dĩ sắc kiến ngã,

Dĩ âm thanh cầu ngã,

Thị nhân hành tà đạo,

Bất năng kiến Như Lai.

… “Như Lai giả, vô sở tòng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai”, và “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”… “Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai”. Rồi Phật lại dạy tiếp ông Tu Bồ Đề trong tiết “Vô đoạn vô diệt” của Kinh Kim Cương: “Ông đừng tưởng rằng Như Lai không dùng sắc tướng để cầu đạo quả Vô thượng Bồ đề bởi vì nếu khởi ra ý nghĩ đó tức là coi các pháp đều đoạn diệt cả”, và trong bài Chú Bát Nhã Tâm Kinh cũng có câu: “Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố” nhưng liền ngay đấy Phật lại dạy: “Tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa. Đắc A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề”. Qua những câu kinh trên, ta thấy ngay rằng: người tu cần phải trải qua nhiều giai đoạn chứng ngộ liên tiếp trong Tục đế, dựa vào hình, danh, sắc, tướng của các pháp phương tiện trong hiện tượng giới để lần hồi, tòng tướng nhập tánh, đem Dụng vào Thể, từ tương đối tiến đến tuyệt đối, tới nơi không còn gì để chứng ngộ nữa, như thế mới thật là chứng ngộ.

Mục 4: Chân đế và Tục đế.

Lời Phật dạy trong các kinh điển thường mang hai ý nghĩa: nghĩa bóng và nghĩa đen, nghĩa sâu và nghĩa cạn, còn gọi là Chân đế (Thắng nghĩa đế) và Tục đế. Tương đương với hai thứ hiểu biết, giác ngộ hoặc hai nền chân lý Tuyệt đối và Tương đối của thế gian.

Người Phật tử tuy sống trong tương đối song phải biết hướng về Tuyệt đối để tâm được thanh cao, thoát khỏi tầm thường vị kỷ và tìm hạnh phúc chân thật ở nơi tâm hồn an lạc, vị tha, siêu thoát.

a) Tục đế. Có thứ giác ngộ gián tiếp của trí thức là tập, hay cái thấy biết của hạng người “học nhi tri chi”, do tiệm tu, dùng tinh tiến, nhẫn nại, gom góp tư lương qua nhiều kiếp tu tập, tuy đó chưa phải là giác ngộ hoàn toàn nhưng cũng không phải là vô giá trị.

Thứ hiểu biết này đưa tới chân lý tương đối hay Tục đế của hạng người căn cơ từ bậc trung trở xuống, và phân làm ba loại:

1.- Khẳng định về sự thực hữu của mọi sự vật trong hiện tượng giới.

2.- Khẳng định về cả Hữu lẫn Vô.

3.- Không khẳng định cũng không phủ định cả Hữu lẫn Vô.

b) Chân đế - Có thứ hiểu biết trực tiếp do Đốn ngộ mà được. Đó là thứ giác ngộ hay hiểu biết của hàng vô sư tự ngộ, hay của bậc “Sinh nhi tri chi”. Nếu cái biết trên (tục đế) còn khiếm khuyết thì cái biết dưới (chân đế) hoàn toàn viên mãn của Bát Nhã trí có giá trị siêu việt đưa tới chân lý tuyệt đối. Cái biết mà không tự nó sinh ra tất cả phải nhờ con đường Tha lực của tín ngưỡng hay hành động cầu phúc để đi tới dần dần từng bước, và khi Tuệ giác đã bừng thức tỉnh thì tín ngưỡng lùi bước, nhường chỗ cho Tuệ giác viên chiếu. Tín ngưỡng và cầu phúc được ví như cái chốt điện dùng để bật cho sáng. Khi đã có ánh sáng điện rồi thì chốt điện không cần đến nữa, cũng như đã giác ngộ thành Phật thì mọi pháp phương tiện đều trở thành vô ích. Việc học Phật, lúc đầu còn phải dùng đến tín ngưỡng để đưa tới chỗ hiểu biết tầm thường chưa chính xác, lấy cái giả Trí. Tâm còn mang nặng phân biệt ta và người, tâm và cảnh, yêu và ghét, ác và thiện, có và không… trong thế giới lưỡng nguyên tương đối. Muốn đạt tới Chân trí hay Giác ngộ hoàn toàn thì Tín chưa đủ mà còn cần phải có thực nghiệm tâm linh bằng công phu Thiền quán nữa, và ở trong đó thì chủ thể đồng nhất với đối tượng. Tâm và vật, hữu và vô chỉ là một. Bản thể đồng nhất ấy vừa tiềm tàng trong hiện thực, lại vừa siêu lên trên hiện thực. Giác ngộ bằng đường lối trực giác tâm linh đưa tới nền chân lý tuyệt đối hay Chân đế, ở đó có ba bậc:

1.- Khẳng định về Vô Hữu.

2.- Phủ định cả Hữu lẫn Vô.

3.- Không không khẳng định và không không phủ định cả Hữu lẫn Vô.

Ở bậc thấp thì Hữu thuộc về Chân lý Tương đối và Vô thuộc về Chân lý tuyệt đối.

Ở bậc trung cả Hữu lần Vô đều là Chân lý Tương đối. Phi Hữu, phi Vô, diệc Hữu diệc Vô thuộc về Chân lý Tuyệt đối.

Ở bậc cao hơn thì Nhị nguyên hay Nhất nguyên cực đoan đều là Chân lý Tương đối, mà không phải là Nhị nguyên, cũng không phải là Nhất nguyên mới là Chân lý Tuyệt đối. Nhận Sinh Tử và Niết bàn đều thật có là rơi vào cực đoan Tương đối hay Tục đế. Phủ nhận cả hai quan niệm Chân đế và Tục đế. Niết bàn và Sinh Tử là ở trong Chân lý Tuyệt đối của Trung đạo. Nhưng cả hai đều Có và Không. Tục đế và Chân đế là cực đoan, cần phải xa lìa, nếu ta còn chấp vào đó, mà ngay cả quãng giữa (Trung đạo) cũng cần phải xả ly nốt, bởi vì lý Trung đạo còn ở trong thế giới của ý niệm và danh từ. Ý niệm về Trung đạo sở dĩ Có vì ý niệm về Có và Không, hai cực đoan phải tránh, như vậy thì Trung đạo, chưa phải Tuyệt đối cao. Đã là ý niệm thì chưa phải là Tuyệt đối vì Chân lý Tuyệt đối tối cao ở ngoài vòng của ý niệm, Chân lý tối cao hay Trung đạo mà không có ý niệm được thì cũng không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, văn tự được.

c ) Tương đối và Tuyệt đối.

Nếu bảo rằng thế giới hiện tượng không có thì quả là không đúng, bởi vì những giác quan của ta không cho phép ta chấp nhận một nhận thức như vậy. Theo lý Tuyệt đối thì vạn hữu đều không thật có, hay đều giả cả, nhưng theo lý Tương đối và mối tương quan giữa vật này và vật kia thì vạn hữu đều có, bởi lẽ hiện tượng giới sờ sờ ngay trước mắt ta, song nó lại chẳng trường tồn, bất biến mà chỉ là giả tướng sinh diệt từng sát na đổi thay thất thường, không có tính cá biệt bền vững. Thế giới hiện tượng biến động ảo ảnh phù du là do thế giới tính bản thể Chân Không tạo ra. Chừng nào mà ta chưa nhập được vào bản thể chung của mọi sự mọi vật thì những giả tướng ấy vẫn còn là cảnh thật tương đối trong đó có ta, có người, vật nọ vật kia hiện ra trước giác quan của mình. Thực tại (hay Chân lý) có hai thứ: ở thể tĩnh và ở thể động. Thực tại ở thể tĩnh bị đóng khung trong không gian và thời gian, không phổ cập được cho mọi loài, không thể áp dụng cho mọi trường hợp được. Thực tại ở thể động, trái lại có tính cách khách quan, đồng nhất, có thể áp dụng cho mọi loại, mọi nơi. Nếu nền đạo đức, luân lý ở Tây phương thuộc về Thực tại ở thể tĩnh, thì đạo Phật Đông phương lại thuộc về Thực tại ở thể động. Nói cách khác thì ở Tây phương, nền đạo đức luân lý còn ở trong tương đối, nhưng đối với Phật giáo ở Đông phương nó lại hướng về viễn đích tuyệt đối, tối thượng. Tuy quan niệm về Thiện, Ác đối với cả Đông lẫn Tây đều như nhau trong tương đối, nhưng ở Phật giáo thì cái Thiện không đứng nguyên một chỗ mà nó lại tiến lên mãi mãi. Cái thiện không tĩnh ở chỗ phát khởi mà lại ở đích nhắm tới, mà đích này lại không ở yên một chỗ, nó càng ngày càng xa tuỳ theo mức độ không có trong thế giới tương đối mà chỉ có trong thế giới tuyệt đối của chư Phật. Cái Thiện của loài người thuộc về bất cứ ngôn ngữ, địa phương nào, cũng chỉ là cái Thiện trong phạm vi tương đối mà thôi. Nó được mệnh danh là “tình trạng khả quan hơn trước”, trong khi cái Ác được gọi là “tình trạng tồi tệ hơn xưa” vì trong ngôn ngữ của loài người không có danh từ “Toàn thiện, Toàn ác hay Tuyệt đối Thiện, Tuyệt đối Ác”, mà chỉ được gọi là Thiện hơn hay Ác hơn mà thôi. Bởi vậy chúng ta phải tránh cái “Bất thiện hơn trước” và cố gắng thực hiện cho được cái “Thiện hơn xưa”. Không có một thế giới khách quan ở ngoài thế giới chủ quan do tâm ta tạo ra, do đó những hành động và phản ứng đều diễn ra trong cái thế giới chủ quan ấy. Những việc thiện hay ác mà ta tưởng đã thi thố đối với người khác, thực ra chính chúng đã gây nghiệp quả cho ta, cũng như khi ngậm máu phun người thì miệng mình bị dơ bẩn trước. Khi làm xong một việc ác để hòng hại ai và để thoả mãn lòng ích kỷ hay thù hận của mình, ta đã hành động thực sai lầm, bởi đã quan niệm lệch lạc về Chân Ngã và Giả Ngã. Ban thưởng cho một việc làm Thiện không ngoài hành động Thiện ấy, bởi vì sự khen thưởng đã nằm trong việc Thiện đó rồi. Người làm việc Thiện được hưởng ngay quả báo tốt lành do mình đã gieo nhân. Rốt cuộc người đó đã trở thành một người thiện. Hình phạt đối với một việc Ác gắn liền với hành động Ác ấy, vì người gây nghiệp bất thiện với kẻ phải lãnh quả xấu chỉ là một, kết quả là người đó đã trở thành một gã bất thiện và mọi hành động của kẻ ấy đều trở thành ác, nếu y không sớm thay đổi ý nghĩ, chịu hối cải và quay về nẻo thiện.

Mọi sự vật trong thế gian này đều được sinh thành do nhân duyên và tâm tạo vạn hữu, bề ngoài tuy khác nhau về hình tướng, nhưng bên trong lại cùng chung một bản thể là tâm. Căn bản của thực tại không phải là tâm vật, Thể Dụng, siêu nhiên và hiện thực đối nhau trong thể lưỡng nguyên mà là “Nhất Chân Pháp Giới”, được nhìn theo hai khía cạnh: hiện tượng và bản thể hay tương đối và tuyệt đối. Thực tại tối hậu không thể làm đối tượng hoá để được hiểu biết bằng lý trí và tình cảm cho nên phải dung nhiếp các hiện tượng bề ngoài hình như có vẻ mâu thuẫn nhau. Lấy tâm quán tâm để tới Giác ngộ là một việc làm thuần tuý kinh nghiệm bản thân, không ai làm thay ta được. Những ý niệm của chúng ta đối với các vấn đề vũ trụ nhân sinh, dựa trên căn bản nhị nguyên tương đối do biến kế sở chấp mà có, đều là mê vọng ảo huyền. Thực tại tối hậu khác xa Thực tại tương đối hay Tục đế của thế gian, nhờ Thức giác của con người mà đạt được khi Thực tại tối hậu được thấy, nghe, hay biết qua lăng kính của các giác quan của so đo phân biệt. Học đạo cốt để hiểu để thấy và để đừng chấp vào chân lý tương đối do ngôn ngữ, văn tự biểu lộ, mà phải nương theo chân lý diễn tả trong các kinh Phật, coi đó là ngọn hải đăng chỉ đường cho con thuyền lênh đênh trên mặt biển bao la đầy bảo tố và dẫn lối với Chân lý Tuyệt đối. Trong khi còn lần mò đi tìm Chân lý Tuyệt đối, ta có quyền được hoài nghi, vì nghi là lợi khí sắc bén đôi khi giúp ta chóng giác ngộ sự thật. Phật thường khuyên chúng ta đừng nên mù quáng chấp chặt về văn tự và hình tướng bề ngoài mà phải dùng trí óc và công phu quán chiều chân lý để giải mê khai ngộ. Phương pháp học Phật khác lối học cổ điển của Tây phương ở điểm không bao giờ cố chấp, vì sự cố chấp thường che lấp chân lý. Có triệt để phá chấp, mới mong phá tan vô minh diệt trừ vọng tưởng được. Ngã chấp và Pháp chấp, thường bao vây trực giác. Chân lý tuyệt đối phải tìm ở ngoài thế giới hình, danh, sắc, tướng và vượt khỏi giới hạn của không gian và thời gian. Trong A Di Đà Sớ Sao có nói: “Lý viên ngôn thông, ngôn sinh lý tán”. Khi phải dùng đến lời nói, văn tự để diễn tả, mà cho là như vậy có thể đạt tới Chân lý Tuyệt đối thì chắc chắn Chân lý đó bị móp méo, lệch lạc, không còn là Chân lý tròn đầy nữa, vì đã gọi là Chân lý Tuyệt đối thì bản thể của nó vốn thường trụ, chỉ có thể trực nhận mà không thể giải bày được. Muốn trực nhận Chân lý phải là bậc giác ngộ mà tâm trí của vị này đã khai mở để đón nhận chính kiến và chính tư duy, hầu nhìn thấy rõ chân tướng của sự vật. Mong thoát ly thế tục bằng suy tư theo kiểu thế gian thì càng làm cho ta sa lầy thêm vào vũng bùn ngã chấp, pháp chấp, vì khi suy nghĩ thì phải phân tích, mổ xẻ theo lối nhị nguyên, chia cách ta với đối tượng thành hai thế giới riêng biệt, trong khi trực nhận chân lý bằng tâm linh thì ta liền thấy mình thể nhập vào đối tượng thành một khối duy nhất, bất khả phân. Khi ta dồn tất cả sự chú ý của ta vào thế sự để cân nhắc, so đo ta càng bị trói buộc vào cuộc đời với muôn ngàn hiện tượng sai khác, và như vậy ta càng bị vùi sâu vào mớ giả tướng hỗn độn của thế giới tương đối, khó thoát ly ra khỏi. Người thường hay bị phiền não chướng và sở tri chướng ràng buộc và màn vô minh ngăn che cho nên những điều tai nghe mắt thấy hoa đốm nhảy múa lăng xăng trên hư không. Chỉ khi nào hết nghiệp chướng, đạt tới Tụê Bát Nhã mới có được cái Thấy Chân thật hay chính kiến, cái Thấy Chân thật này chỉ có khi nào vào Thiền định hay Niệm Phật với Nhất Tâm nghĩa là phải lắng lòng cho trong sạch, làm im bặt những xôn xao của thất tình lục dục, và đổi hướng luồng nhãn quang xoay ngược vào nội tâm, bắt nó phải đi từ hữu hạn đến vô cùng, từ Ý thức đến Trực giác, từ cá nhân về với đại thể, từ Vàn thù về với Nhất nguyên, từ cái hiện hữu của thế giới hình, danh, sắc, tướng tới cái hư không bao la của Chân thể đại đồng. Đổi hướng như thế cho tới khi nào tâm hồn ta nhập vào cái vô lượng vô biên ở đáy lòng mình và thấy được Tự tính Di Đà của mình, đến nỗi khi trở về với cuộc đời cá nhân chia rẽ, đầy tham luyến dục tình thì người ngộ đạo quên hẳn mối tương quan giữa cái Ta riêng biệt với toàn thể vũ trụ, mà chỉ thấy mình hoà tan vào bao cái Ta khác, bạn cũng như thù. Để giúp chúng sinh đạt tới Chân lý cứu cánh. Đức Phật đã chỉ nhiều đường lối cho chúng sinh noi theo để từ bỏ thế giới nhị nguyên, huyền đồng cùng vũ trụ. Và phương pháp tốt nhất  vì dễ làm và đạt hiểu quả nhất là Niệm Phật A Di Đà đồng thời quán tưởng Phật và cảnh giới Cực lạc Tây phương trang nghiêm. Khi hành giả niệm Phật với Nhất Tâm bất loạn thì không còn thấy đối tượng nào khác ngoài Đức Phật trong tâm mình, hành giả lúc đó nhập vào đạo, sống tự tại an nhiên, thảnh thơi sung sướng trong Cực lạc của tự tâm.

Mục 5: Lý Chân Không Diệu Hữu và lý Trung Đạo.

Nếu bảo rằng có một thế giới tồn tại ngoài tâm là chấp Có, nghĩa là thêm một thực tại vào vật hay làm tăng thêm một cái gì vào thực trạng của vật đó, như vậy là sai ; nhưng nếu lại bảo rằng cả đến ý thức của con người cũng không tồn tại thì đó lại là chấp Không, hay giảm bớt một cái gì ở thực trạng của vật đó, làm mất đi một chút gì đó ở Thực tại thì đó cũng là sai nốt.

Theo thuyết Trung Đạo, Ngài Khuy Cơ đã trình bày trong Thành Duy Thức Luận như sau: “Ly Không Hữu thuyết Duy Thức giáo”. Như vậy ông đã phủ nhận sự thường tồn của mọi sự vật, nhưng lại khẳng định sự tồn tại của ý thức bởi vì “Nhất thiết pháp Duy Thức biến”. Nếu cái “Không” chẳng phải là cái không trống rỗng, và nếu Kinh Bát Nhã chẳng hề thuyết về Hư Vô chủ nghĩa thì tất phải có một cái gì huyền diệu biểu hiện ra thế giới hiện tượng, và cái đó chính là Thức hay Tâm vậy. Cõi Cực lạc không thể tìm thấy ở phương trời Tây mà chỉ thấy được ở sự gạn lọc của tâm thức và chính ở địa bàn này mà ta thực hiện được Tự tính Di Đà. Do đó từ Chân Không hiển bày Diệu Hữư, và người ta thấy Tự Tính Di Đà hay Chân Tâm của mình hiển lộ. Cảnh giới Tịnh độ là cảnh giới tự giác của cái tâm thanh tịnh khi đã Kiến được Tính. Không thể thấy được cảnh giới đó bằng tâm phân biệt nhị nguyên. Sự chứng ngộ đó phải do tâm của hành giả tự chứng lấy bằng nổ lực của ý chí. Ngoài những lời Phật dạy trong các kinh điển thì tất cả những gì cần cho người tu đều đã sẵn có trong lòng mình, đó là Tín, Nguyện và Hành. Muốn đạt tới cảnh giới đó thì phải trị bệnh biếng lười, ngờ vực, do dự, và phải nhất tâm tinh tiến nhẫn nại để thực hiện ước nguyện của mình. Tha lực chỉ đến khi nào tâm ta đã gạn lọc hết nhơ nhiễm và trở nên trong sáng sẵn sàng đón nhận hào quang phóng đi tự Tâm Bi vô lượng của Phật A Di Đà tiếp dẫn ta về cõi Phật, cũng như đoá hoa Ưu đàm nở do tinh anh bên trong phát tiết ra ngoài, hay do sự sung mãn của nội tâm tràn lan ra ngoại cảnh.

* Lục Tổ Huệ Năng khi nêu ra thuyết “Tức Tâm tức Phật” và “Tâm là Tịnh độ” không hề phủ nhận cõi Tịnh độ và Phật A Di Đà mà chỉ nhằm mục tiêu nhiếp Tướng nhập Tánh, đem Dụng về Thể, để làm sáng tỏ lý “Đệ nhất nghĩa Không” hay cái lý “Chân Không Diệu Hữu” hoặc lý “Bất Nhị” mà thôi. Và theo đó thì tất cả những gì là hình danh sắc tướng đều phải chối bỏ, hết thảy các pháp Hữu vi Vô vi đều giả huyễn, bởi thế mà Niết bàn, Tịnh độ, cho đến cả Chân Tâm, Phật tính, Phật, Bồ tát đều chỉ là những pháp phương tiện hay những ý niệm do tâm sinh ra,và các tư tưởng về chúng sinh, Ta bà, phiền não, trói buộc, an lạc, giải thoát, Niết bàn… đều chỉ có trong mối tương quan tương duyên đối đãi nhau trong thế gian này mà thôi. Cũng bởi lý “Đệ Nhất nghĩa Không” mà đối với người đã vun trồng đức tin thực vững chắc. Tin Phật cũng như tin mình thật sâu xa thì sẽ sống trong lý Bất Nhị và sẽ thấy Tha lực và Tự lực chỉ là một. Cũng ví như vị giáo sư đầy kinh nghiệm về sư phạm, tuỳ theo căn cơ và tính tình của học viên mà dạy dần dần từ dễ đến khó. Phật đã dẫn chúng sinh từ thế giới hiện tượng hữu hình đến thế giới bản thể vô hình của Chân Tâm. Còn Lục Tổ Huệ Năng lại dùng lối đi tắt để mau tới đích, chỉ thẳng vào cái Tự Tính Phật của mình và khuyên hàng đệ tử đã ít nhiều luyện về Pháp tính nên Kiến tính để thành Phật. Như vậy thì Phật Thích Ca và Tổ Huệ Năng, bằng những phương tiện và đường lối khác nhau đã nhắm chung vào một mục tiêu là Thanh tịnh Tâm để giải thoát con người khỏi đau khổ, phiền não, chẳng gì mâu thuẫn nhau cả.

 

CHƯƠNG 8

NHẬN ĐỊNH VỀ SỰ, LÝ NIỆM PHẬT.

 

Tu theo pháp môn Tịnh độ mà đạt tới trạng thái nhất tâm bất loạn có hai đường lối là Sự Nhất Tâm và Lý Nhất Tâm, dựa trên Sự Trì và Lý Trì danh hiệu Phật. Sự trì danh là lối niệm Phật theo hình tướng bề ngoài, đại diện cho Hiển giáo và Thế tục đế. Lý trì danh là lối niệm Phật theo lẽ phải và hành động có suy nghĩ kỹ lưỡng, đại diện cho Mật giáo và Chân đế hay Thắng nghĩa đế. - Sự nhất tâm thì đoạn được phiền não, phá được tư hoặc. - Lý nhất tâm thì khi niệm Phật liền thấy được Phật của mình. Tâm không tà niệm và phá được kiến hoặc. Lý như đôi mắt để coi đường cho khỏi lạc lối, sẩy chân. Sự như đôi chân để bước đi, nhưng nếu không có đôi mắt thì dễ lầm đường lạc lối và dẫm phải chông gai, hay lọt xuống hầm hố. Không có chân để đi thì cứ đứng yên một chỗ mà nhìn, không tiến tới đích được. Sự trì danh là phần hình thức của phái “Duy Danh” hay “Khẩu xưng niệm Phật” (Nominalisme) chỉ đọc danh hiệu Phật mà không cần suy tưởng điều gì lìa bỏ mọi ý thức trong lúc niệm để tâm rỗng lặng như Thiền định. Lý trì danh là phần tinh thần của phái “Duy Niệm” (Conceptualisme) hay phái Quán tưởng niệm Phật đòi hỏi hành giả phải có một ý niệm rõ rệt về Phật A Di Đà. Có triệt thấu nghĩa lý các bộ Kinh A Di Đà, Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ, có hiểu tường tận đức độ của Phật A Di Đà qua 48 lời nguyện của Ngài, có thấu rõ 10 danh hiệu Phật, có thường xuyên chiêm ngưỡng, quán tưởng cảnh Cực lạc Tây phương, mới thiết tha mong cầu về quốc độ của Ngài.

Trong các dòng Tịnh độ lưu hành tại Trung Quốc, các Tổ Tuệ Viễn và Vĩnh Minh Diên Thọ đều chủ trương Quán Niệm (thuộc phái Duy Niệm), còn Tổ Thiện Đạo cùng Đạo Xước, và sau này ở Nhật Bản (1875) có Ngài Genku Hônen, vị Thuỷ tổ của Tịnh độ Chân tông đều chủ trương Duy Danh hay Khẩu Xứng Niệm Phật. Các đệ tử của Ngài Hônen là Shiran Shonin và Khuya Shonin (Không Giả Thượng Nhân) cùng Ippen Shonin (Nhất Biến Thượng Nhân) đều chủ trương đặt hết niềm tin vào Tâm thành. Các vị này cho rằng: Tuy nói là pháp môn Tịnh độ dễ tu, dễ chứng, nhưng cái dễ này chỉ là tương đối với pháp môn Thiền định mà thôi, chứ không phải đến mức độ chỉ tu lấy lệ cũng đạt tới kết quả mong muốn. Bởi vậy, người niệm Phật phải có tâm thành và một lòng tin sắt đá vào việc niệm Phật cầu vãng sinh. Thành Tín đủ để thay thế cho Trí Đức. Chỉ cần niệm Phật cho chuyên vì người dù ngu đần, dốt nát và kém đức đến đâu, nếu Tin sâu, Nguyện thiết và Hành trì tinh tiến đều được Phật A Di Đà tiếp độ. Tỷ như người xưa cọ gỗ lấy lửa, dùng một đoạn dây cọ mài vào một khúc gỗ khô, cọ đều tay không gián đoạn, một lúc sau lửa sẽ bật ra.

Có người hỏi Ippen Shonin cách niệm Phật phải như sao, Ngài nói: “Chỉ cần tâm chí thiết, chí thành, xả ly ý niệm, thọ cảm, ký ức, ngữ, pháp là đủ”. Nói rõ thêm thì Sự trì danh là lối niệm Phật không cần hiểu rõ về Lý, chỉ đặt trọn niềm tin vào Phật Thích Ca và Phật A Di Đà, mong cầu tha thiết được về cõi Cực lạc Tây phương, vì tin chắc có nơi này khác hẳn Ta bà đầy khổ cực. Đó là lối niệm Phật của phái theo pháp môn Tịnh độ thuần tuý.

Lý trì danh thuộc về Pháp tính là lối niệm Phật mà hiểu rằng có là phương tiện thần diệu để thanh tịnh tâm mình bằng hình ảnh với cách quán tưởng hình tượng Phật và cảnh Cực lạc Tây phương, và bằng âm thanh với cách niệm hồng danh Phật A Di Đà, cốt định tâm vào những tư tưởng lành mạnh để phát sinh Tuệ giác, diệt trừ vọng tâm điên đảo, đạt tới Chân Tâm, tức thành Phật.

Tóm lại, Sự trì danh là lối tu của người chưa hiểu được lý niệm Phật là diệu pháp để nhiếp vọng về Chân. Đó là lối tu của người còn mang tâm phân biệt, tin chắc cõi Tây phương Cực lạc ở ngoài cõi Ta bà, thành tâm cầu nguyện Phật A Di Đà tiếp độ để được về nơi an dưỡng, hưởng hạnh phúc đời đời. Còn Lý trì danh là lối niệm Phật của những ai, cũng thực hành như người tu theo Sự trì danh, nhưng lại hiểu rằng cảnh Cực lạc Tây phương và Phật A Di Đà đều ở trong tâm của người niệm, và do công phu thanh tịnh của Chân Tâm người hành giả hiển bày. Người theo Lý trì danh tin rằng: Phật A Di Đà do tâm mình tạo ra, tâm mình đã sẵn có mầm Phật, lại lấy sáu chữ hồng danh tạo ra cảnh Tây phương Cực lạc, buộc tâm mình vào đó. Khiến nó không thể quên được cảnh Cực lạc và Đức Phật của Từ Tâm. Như vậy thì người theo Sự trì danh hãy còn chấp vào tướng Năng Sở đối đãi, còn thấy Phật A Di Đà và cảnh Cực lạc ở ngoài tâm, tâm và Phật chưa dung thông, dung nhiếp với nhau. Về phần người theo Lý trì danh thì đã tuyệt được tướng Năng Sở và hiểu rõ: Niệm Phật là niệm Tâm dung hòa được Tâm lẫn Cảnh, bản thể và hiện tượng. Theo Lý trì danh thì Phật A Di Đà đã sẵn có trong tâm mình, bởi lẽ: “Nhất thiết duy Tâm tạo”. Đây là lối niệm Phật của phái Thiền Tịnh song tu. Thực ra thì người tu tịnh nghiệp mà đạt được kết quả như ý muốn, dù chấp Sự hay chấp Lý cũng mặc nhiên viên dung được Sự Lý trong khi hành trì, bởi vì người chấp Lý chủ trương dùng lối niệm Phật và quán tưởng Phật để ngộ nhập Tự tính Di Đà, phải dùng đến Sự (niệm Phật cho chuyên) mới đạt được Lý. Còn người chấp sự nhất tâm cầu vãng sinh, ngoài ra không còn biết gì khác nữa, nhờ đó mà tâm trở nên Định và sinh Tuệ, rồi ngộ được Lý trì danh. Vậy suy đến cùng thì những ai tu tịnh nghiệp mà đạt được kết quả, đã vô hình chung kết hợp được Sự Lý một cách hài hoà, tới mức độ Sự tức Lý, Lý tức Sự viên dung vô ngại. Có điều là sự kết hợp ấy, hành giả ý thức được việc làm của mình nhờ trình độ am hiểu Phật pháp, còn có người lại thực hành một cách máy móc mà chẳng hiểu gì cả. Thông thường, theo tâm lý của người trì danh hiệu Phật cầu vãng sinh, thì lúc đầu tưởng nhớ tới Phật A Di Đà, sau đó niệm hồng danh của Ngài. Cũng như ở mọi động tác có ý thức, sau đó hình thức lại quy định nội dung, tác động đó hỗ tương qua lại. Trong trường hợp niệm Phật thì diễn trình đó hơi khác một chút. Ta có thể niệm danh hiệu Phật rồi mới tưởng nhớ tới hình ảnh cùng giới đức và những lời nguyện của Ngài. Trong lúc lập đi lập lại nhiều lần danh hiệu Phật một cách máy móc thì một lúc nào đó sẽ trỗi dậy trong ký ức của hành giả những ấn tượng về Đức Phật nằm sâu trong tiềm thức. Dù muốn hay không, hiện tượng này cũng sẽ xảy ra mỗi lúc một rõ nét hơn.

Tính và Tướng của Phật A Di Đà biến thành một thực tại đối với tâm thức của người trì danh chẳng khác nào hai người chơi đu tiên, kẻ đứng lên, người ngồi xuống, thay nhau liên tục, tạo thành một cái đà đưa cả hai người bay bổng cao vút trên không trung. Trong trường hợp trì danh hiệu Phật thì Sự là động tác của thân và khẩu, còn Lý là động tác của ý, làm thay đổi trạng thái tâm lý của hành giả. Đối với người sơ cơ thì Lý và Sự là hai sự việc hoàn toàn khác nhau, nhưng khi thành tựu được công phu niệm Phật thì tuy hai mà một, hiện tượng Sự Lý viên dung đạt được lúc hành giả hội đủ cơ duyên. Tỷ như công việc ngào bột. Lúc đầu thì bột là bột. Bột dụ cho Sự, nước dụ cho Lý. Tác dụng của bàn tay người ngào bột làm cho nước ngấm vào bột, bột hút lấy nước. Tới một điểm nào đó bột không còn là những hạt khô, rời rạc, mà nước cũng không còn là chất lỏng dễ chảy, nước với bột quyện vào nhau, cũng như Sự và Lý tương tức, tương nhập, đến khi đó thì bột và nước hợp thành một chất nhuyễn dẻo, dễ nặn thành bánh, và việc ngào bột đã thành công. Trong việc niệm Phật, lúc đầu, hành giả niệm danh hiệu Phật, nhưng tâm chưa tưởng tới Phật A Di Đà với niệm Cực lạc (tức chưa làm công việc Thiền quán, hay chưa thực hiện phương pháp Thiền Tịnh song tu). Nhưng nếu cứ nhắc đi nhắc lại mãi sáu chữ hồng danh một cách máy móc, thì tới lúc Sự trì danh hiệu Phật bắt đầu có hiệu lực, và tác dụng vào Lý trì danh. Trong tâm của hành giả lúc đó các ký ức về Phật A Di Đà bừng tức dậy mỗi lúc một đậm nét hơn trong tâm của hành giả, từ mờ ảo đến quang huy và lúc đó thì tác động máy móc của Sự trì danh bước qua giai đoạn hiểu rõ tường tận Lý trì danh. Lẽ dĩ nhiên tiến trình chuyển biến này không thể thành tựu được một sớm một chiều, mà phải trải qua nhiều biến cải liên tiếp trong nội tâm.

Trong kinh A Di Đà có câu: “Nhược nhất nhật, nhược nhị nhật… cho đến thất nhật”, ta phải hiểu chữ “nhật” ở đây theo nghĩa là giai đoạn ngắn hơn hoặc dài hơn một ngày. Sự thành tựu tiến trình hoán cải tâm linh là hiện tượng “nhất tâm bất loạn”. Đó là đạo của pháp môn Tịnh độ. Ai có đủ điều kiện Tín, Nguyện và Hành thì cho là tiến trình ấy có thật, còn những người thiếu đức tin thì cho là dị đoan, mê tín. Nhưng theo Tâm lý học thì cho đó là thói quen hay tập tục có khả năng biến đổi tâm lý con người. Đối với công việc tu hành thì ai tu nấy chứng, ai ăn nấy nó, nếu phải chỉ bày một sự việc thuộc về tâm lý, tín ngưỡng thì không thể làm được. Tuy nhiên, trên thực tế sự kiện đó xảy ra hiển nhiên bất khả tư nghị.

Tiện đây, tôi xin thuật lại câu chuyện thuộc về niệm Phật A Di Đà mà biến cải được tâm thức do Thiền Sư Bạch Ẩn, dòng Lâm Tế kể lại đã chứng minh sự kiện đó: Sư Bạch Ẩn có một người đệ tử, là con một ông già rất mực keo kiệt, chỉ quen chạy theo đồng tiền mà không biết đạo lý là gì cả. Người đệ tử ấy một hôm đến vấn kế Thiền sư để tìm cách hoán cải lòng tham vô đáy của cha mình. Sư Bạch Ẩn đề nghị: “Cứ bảo ông già ấy niệm Phật A Di Đà tối ngày hễ hôm nào niệm đủ 100 chuỗi hạt thì đến chùa ta trả cho một quan tiền, nhưng dặn kỹ là phải thành thực, cấm không được gian lận”. Mỗi ngày, cứ tối đến, Sư Bạch Ẩn lại thực hiện đúng lời đã cam kết, trả tiền sòng phẳng cho ông lão. Vì tham được lãnh thưởng, không phải làm việc cực nhọc vất vả mà lại được tiền, ông già siêng năng niệm Phật, đi, đứng, nằm, ngồi, bất cứ lúc nào cũng niệm Phật để mong được lãnh tiền thưởng nhiều hơn. Qua một thời gian, một buổi tối Sư Bạch Ẩn không thấy bóng ông già chống gậy đến chùa để lãnh thưởng như thường lệ, hỏi ra mới biết vì mải mê niệm Phật, ông lão quên cả việc đến chùa lãnh thưởng. Vài tháng sau, ông lão tìm đến chùa, nét mặt hân hoan, rạng rỡ, hết lòng cảm tạ Thiền sư đã có công hoán cải tâm thức của mình, từ vô đạo, ích kỷ tham lam, nay đã trở nên một tín đồ thuần thành của pháp môn Tịnh độ, niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh. Khi từ giã Thiền sư ra về, ông già không quên để lại chùa một túi tiền, không rõ bao nhiêu, để cúng dường Tam Bảo.

Xét ra thì Sự và Lý trì, cả hai đường lối cùng nhắm vào một mục tiêu: một đường thì nặng về tín ngưỡng, sùng bái và nương cậy vào Tha lực, còn một đường thì nặng về mở mang trí tuệ, dùng Tự lực và pháp Thiện định để Minh Tâm Kiến Tính, cầu ở Tính mình để dứt vọng về chân. Cả hai đường lối đều đòi hỏi người tu phải quyết tâm hành đạo. Cả hai đều đưa tới Chính giác, kết quả mau hay chậm đều do căn cơ và duyên phận của từng người.

Người học đạo khi chưa dung hoà được Tính và Tướng, Lý và Sự, nghĩa là còn chấp về một phía hoặc Thể hoặc Dụng, mới dùng Tính để phá Tướng, lấy Lý để bác Sự, lấy Chân Không để bác Giả Hữu của hiện tượng giới, gây thành những cuộc tranh chấp liên miên, bởi lẽ họ đã không hiểu hay không chịu sống theo lý Bất Nhị, nên mới đưa tới tình trạng là Sự chẳng thành Chân Sự, mà Lý cũng chẳng thành Chân Lý. Thông suốt được lý Không hai thì dung hoà được mọi chấp mê để nhập vào Nhất Chân Pháp Giới của vũ trụ. Pháp hữu vi tuy huyễn nhưng nếu không dùng đến thì đạo quả khó thành. Pháp vô vi tuy Chân nhưng nếu cứ khư khư chấp lấy chữ Không thì Hữu tính mất Diệu Dụng và sẽ sống xa vời thực tế. Mê Sự thì cảm xúc nhiều sinh tâm phiền não trở ngại cho tâm Niết bàn. Mê Lý, suy nghĩ nhiều thì Sở tri chướng gây trở ngại cho tâm Bồ đề. Bỏ sự theo Lý thì đoạ vào nẻo tối của hàng Thanh văn. Lìa Lý theo Sự tất mắc vào chấp mê của hàng phàm phu. Sống ở đời là phải sống trong thực tại gồm đủ cả bản thể lẫn hiện tượng. Tính và Tướng, Lý và Sự không bao giờ được quên Chân lý Vô ngã, Vô thường, Bất Nhị và Bản thể Chân Không của vạn pháp. Tuy phải sống trong tương đối nhưng lại không quên hướng thượng, cố vươn lên đích lý tưởng tuyệt đối.

Xét chung thì cả hai đường lối, chấp Sự và chấp Lý, chấp Có và chấp Không một cách cứng rắn đều không phải là chân lý và đều là bệnh biên kiến cả, cần phải chữa cho hết bệnh chấp đó. Người thường hay mắc bệnh chấp Có, chỉ nhìn thấy vỏ ngoài của sự vật, cho mọi sự vật đều thật cả rồi đem tâm luyến ái, bám giữ không chịu rời ra, hoặc là ghét bỏ, nguyền rủa, không muốn đến gần. Hàng trí thức, duy lý lại mắc bệnh chấp Không, thương khinh chê người theo Sự tướng, bị lỗi tự mãn, tự kiêu, còn nguy hại hơn bệnh chấp Có, vì họ hay khuyên người đời nên bỏ Sự theo Lý, nhưng chính họ lại không thấy được ưu điểm của lối theo Sự tướng, chỉ chấp chặt về mặt Lý, như vậy rất có hại cho người sơ cơ, cần phải dựa vào Sự tướng và tha lực để nâng đỡ, bồi bổ đức tin bước đầu còn chưa vững chắc.

Người tu theo Sự trì danh mà có đức tin vững chắc, lúc niệm Phật không còn điều gì thắc mắc nữa. Họ chỉ biết niệm Phật không ngừng, bất cứ lúc nào, đi, đứng, nằm, ngồi ngoài ra không để tâm suy nghĩ điều gì khác. Người theo Lý trì danh, khi đã hiểu lẽ việc niệm Phật nằm trong lý Bất Nhị dốc lòng tin lời Phật dạy, còn tin ở nghị lực của mình không gì lay chuyển nổi, như vậy cũng không còn chút hoài nghi trong lòng, bởi vì mọi thắc mắc đã bị ngọn lửa tuệ giác tam muội thiêu huỷ hoàn toàn. Như vậy, cả hai bên đều có đức tin, có điều là người theo Lý thì tin một cách sáng suốt hơn người tu theo về Sự, do đó mà đức tin của họ trở thành bất thoái chuyển. Chỉ có những người theo Sự một cách mù quáng, chẳng tin ở tài sức của mình, hay người theo về Lý mà chưa giác ngộ được lý Bất Nhị mới kém đức tin mà tam mới dao động mà thôi. Theo phép tu thì mỗi người, tuỳ theo căn cơ và tính tình của mình, hoặc nặng về tình cảm hay vì ý chí sắt đá tự cường mà tự chọn lấy con đường tu hợp với hoàn cảnh của mình. Lối tu nào cũng cần phải có đủ cả Sự lẫn Lý, phối hợp Tín và Hành, không thể thiên về một bên Lý và Sự, Tri và Hành đều phải cân bằng như hai cánh chim xoè rộng mới bay được cao xa. Đức Tin là điều cốt tuỷ trong pháp môn niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh độ, thiếu niềm tin thì không mong thành tựu được điều ước mơ gì cả.

Thuở xưa, ông Vương Trọng Hối hỏi ông Vương Vô Vi: “Niệm Phật như thế nào để khỏi gián đoạn và được Nhất Tâm bất loạn ?”. Ông Vương Vô Vi đáp: “Việc tu hành Phật pháp nói chung, và theo pháp môn Tịnh độ nói riêng đặt trọng tâm vào chữ Tín. Tín đứng hàng đầu trong ba môn Tín, Nguyện, Hạnh. Đã tin sâu rồi thì không còn gì nghi ngờ nữa. Nếu còn bóng dáng một chút hồ nghi, đức Tín Tâm không vững, còn bị lung lay”.

Vương Trọng Hối nghe nói hết sức vui mừng bèn cáo biệt mà về. Cách đó ít lâu, ông Vương Vô Vi mộng thấy ông Vương Trọng Hối đến tạ ơn tươi cười rằng: “Nhờ nghe được câu chỉ bảo chí tình của đạo hữu mà nay tôi đã được vãng sinh Tịnh độ Tây phương rồi”. Đủ tỏ chữ Tin thực đáng giá ngàn vàng. Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận của Mã Minh Bồ tát, thì tâm con người có hai phần là Tính và Tướng hay Chân Như môn và Sinh diệt môn. Nhưng Tính tức Tướng, Lý tức Sự, Bản thể tức Hiện tượng, Cực lạc tức Ta bà, cũng ví như nước biển, không thể bảo phần nào là nước trong lòng biển khởi bất động và phần nào là sóng trên mặt biển nhấp nhô, bởi chấp như thế là vô lý, không thể tách rời nước ra khỏi sóng, và sóng ra khỏi nước được, vì Sóng là Nước, Nước là Sóng, Tâm là Cảnh, Lý là Sự, Tinh thần là Vật chất v.v… Bỏ Lý thì chẳng vững, mà lìa Tướng thì tính không thành. Lý và Sự cũng như đạo và khoa học, đạo và đời, tuyệt đối và tương đối, chẳng thể rời nhau nửa bước, mà phải nương nhau để cùng tồn tại. Nhờ Sự tướng bên ngoài mới có phần Lý tính bên trong. Có phần Lý tính bên trong mới thấu rõ được phần Sự tướng ở ngoài. Hành động theo Sự tướng mà thiếu suy xét thì dễ lạc vào tà đạo. Trái lại, nếu theo Lý bỏ sự thì tâm khô cằn và dễ rơi vào hố Hư vô chủ nghĩa cho nên kinh Phật mới dạy:

Thật tế địa bất thụ nhất trần

Phật sự muôn trung, bất xả nhất pháp

(Trong tâm thanh tịnh (thuộc về Lý) thì không còn một mảy bụi, nhưng về Sự tướng, muốn đạt tới trạng thái thanh tịnh thì người tu chẳng thể bỏ qua một pháp nhỏ mà không hành đến nơi đến chốn), nhưng hành đến đâu lại xả đến đấy, Tâm không trụ vào pháp nào cả. Phật dạy: “Phải thấy tính Không của pháp Hữu vi mới mong được giải thoát”. Muốn thấy tính Không của các pháp thì phải xả bỏ Ngã và Ngã Sở, bởi đó là nguồn gốc của các tướng sinh diệt Có, Không. Phải phá chấp mê về Ngã vật lý, rồi đến chấp mê về Ngã tâm lý xã hội. Cao hơn bậc nữa, Phật dạy: “Phải thoát khỏi cả các sinh diệt của các pháp không được giữ lại một chút sở đắc nào cả”. Phải xa lìa tư duy, ý niệm để Tâm rỗng lặng, không còn bóng dáng của các pháp tương đối nữa. Lúc ấy thì tâm sẽ sạch làu làu sáng rực rỡ, nhẹ lâng lâng, và Chân Tâm, Phật tính của ta sẽ hiển lộ.

Trên mặt bản thể vô sai biệt và vô phân biệt thì Lý và Sự, Tâm và Vật, Không và Sắc đều quyện vào nhau, tương tức tương nhập như sữa vào nước, không thể tách rời Lý ra khỏi Sự và Sự ra khỏi Lý được.

Trên đường tu thì Lý và Sự phối hợp chặt chẽ với nhau để giúp đỡ nhau cùng tồn tại. Có Lý thì hành động mới có chủ trương cân nhắc. Có Sự mới có phương tiện để thực hiện những điều đã suy luận và chứng minh được những gì đã lý giải. Có Lý mà không có Sự như người có kế hoạch, bản đồ trong tay mà không chịu thực hiện kế hoạch đã dự liệu. Có Sự mà thiếu Lý như kẻ hành động không có chủ đích, kỷ cương, muốn đi mà chẳng biết đường lối, thiếu người dẫn đường lộ trình mờ mịt, chẳng biết cách tiến thoái, dễ rơi vào cạm bẫy, hầm hố. Phải có đủ cả Lý lẫn Sự, như người thông suốt đường lối, lại hăng hai cất bước  đăng trình, với cặp mắt sáng suốt và đối chân cứng cáp, lòng tinh tiến, nhẫn nại, mới mong đạt tới đích. Tuy nhiên, trong pháp môn Tịnh độ dù thiếu về phần Lý, song chịu khó nghe theo lời khuyên bảo của những người đi trước mà cố gắng thực hành thì cũng có ngày thành công. Những bộ kinh luận và lời khuyên của hàng thiện tri thức là những bó đuốc soi đường cho những người tu tịnh nghiệp thời nay nên theo đó mà thực hành sẽ đạt được kết quả mong muốn. Cho nên có Sự mà thiếu Lý chẳng đáng quan tâm, chỉ e đã hiểu lý rành rẽ mà lại chẳng chịu thực hành, ưa nói suông, lý luận hão mất thời giờ dành cho việc niệm Phật cầu vãng sinh, tới phút lâm chung thần chết hiện đến, hồn phách hôn mê, tất sẽ bị lạc vào vòng luân hồi khó thoát. Bởi vì Phật pháp chỉ độ kẻ dốt nát nhưng thành tâm có chí nguyện vững vàng mà không thể độ cho những kẻ thế trí biện thông, đức tin không vững lại kém hành trì. Những người nói năng lưu loát, hiểu rõ Tam tạng kinh điển mà chẳng chịu khó niệm Phật có khác gì người đói đứng ngắm bức vẽ một mâm cơm thịnh soạn, hoặc người túng thiếu mà đếm tiền cho thiên hạ tiêu, sao bằng được lão bà ngồi xó bếp, không biết chữ, song niệm Phật suốt đêm ngày lúc nhắm mắt lìa trần mà giữ được tâm không tán loạn, ý không tham luyến, hết lòng cầu Phật gia hộ để được vãng sanh, tất sẽ được Phật A Di Đà và Thánh chúng phóng quang tiếp dẫn về nơi Cực lạc, nào đã kém ai ?

* Hiểu Phật A Di Đà là Chân Tâm, Tự Tính của mình theo nghĩa bóng mà niệm Phật theo Lý trì danh, hay tin có Phật A Di Đà bằng thịt bằng xương đang cai quản cõi Tịnh độ Tây phương theo nghĩa đen, rồi nhất tâm niệm Phật theo Sự trì danh, cả hai đường lối đều lợi ích cả, vậy ta chớ nên có thái độ bên trọng bên khinh.

* Một điểm nghi vấn cần được nêu lên ở đây và cần phải làm cho sáng tỏ là: nếu tu theo Sự trì danh mà cũng đạt được Chân Tâm thực tánh thì cần gì phải hiểu rõ về Lý niệm Phật cho thêm phiền phức ? Cần gì phải thắc mắc để có hại đến đức tin ?

Xin thưa: Đành rằng người tu chỉ cần niệm Phật cho chuyên cũng đủ, chẳng cần phải hiểu rõ về Lý niệm Phật cũng đạt được tới đích là thanh tịnh tâm mình, nhưng trên thực tế, người tu mà không hướng về nội tâm, lại quen chạy theo ngoại cảnh thì khó buộc được tâm viên, ý mã của mình. Tâm đã bị lôi cuốn theo hình tướng bề ngoài thì làm sao định được ? Làm sao niệm Phật được với “Nhất tâm bất loạn ?” Nhược bằng niệm Phật theo Sự trì danh không vọng niệm mà chỉ có chính niệm, hay “Nhất tâm bất loạn”, “Nhất tâm tam muội”, thì tâm sẽ định và kết quả đạt được như người theo Lý trì danh không khác. Điểm quan trọng là liệu có buộc được tâm ý mình hay không ? Nếu bằng đướng lối Sự trì, chỉ chuyên niệm Phật mà không nghĩ tới điều gì khác ngoài việc niệm Phật thì tâm luôn luôn ở trong chính niệm, hoặc ở trạng thái “nhất tâm bất loạn” sẽ đạt được kết quả như bên Thiền tông nhìn thẳng vào tâm mình để “Minh Tâm Kiến Tính thành Phật”. Để dung hoà hai quan điểm Lý và Sự trì danh hiệu Phật và để nhận định một cách sáng suốt Sự và Lý trì danh, mong đạt tới Tâm Cảnh nhất như, Lý Sự viên dung hay Tri Hành hợp nhất, một Thiền sư trong Thiền Tịnh đạo tràng có để lại bài thơ dưới đây để nêu rõ lập trường của mình:

Mỗi viên tràng hạt, Phật là Tâm

Phật rõ là tâm, luống phải tầm ?

Bể Phật dung hoà tâm lẫn cảnh,

Trời tâm bình đẳng Phật cùng sinh.

Bỏ tâm theo Phật còn mê muội,

Chấp Phật là tâm chẳng trọn lành.

Tâm Phật nguyên lai đều giả huyễn,

Phát tâm đồng diệt mới viên thành.

CHƯƠNG 9 

NHẬN ĐỊNH VỀ MỤC TIÊU TỐI THƯỢNG CỦA HAI BỘ KINH A DI ĐÀ VÀ ĐỊA TẠNG.

Phật dạy: “Trong đại dương, giọt nước biển nào cũng có vị mặn thì các pháp môn của ta, pháp môn nào cũng có vị giải thoát, mà giải thoát tức là diệt trừ được những tư tưởng tạp loạn của tâm vọng động, chứa đầy nọc độc tham, sân, si… làm cho con người khổ đau, phiền não, được trở về trạng thái an vui của Chân Tâm, Phật tính”.

Kinh A Di Đà giống như đại đa số kinh Phật khác có mục đích:

1. Chỉ cho chúng sinh biết rõ cõi trần là nơi khổ đau.

2. Nguồn gốc của sự khổ đau là tạp nhiễm những thói hư tật xấu, do lục căn, lục trần cấu kết với nhau làm cho tâm vọng động, phát sinh ra những tư tưởng và hành động sai lầm đưa tới quả khổ sinh tử.

3. Chỉ cho ai nấy được biết phần linh thiêng trong con người là Chân Tâm, bản tính hay Phật tính của mình.

4. Muốn thoát ly khổ đau luân hồi sinh tử để được hưởng đời đời hạnh phúc phải trở về với Chân Tâm, Phật Tính của mình hay là thành Phật.

Pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh độ dựa trên cơ sở tư tưởng: “Người ta trở thành cái mà người ta thường mơ ước” hay: “Muốn là được” (“On devient ce à quoi on désire” hay “Vouloir c’est pouvoir”).

Phật dạy: “Cái tính hiện tại của con người do kết quả của những tư tưởng và hành vi của người ấy từ vô thuỷ” hay “Sinh mệnh của một người là kết quả của những nghiệp về thân, khẩu, ý do người đó đã tạo ra từ vô lượng kiếp. Những gì trong quá khứ đều không bị huỷ diệt, chúng để lại những dấu ấn trong tàng thức của ta. Nghiệp báo theo ta như bóng theo hình, do đó mà một con người hiện tại bởi con người quá khứ tạo nên, cũng như con người tương lai là kết quả của những suy tư và hành động của con người đó trong hiện tại. Chính ta đã tạo ra ta. Bởi vậy người ta phải luôn luôn tưởng niệm đến những gì cao quý và hướng đến đích Chân, Thiện, Mỹ. Con người thường mơ ước tới  cái vô cùng tận, và một đời sống hạnh phúc tươi đẹp tuyệt đối. Không ai lại khao khát cái xấu xa, ngắn ngủi, tầm thường và gây khổ đau cho mình. Cái Vô cùng Vô tận được thần thánh hóa bằng Đức Phật A Di Đà, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô lượng Công đức, cái cao thượng tốt đẹp vô cùng được lý tưởng hoá bằng cõi Cực lạc Tây phương. Nói cách khác thì tư tưởng chỉ đạo của bộ kinh A Di Đà nằm trong hai chủ thuyết:

1. Nhất thiết duy tâm tạo (Kinh Hoa Nghiêm).

2. Nhất thiết chúng sinh tất hữu Phật tính (Kinh Đại Bát Niết Bàn và Kinh Pháp Hoa) khuyên người đời nên trở về với Chân Tâm, Phật tính của mình.

Cũng như các bộ Kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, và Đại Bát Niết Bàn, Kinh A Di Đà chủ trương tâm con người có thể tạo ra tất cả, và ai ai cũng có thể thành Phật, nhập Niết bàn hay vãng sinh Tịnh độ nếu mình thiết tha mong muốn. Nhưng so với các bộ kinh lớn kể trên thì Kinh A Di Đà có phần thông tục hơn và được lan truyền trong đại chúng rộng rãi hơn.

Căn bản của Kinh A Di Đà là thuần niệm Phật, nhằm kết hợp trực giác tâm linh của hành giả với Chân Như Pháp Giới, phá cái giả ngã bé nhỏ của con người để hoà tan vào cái tâm của thiên địa đại đồng, kết quả là phá được vô minh, đập tan được Ngã và Ngã sở, và tỏ ngộ được Chân Tâm trong sáng của ta. Trở về tự tâm hay Kiến tính là duyệt xét lòng mình để thấy những gì là cao đẹp quang minh, và những gì là xấu xa, thấp hèn, rồi tuân theo những lời chỉ dạy của lương tâm, Phật tính của mình.

* Một triết gia Tây phương có những tư tưởng đẹp, được diễn tả qua bông hoa văn nghệ sau đây: “Đối với Thượng đế (hay Phật, Trời) ta nên có trái tim của trẻ thơ. Đối với tha nhân, ta nên có trái tim của người Mẹ hiền. Nhưng đối với chính mình, ta phải có trái tim của một vị thẩm phán anh minh, nghiêm khắc. Ta phải làm chủ ý chí của ta và làm nô lệ cho lương tâm mình”. Nói theo lối Phật giáo thì ta phải tự biết chính mình, ta mới được tự do tự tại, mới thoát khổ, và mới thành Phật.

* Trở về với nội tâm hay Kiến tính là nương tựa vào lương tâm mình, chẳng phải là nương tựa vào một thể xác giả huyễn, một mớ ngũ uẩn, giả ngã biến hoại từng sát na, cũng chẳng phải là nương tựa vào sự phiêu lưu bình bồng của một Ý thức thay đổi không ngừng vì tất cả những thứ đó đều chẳng phải là Chân Ngã hay Chân Tâm, mà chỉ là Vọng thức Vọng niệm đảo điên, sinh diệt luôn luôn biến đổi mà thôi. Trở về với chính mình là nương tựa vào những đức tính sáng suốt, bình đẳng, từ bi hỷ xả của tự tính của mình sẵn có đầy đủ, không bị nhân duyên và căn trần chi phối. Mục đích trở về với bản tâm con người thì bất cứ bộ kinh Phật liễu nghĩa nào cũng có vị giải thoát cả, nhưng mỗi bộ kinh Phật lại có một lối diễn tả riêng, khi thì theo cửa Hữu hay Pháp tướng, khi thì theo cửa Không hay Pháp tính, lại dùng những từ ngữ khác nhau để cùng chỉ một thứ, tỷ như tâm con người.

- Kinh Hoa Nghiêm gọi là Pháp giới hay Pháp giới tính, hoặc Sự Lý viên dung.

- Kinh Lăng Nghiêm gọi là A đà na thức, Chân Tâm, Diệu minh, Chân Như, Chân Tính, Chân Tướng, Thực thể, Chân thể …

- Kinh Thắng Man gọi là Như Lai Tạng.

- Kinh Duy Ma Cật gọi là Pháp Bất Nhị.

- Kinh Viên Giác thì gọi là Viên giác Tính, Thiền định công đức, hay Diệu Giác Nguyên minh…

- Kinh Đại Bát Niết Bàn gọi là Như Lai, Như Lai tính, Pháp tính thường trụ.

- Kinh Bát Nhã gọi nó là Không quán.

- Kinh Lăng Già gọi nó là Như Lai thanh tịnh.

- Kinh Pháp Hoa gọi nó là Phật tính, Tự tính thanh tịnh Niết bàn, Như ý bảo châu, Tri kiến Phật, hay Viên ngọc vô gía giắt trong người.

- Kinh Pháp Bảo Đàn gọi nó là Bản lai diện mục, hay ông chủ nhà.

- Luận Đại Thừa Khởi Tín gọi nó là Bản Giác hay Giác tính.

- Luận Duy Thức gọi nó là Duy Thức tính v.v…

Trong các kinh điển của nhà Phật chữ tâm được diễn tả tuỳ theo Tướng, Dụng hay Thể của nó. Về phương diện hoạt động hay diệu dụng thì tâm được gọi là pháp Nhất thừa, lý Trung Đạo, lý Bất Nhị, hoặc Chân Đế để chỉ cho cái thực tại siêu việt, mầu nhiệm, viên dung, cái Chân không Diệu hữu của vũ trụ. Về phương diện Thể Tính thì gọi Tâm là Phật tính, Giác tính, Pháp tính, Bình đẳng tính, Pháp thân Như Lai, Chân Không, Đại ngã… hay cái tính Bất sinh bất diệt, Bất khứ bất lai, không thiện không ác của các pháp. Đứng về phương diện liên hệ giữa bản thể và hiện tượng thì tâm được diễn tả bằng những danh từ “Như thị, như thị” hay “Như như”.

Tâm của con người chứa đầy hạt giống xấu, tốt lẫn lộn. Đó là nơi tụ hội của Thần lẫn Quỷ, Thần là phần thanh cao tôn quý, Quỷ là phần ô trọc bỉ ổi, thấp hèn. Về mặt chân thì tâm có quyền năng vô hạn, hiện diện khắp nơi như hư không. Về mặt vọng thì nó là động cơ thúc đẩy con người đi theo con đường lục dục, thất tình, gây khổ đau, tai hoạ, nếu nó nghiêng ngả mê mờ. Vì tâm là kho chứa đủ các loại hạt giống của Thánh lẫn phàm nên cổ nhân lo sợ nếu nó nghiêng lệch về một phía, thì sai một ly đi tới vạn dặm.

Đã có Thánh, phàm, ắt có chân tâm hay Phật tâm và phàm tâm hay vọng tâm. Tự tính Di Đà hay chân tâm, Phật tính vốn đầy đủ các đức hạnh viên chiếu hồn nhiên, ở Phật chẳng thêm, ở phàm không thiếu. Khi cái tính thanh cao tuyệt đối ấy chưa phát hiện thì nó vô vi. Đó là phần tiên thiên, vạn tượng hàm chứa trong đó. Nhưng khi nó đã phát hiện ra ngoài thì nó là phần hậu thiên sinh ra thiên hình vạn trạng. Càng đi xa ngọn nguồn trong sạch, nó lại càng ô trọc, mờ tối. Từ một tư tưởng bất chính sinh ra mà tâm vốn bất động đã tạo duyên, tác nghiệp, lôi cuốn con người vào guồng máy luân hối sinh tử. Tu là từ hậu thiên trở về tiên thiên, từ vạn hữu sai thù, trở về nguyên lý căn bản, hay tự vọng thức điên đảo hồi về chân tâm bất động để được giải thoát.

Cái tâm chỉ có một, thuộc về bản thể tuyệt đối sinh ra vạn hữu sai thù, có hình, danh, sắc, tướng, gọi là Sự Sự Pháp giới, nên mới có câu: “Nhất bản tán vạn thù, vạn thù quy nhất bản”. Tất cả các pháp trong vũ trụ đều từ cái “nhất chân” ấy sinh ra nên mới bảo: “Một là tất cả và tất cả là Một”. Tướng và Dụng của các pháp đều vọng mà Bản thể của các pháp lại chân, cho nên giữa Chân và Vọng, Tính và Tướng, Lý và Sự, tuy khác nhau về Tướng, Dụng, nhưng Thể lại vốn đồng và đều dung thông, dung nhiếp với nhau như bóng với hình, nghĩa là các pháp đều “nhất thiết vô ngại”.

Phật và tâm con người rộng lớn như thái hư. Về mặt Thể nó bao hàm cả vạn hữu, ẩn tàng và siêu xuất. Tâm có sức mạnh tinh thần phi thường nên ta biết cách tập trung năng lực của nó vào một mối, đừng để cho năng lực ý phân tán thất thoát qua lỗ hổng của sáu căn thì nó có đủ sức hoán cải cả càn khôn. Người ngồi thiền tập trung tư tưởng trong đại định có dụng ý để năng lực tinh thần của tâm không bị suy giảm bởi đã khép kín được sáu căn. Khi đó họ đã dùng năng lực tinh thần (của Tâm) để quan sát sự vật và đắc một thứ trực giác siêu phàm gọi là Bát nhã trí, thấy rõ Thực tại toàn chân. Người thường, trong phút lâm chung, sáu căn biến hoại cũng có được một lúc tâm không vọng động và lúc ấy nếu biết hướng về Phật pháp hoặc được bên ngoài trợ lực, nhắc nhở cho biết để hướng về nơi thanh cao siêu thoát, và hướng tới Phật, niệm Phật A Di Đà với tâm bất loạn thì có thể nhờ được Tha lực của chư Phật và Bồ tát cùng người bạn hộ niệm cho mình phối hợp với tinh thần của y lúc bấy giờ mà dắt y về cảnh Cực lạc Tây phương.

Về mặt vật lý (theo bản báo cáo của BS Nguyễn Khánh Dư về thành tích hoạt động của Bệnh viện Chợ Rẫy (Saigon) trong ngành chữa trị bệnh tim, đăng trong báo Saigon Giải Phóng) thì tâm là một chiếc máy bơm thần diệu bền bỉ hơn sắt, thép, có sức hút được một khối lượng máu, bằng cả một khối nước chứa đầy một cái hồ dài 10 cây số, rộng 7 cây số, và sâu 2,50 thước để nuôi cơ thể một người trung bình thọ 60 tuổi, hoặc có thể nâng bổng một cơ thể nặng 60 Kg lên tới đỉnh ngọn núi chọc trời Everest cao 8848 thước, bằng sức của nó chỉ mới tích luỹ trong vòng một tháng mà thôi ? Thế mà ta lại cứ tưởng nó yếu ớt tầm thường, không đáng kể !

- Tâm ấy gây sóng gió, làm cho đời người điên đảo, điêu linh mà cũng chính nó lại mở đường cho chúng ta nhập cảnh giới Niết bàn, hạnh phúc nên mới có câu:

Vị bất tòng thức pháp giới lưu,

Mạc bất hoành quy thức pháp giới.

Pháp giới ở đây là Pháp giới tính là tâm của vũ trụ mà cũng là tâm của con người, nơi xuất sinh vạn hữu, và là nơi vạn hữu quay về. Đó cũng là lý nghĩa của câu kinh: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Nếu tâm thức của con người mà không quân bình thì trời đất đều bị điên đảo, đảo điên.

Nếu Tâm con người mà ngả nghiêng nghiêng ngả, chỉ biết cái Ta, chẳng còn lưu ý đến cái tốt, cái hay và quyền lợi của thiên hạ thì bao nỗi mâu thuẫn, bất đồng, xâu xé nhau từ đó phát sinh. Bổn phận và lý tưởng của mọi người là đi theo con đường chính hướng về Chân, Thiện, Mỹ. Giữa hai nẻo Thiên đường và Địa ngục, con người có toàn quyền tự do lựa chọn. Bổn phận của ta là phải thoát ly cảnh mờ tối của tâm hồn vì vô minh che lấp ánh sáng của chân tâm để trở về với chân tính sáng suốt của mình. Bởi vì chân tâm là cái vô hình, vô tướng, khó hiểu và khó chỉ bày nên Phật mới phải mượn những vật hữu hình để chỉ cái vô hình vô tướng ấy, do đó mà kinh Phật, bộ nào cũng chứa đầy mật nghĩa khó hiểu.

Xét trong kho tàng kinh điển Phật giáo có hai bộ Kinh A Di Đà và Địa Tạng có những mối liên hệ mật thiết với nhau, vì cả hai đều được chọn làm Kinh cầu siêu cho người chết, do đó, luận về Kinh A Di Đà mà không bàn qua về Kinh Địa Tạng e bị lỗi thiếu sót.

b. Kinh Địa Tạng.

Cũng giống như Kinh A Di Đà, Kinh Địa Tạng là một bộ Kinh Đại Thừa liễu nghĩa, khế lý, khế cơ, viên đốn, Lý sự viên dung, có gì lợi cho người còn, người mất, bởi vì người sống nhờ đọc tụng các bộ Kinh này được giác ngộ, giải thoát, thì kẻ chết cũng nhờ các bộ Kinh này mà được chuyển nghiệp siêu sinh. Người Phật tử dốc lòng tin lời Phật dạy trong hai bộ kinh này mà tu theo về Sự hay Lý đến mức độ ba la mật đều đắc quả như nhau, cùng tăng trưởng Bi Trí, Phúc Tuệ, cùng đạt tới Lý Sự viên dung.

1. Về mặt Sự tướng: Theo Kinh điển thì Đức Địa Tạng là một người có thật (cũng như Phật A Di Đà là một vị Phật bằng thịt bằng xương), nếu không vì nguyện lớn độ tận chúng sinh trong cõi đời ô trược, ác thế này thoát vòng tử sinh thì Ngài đã thành Phật từ nhiều kiếp trước rồi. Ngài nguyện rằng: “Chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ đề. Địa ngục vị không thệ bất thành Phật”. Lời nguyện của Bồ tát Địa Tạng sâu rộng vô cùng, bởi vì đối tượng của Ngài vô tận. So với những nguyện lớn của Ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc, Quán Thế Âm Bồ tát, còn bao la vĩ đại hơn nhiều bởi vì dù các vị này có hiện ra trăm ngàn muôn ức hoá thân để tế độ chúng sinh khắp mười phương thế giới thoát vòng khổ đau, song những Phật sự của các vị này còn có lúc hoàn mãn, chứ nguyện của Ngài Địa Tạng thề cứu độ hết thảy chúng sinh trong sáu ngả, trải qua vô số kiếp như số cát của muôn ngàn ức sông Hằng thì thật là vô cùng tận. (Phẩm Địa Thần Hộ Pháp thứ 11 Kinh Địa Tạng. Chỉ có 48 lời nguyện của Phật A Di Đà mới sánh ngang với lời nguyện của Ngài Địa Tạng mà thôi).

* Tâm của Bồ tát Địa Tạng viên chiếu, tịch tĩnh, đồng thể với Phật. Vì nguyện độ lớn nên Ngài mới tự nguyện ở ngôi Bồ tát trong thời gian vô tận để hành đạo. Ngài có đủ cả tam Thân:

a. Pháp thân của Ngài Địa Tạng Bồ tát trùm cả tam thiên đại thiên thế giới, hoà đồng cùng vũ trụ.

b. Ứng thân của Ngài hiện diện tại cung Trời Đao Lợi khi Phật Thích Ca thuyết Kinh Địa Tạng cho hàng Trời và Bồ tát nghe. Lúc ấy Phật đã lấy tay xoa đầu Bồ tát Địa Tạng và giới thiệu Ngài với Trời Đế Thích.

c. Báo thân của Ngài ví như thân của Thánh nữ Bà la môn Quang Mục trong Kinh Địa Tạng. Như vậy theo Kinh điển, về mặt Sự, rõ ràng Đức Địa Tạng Bồ tát là một nhân vật lịch sử (cũng như Phật A Di Đà), có đời sống như người thường, nghĩa là có tu hành, phát thệ và có mật độ, không thể bảo Ngài là một nhân vật huyền thoại, có danh vô thực, cũng như không thể bảo Pháp Tạng Tỳ kheo, tiền thân Phật A Di Đà là một nhân vật bịa đặt. Theo tục lệ người đời thường vẽ hoặc đắp tượng Ngài giống như một vị Hoà thượng, tay cầm viên minh châu để soi đường nơi âm phủ, và cây tích trượng để phá cửa ngục thiết vi, giải thoát cho những vong hồn tù đày.

* Trong Kinh Địa Tạng, Phật Thích Ca đã giới thiệu Ngài Địa Tạng cho Trời Đế Thích rõ, cũng như Phật đã từng giới thiệu cảnh Cực lạc Tây phương cho Hoàng Hậu Vi Đề Hy hay và cũng như Phật đã tự giới thiệu mình với hàng đệ tử là Ngài chính là em ruột Phật A Di Đà trong tiền kiếp. Ta phải tin lời Phật dạy trong những trường hợp này bởi vì Phật không bịa đặt bao giờ cả. Đã tin lời nguyện của Phật A Di Đà thề độ tận chúng sinh trong khắp các nẻo mê đồ, hễ kẻ nào thành tâm niệm danh hiệu Phật tới mức nhất tâm bất loạn thì được thoát ly sinh tử, được về thế giới Cực lạc Tây phương thì ta cũng phải tin lời nguyện của Bồ tát Địa Tạng thề cứu vớt hết thảy chúng sinh khỏi khổ đau và thoát ly địa ngục vô gián. Bởi nặng lòng thương chúng sinh sống trong cảnh nhà lửa bốn bề đốt cháy, và bởi Phật đã rõ những lời đại nguyện của Bồ tát Địa Tạng về tiền kiếp nên Phật đã uỷ thác cho Bồ tát Địa Tạng trong thời gian Phật không còn tại thế và Đức Di Lặc chưa xuất hiện để cứu đời, lãnh lấy trọng trách độ hết chúng sinh cương cường khó dạy, còn ngụp lặn trong biển sinh tử nhất là ở cõi địa ngục trần gian này, cũng như ở mọi nơi uế độ khác đều được giải thoát khỏi bát nạn tam đồ. Đức Địa Tạng đã vâng chịu, nhận lãnh lời phó thác ấy tới ba lần. Đọc tới đoạn Kinh trên, ai là người chẳng cảm động trước tấm lòng Từ Bi cao cả và tuyệt đối của bậc Thánh cứu thế ấy ?

Theo Triết lý thì Kinh Địa Tạng được gọi là Hiếu Kinh, một bộ Kinh dạy về chữ Hiếu đứng hàng đầu. Trong Kinh Địa Tạng, Phật dạy: “Phận làm con phải thờ cha mẹ, cố giữ chữ hiếu đạo đối với mẹ cha mới đền đáp được công ơn sâu dầy dưỡng dục sinh thành”.

Nhưng cha mẹ của chúng ta là những ai ?

- Theo lời Phật dạy ông A Nan trong kinh Đại Báo Phụ Mẫu trọng ân thì không những chúng ta có cha mẹ trong đời hiện tại, mà ta còn có cả phụ mẫu trong các kiếp quá khứ nữa. Đống xương khô của vô số chúng sinh, trong hằng hà sa số kiếp về trước, có thể là hài cốt của cha mẹ ta, bởi vì trong muôn lần kiếp tái sinh, ta đã phải đoạ hết làm loài nọ lẫn loài kia, thì trong chuỗi dài vô tận của thời gian, tất cả chúng sinh trong khắp các cõi mê đồ, người còn kẻ mất đều có thể là cha mẹ của chúng ta, chỉ vì vô minh che khuất bản tâm thanh tịnh mà ta không nhận ra đó thôi. Hiểu lẽ đạo làm con phải hết lòng hiếu kính đối với cha mẹ khi còn, khi mất để đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục trong muôn một, lại hiểu rằng chúng sinh đều có thể là phụ mẫu của mình, thì cũng hiểu được vì sao Phật A Di Đà đã nguyện độ tận chúng sinh, ai nhắc tới tên Ngài đều được Ngài đưa về cõi Tây phương Cực lạc. Bồ tát Địa Tạng đã nguyện cứu vớt chúng sinh thoát khỏi ngục A Tỳ và Bồ tát Quán Thế Âm cũng như các Bồ tát khác lại phân thân ứng hiện khắp nơi, dưới mọi hình tướng để cứu giúp muôn loài khổ đau. Đối với người có tâm Bồ tát thì chúng sinh là những vị ân nhân bởi vì nếu vắng bóng chúng sinh thì Bồ tát không có dịp may để hành đạo và chứng quả Bồ đề, luyện Tứ Vô Lượng Tâm và Lục độ ba la mật.

* Theo lý Tương tức, tương nhập và bình đẳng trên mặt thể tính thì mình là chúng sinh, chúng sinh là mình. Sự sống của muôn loài trên trái đất đều linh thiêng như nhau, và không có loài nào phải hy sinh tính mạng mình cho loài khác để họ được đỏ da thắm thịt cả. Đứng trước thảm cảnh những con thú bị thọc huyết phanh thây, tiếng kêu la thảm thiết, dẫy dụa trên máu đỏ lòm, hay giương đôi mắt lờ đờ nhìn cảnh vật chung quanh ai là người có chút từ tâm lại chẳng mũi lòng, thương xót ? Không ai có quyền được dùng trí óc khôn lanh của mình để săn, bẫy, giết hại muông thú, hòng thoả mãn lòng tham ích kỷ và tính hiếu sát của mình ! Cũng vì nhớ tới công lao của chúng sinh đã tạo cho mình nguồn sống mà người có đạo tâm không nỡ sát sinh súc vật và phải ăn chay suốt đời.

Hiểu được lẽ chúng sinh có thể là phụ mẫu của ta trong tiền kiếp, chúng sinh đồng một bản thể với ta, và là những vị Phật sẽ thành thì cũng hiểu được vì sao mà ta phải có tâm vô phân biệt, không nên tự kiêu, coi oán thân không khác và phải sống với chân lý Bất Nhị, Một là Tất cả và Tất cả là Một.

Trong Kinh Hoa Nghiêm có câu: “Ở sa mạc có một hồ nước. Trên bờ mọc lên một gốc đại thụ cành, lá, hoa quả sum xuê. Nước ở trong hồ ví như chúng sinh. Rễ cây, thân cây và cành, lá tượng trưng cho Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, còn hoa quả là Phật. Nếu không có nước ở trong hồ thấm nhuần vào rễ thì cây ấy không mọc được để nẩy chồi, đâm lộc sinh hoa kết trái”. Quả Phật thuộc về chúng sinh. Nếu không có chúng sinh thì Bồ tát không có nơi nương tựa để hành đạo và thành tựu được quả vị Bồ đề. Cũng vì lẽ đó mà các khoá lễ Phật đều kết thúc lời Kinh bằng hồi hướng công đức khắp tất cả, âu cũng là nghĩa cử thông thường nhằm nghĩ đến ân sâu đối với chúng sinh.

Người học đạo Phật cần phải hiểu đạo Phật, hiểu đạo không phải chỉ là nghiên cứu Kinh điển, mà còn phải trải qua một quá trình lâu dài thấy Đạo, hành Đạo và chứng Đạo tức là hiểu Đạo qua thực nghiệm của bản thân, vượt ra ngoài lý luận viễn vông, nghĩa là phải đi qua nhiều chặng đường thử thách của Tri Hành hợp nhất. Những mớ hiểu biết lỏng lẻo, lý thuyết ban đầu rất cần thiết. Đó là phần tư lương dự trữ trong bọc hành lý buổi đăng trình. Nhưng Trí có thể dễ mà Hành mới thật là khó. Người học đạo Phật chịu khó nghiên cứu và nghe những lời thuyết pháp có thể hiểu được Phật pháp phần nào, nhưng làm những lời vàng ngọc của Phật dạy thì ít ai làm được, chỉ có Phật mới làm theo đúng những lời mình đã nói. Hiểu thiên kinh vạn điển còn dễ, chứ Hành, dù chỉ một chữ thôi (như chữ Xả, chữ Nhẫn, chữ Hiếu chẳng hạn) thực khó vô cùng ! Do đó, đôi khi ta phải coi Hành nặng hơn Tri. Hiểu thì phải cố gắng hành trì theo như mình đã hiểu. Nếu Tri mà không Hành, Lý mà thiếu Sự thì Lý phỏng có ích gì ?

Nếu ta coi chúng sinh những kiếp trước và kiếp này đều là ân nhân của ta thì ta phải hết lòng nhớ ơn họ, và phải làm đúng theo lời Phật dạy.

Trong Kinh Địa Tạng, Phật đã chỉ bảo tường tận bổn phận làm con phải giữ hiếu đạo đối với cha mẹ, mà một việc cần phải làm là dâng lễ cầu siêu cho cha mẹ quá cố. Phật sự này nhằm đạt hai lợi ích cụ thể, vừa độ sinh lại vừa độ tử như sau:

1. Đối với người còn sống thì dậyi nấy phải hết lòng hiếu kính đối với cha mẹ, dù phải khoét mắt, cắt da, lóc thịt để làm thuốc thang cứu chữa cho cha mẹ mắc bệnh cũng không đền đáp được công ơn dưỡng dục một trong muôn phần.

2. Đối với người chết, trong thời gian hấp hối, thần thức hay thân trung ấm hãy còn, phần hồn chưa lìa khỏi xác, mặc dù xác thân bất động nhưng thần thức hãy còn nghe và cảm thọ chính là lúc nghiệp lực nổi dậy chiêu cảm, và cũng là thời gian thuận tiện nhất để chuyển nghiệp nặng thành nghiệp nhẹ, và nghiệp nhẹ được tiêu tan, do đó mới có tục lệ muốn cho người chết được hưởng lợi ích để chuyển nghiệp thì thân nhân của họ thường tổ chức những buổi tụng Kinh A Di Đà hay Địa Tạng để cầu siêu cho người chết, mong thoát ly cảnh khổ địa ngục và được siêu thăng về cảnh giới Cực lạc, Niết bàn, có ý nghĩa thoả mãn lòng hiếu và xót thương của người sống đối với người đã qua đời, đó là một mỹ tục và việc làm đúng theo lời Phật dạy. Tóm lại, về mặt Sự Tướng thì tín ngưỡng về sự hiện hữu của Phật A Di Đà cũng như của Bồ tát Địa Tạng đã khắc sâu vào tâm khảm của quảng đại tín đồ Phật giáo xuyên qua các kinh điển và hình tượng của các Ngài, những vị Phật và Bồ tát cứu nhân độ thế có những đại nguyện rộng lớn như nhau. Tín ngưỡng đó không bao giờ phải lạt, bởi vì về mặt tâm lý quần chúng thì Đức Phật A Di Đà cũng như Bồ tát Địa Tạng là những điểm tựa tinh thần vững chắc và cần thiết để người đời an tâm, tin hễ cứ niệm Phật A Di Đà hay cầu nguyện Bồ tát Địa Tạng thì người sống, kẻ chết đều được lợi ích cả.

Đối với người còn sống, việc niệm hồng danh A Di Đà là phương pháp thần diệu để an tâm, tĩnh trí, phá tan phiền não để trở về với Phật tính, Chân Tâm. Việc tụng Kinh Địa Tạng, cầu siêu cho người chết, dạy người đời chữ Hiếu, nhắc nhở ai nấy làm tròn đạo làm con, tỏ lòng biết ơn đối với người khuất bóng.

3. Đối với người đã chết thì chuyển được nghiệp nặng biến thành nghiệp nhẹ, và nghiệp nhẹ được tiêu tan. Tin như vậy là chính tin. Muốn cho đức tin thành tựu được công đức tốt lành thì việc lễ bái, cúng dường, cầu siêu, niệm Phật phải được thực hành đúng cách (không sát sinh không đốt vàng mã), làm với tâm thành tuyệt đối, vì thiếu tâm thành thì tín ngưỡng chẳng sâu xa và quả đạt được chẳng đáng là bao, người sống kém phần lợi lạc, mà người chết lại càng hưởng phúc ít hơn. Phật dạy: Kẻ hết lòng tôn kính và biết ơn Như Lai là kẻ đã hành trì đúng theo lời Phật dạy. Chính kẻ ấy đã làm cho giáo pháp của Như Lai trường tồn trên thế gian này.

2. Về mặt Lý tính: Kinh A Di Đà cũng như Địa Tạng, hoặc bất cứ một bộ Kinh liễu nghĩa nào khác của đạo Phật đều nhằm mục tiêu thanh tịnh hoá tâm của con người đọc tụng. Xét về ý nghĩa những danh từ Địa Tạng, U Minh, Bản Tôn và địa ngục, ta thấy:

Địa là đất; Tạng là chỗ chứa.

Đất có tính chất cứng rắn, sâu dầy, dung chứa muôn loài. Hạt giống nào gieo xuống đất được chăm sóc, gặp duyên lành đều mọc thành cây, đâm hoa kết trái. Lấy đất dụ cho tâm con người nên mới có danh tự Tâm địa. Bởi vì đất khó đo lường được mức độ nông sâu nên tâm con người, cũng như đất, khó đoán được tầm mức nông sâu. Bởi bản thể của tâm vô hình vô tướng, không đập phá nổi, nên đất cũng như tâm cứng rắn và trường tồn. Bởi tâm con người thiếu từ bi, đầy tham vọng, vị kỷ, cũng như đất thiếu nước sẽ khô cằn, không gieo trồng gì được. Tâm như bầu thái hư, bao trùm tất cả, không vật gì ở ngoài tâm, tâm sinh ra vạn hữu, rồi vạn hữu lại trở về với tâm, cũng như mọi vật đều từ đất sinh ra rồi lại trở về với lòng đất nên tâm cũng như đất, bất sinh, bất diệt, rộng lớn vô lượng vô biên.

U Minh là tối tăm, hắc ám như lòng đất. Lấy cái tối tăm của địa ngục để dụ cho cái đen tối vô minh trong lòng người mê muội. Mặt biển tuy rộng song không bằng bầu trời bao la. Bầu trời tuy mênh mông bát ngát song đã thấm gì với lòng người rộng lượng vô biên ? Nhìn vào đâu mà thấy có ánh hào quang rực rỡ hay có bóng tối đen ngòm bằng nhìn vào lòng người thanh cao đạo đức hay nham hiểm thâm trầm ?

Bản là gốc, ám chỉ nguồn gốc của muôn loài là đất hay tâm.

Tôn là kính trọng. Bản Tôn là vật đáng kính trọng, quý báu trong ta. Đó là tâm, phần quý giá nhất trong cơ thể của một sinh vật.

Như vậy về mặt Lý Tính thì Địa Tạng là danh từ chỉ cái gì cực kỳ tôn quý trong con người, có khả năng phá tan vô minh phiền não và giải thoát con người ra khỏi địa ngục hắc ám, thoát vòng khổ đau, dẫn con người từ địa vị phàm phu tiến tới nơi cao quý là nhập Niết bàn, thành Phật.

Danh từ Địa Tạng đồng nghĩa với danh từ Pháp Tạng (một ẩn danh của tâm), và Bồ tát Địa Tạng cũng chỉ là một cái tên ngụ ý như Pháp Tạng Tỳ kheo (tức Phật A Di Đà trong tiền kiếp) và Bồ tát Địa Tạng cũng như Phật A Di Đà (Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Công Đức) chỉ là những danh từ có tên không thực, tượng trưng cho tâm con người mà thôi.

Còn địa ngục là gì ? Theo Phật học đại Từ điển thì địa ngục (tiếng Phạn là Naraka hay Niraya) có nghĩa là nơi chứa đầy khổ não, chốn tù đày chẳng lúc nào yên vui cần phải được thoát ly ra khỏi. Mà địa ngục sâu kín nhất trần gian chính là địa ngục thiết lập trong tâm hồn của mỗi cá thể. Đó là thứ địa ngục khổ hơn mọi thứ địa ngục và cũng xuất phát mọi quang cảnh khổ đau nơi trần gian. Khi ngọn lửa tâm tư bùng cháy trong mỗi cá nhân thì ngọn lửa khổ đau của toàn thể nhân loại không sao dập tát nổi. Bởi tâm trạng của thế giới loài người là phản ảnh trung thực của đời sống nội tâm và cộng nghiệp của nhân loại là tổng số các biệt nghiệp của từng cá nhân. Thế giới ngoại cảnh biến hiện tuỳ thuộc vào sự biến đổi của tâm thức mỗi người và của toàn thể quần chúng. Khi đôi mắt đã đỏ ngầu cuồng vọng tham tàn thì cảnh vật bên ngoài sao không ngập tràn khói lửa ? Nhìn tha nhân qua sương mù cách biệt, ảm đạm, thì sao thấy được cảnh đời lung linh mầu sắc ? Trái lại, nếu dùng con mắt Phật mà “từ nhãn thị chúng sinh” thì sao còn diễn ra cảnh đâm chém giết nhau trên chiến trường không thương xót ? Đeo cặp kính màu đen thì cảnh vật hiện ra trong một mầu ảm đạm. Nhìn thiên hạ qua cặp kính màu hồng thì cõi trần gian này hoá thành Tiên cảnh, Bồng lai.

* Kinh A Di Đà cũng như Kinh Địa Tạng chứa đựng một chân lý: khuyên người đời nên trở về với Chân Tâm, diệt trừ vô minh để hiển bày Tự tính Di Đà hay Phật tính của mình. Với ý nghĩa trên thì Ngài Địa Tạng Bồ tát chỉ là một vị Bồ tát tiêu biểu cho những đức tính kiên quyết mong đạt tới Chân Tâm, bản tính của mình. Đó là người đã dùng trí tuệ Bát Nhã và ý chí sắt đã muốn diệt trừ phiền não, phá tan hắc ám vô minh để trở về với tự tính sáng suốt thanh tịnh của mình. Khi nào tâm ta buồn phiền, tuyệt vọng, bứt rứt, khổ đau, bị cuồng nộ vò xé, thì lúc đó ta đang sống trong địa ngục tối đen. Sống trong địa ngục vô gián là sống trong ngu muội, si mê triền miên, tâm bị đảo điên cuồng loạn. Người bị giam trong ba nghiệp thân, khẩu, ý cũng ví như người bị tù đày trong địa ngục thiết vi khó thoát.

* Kinh Địa Tạng nói: Trong việc cứu độ chúng sinh thì lời nguyện của Bồ tát Địa Tạng thâm trọng hơn cả bốn vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm và Di Lặc. Ý Kinh muốn nói: Muốn được giải thoát khỏi khổ đau thì ngoài bốn đức tính: Trí tuệ (của Ngài Văn Thù), Hạnh nguyện (của Phổ Hiền), Đại Bi (của Quan Âm) và Đại Từ (của Di Lặc), còn cần phải có lòng dũng cảm, cương quyết và tinh tiến (của Địa Tạng) với hạt minh châu và cây tích trượng trong tay tiêu biểu cho Trí sáng suốt và lòng dũng cảm, quyết tâm thoát cảnh vô minh, ra khỏi ràng buộc của lục dục, thất tình, để được tự do, hạnh phúc.

Trong đoạn kinh nói về Bồ tát Địa Tạng nhận lãnh trọng trách cứu vớt chúng sinh từ thời Đức Thích Ca Niết bàn đến thời Đức Di Lặc ra đời, ý Phật muốn nói: Gặp thời mạt pháp, không có Phật tại thế thì phải nương tựa vào tâm mình. Quy y Bồ tát Địa Tạng của mình, mong được giải thoát phải có đủ hai điều kiện là Thệ và Nguyện.

Thệ là thề cương quyết hành động, không rụt rè lùi bước trước mọi khó khăn cản trở, do nội ma và ngoại ma thử thách lòng mình. Nguyện là phải thiết tha mong đạt tới mục tiêu. Muốn được thoát nạn, khỏi khổ đau mà không thề với lương tâm mình sẽ không tái phạm, lại chẳng cương quyết diệt trừ phiền não, vô minh thì không thể thành công được. “Nhất thiết duy tâm tạo” thì Cực lạc, Niết bàn hay Ta bà, địa ngục đều ở tâm ta và do ta tự tạo cả. Những gì ta tạo được thì ta cũng phá được, do đó chỉ có Bồ tát Địa Tạng của mình (hay tâm ta) mới phá được địa ngục do ta tạo ra, và chỉ có Phật A Di Đà của ta (hay tâm mình) mới dẫn ta tới miền Cực lạc được. Người theo về Lý bảo rằng: Nếu tin có Đức Địa Tạng và tin rằng Ngài có đủ  khả năng phá tan địa ngục để giải cứu cho chúng sinh có tội cũng như tin có Phật A Di Đà và tin luôn rằng Phật A Di Đà có thừa hùng lực dẫn dắt chúng sinh, dù nặng nghiệp về cõi Cực lạc Tây phương thì chẳng hoá ra luật nhân quả nghiệp báo lại chẳng có tác dụng sao ? Nếu sinh thời mà con người tha hồ gây tội ác, rồi ỷ lại, sau khi chết đã có người sống bỏ tiền ra thiết lễ cầu siêu đọc tụng các bộ Kinh A Di Đà và Địa Tạng, nhờ oai lực của Bồ tát Địa Tạng phá tan cửa ngục thiết vi để cứu vớt vong linh kẻ có tội ấy thoát khỏi địa ngục, rồi lại nhờ tha lực hùng hậu của Phật A Di Đà và Thánh chúng tiếp dẫn vong linh kẻ đầy nghiệp ác ấy về cõi Cực lạc Tây phương, thì chẳng hoá ra các Ngài lại nhận sự lạy lục, cúng dường của thân nhân họ mà cứu vớt họ thoát khỏi ngục tù và cho họ hưởng hạnh phúc đời đời hay sao ? Nếu muốn được giác ngộ giải thoát, diệt trừ vô minh để trở về với Chân Tâm thanh tịnh của mình thì bất cứ bộ Kinh Phật nào liễu nghĩa dùng để tụng cũng đều công hiệu cả, nhưng dùng Kinh A Di Đà và Địa Tạng để mong giải thoát khổ đau được kết quả hoàn toàn theo ý muốn của người sống thì khó đạt được lắm, bởi vì Kinh Địa Tạng, phẩm thứ 7 có nói: Nếu thân nhân người quá cố biết cách cúng dường và tụng Kinh đúng phép thì trong bảy phần công đức, người chết chỉ được hưởng một phần, với điều kiện là thần thức của người chết biết hướng về Phật pháp, ăn năn sám hối, có Tín Tâm sâu xa, nghĩa là tha lực phải cộng với tự lực mới mong được cứu vớt. Ta nên biết rằng trong lúc ta nằm mộng khi còn sống, hay thời gian sau khi chết, còn ở trong thân trung ấm, thần thức chưa đi đầu thai kiếp khác thì Tiềm thức trở thành Thức và lúc đó là thời gian quyết định cho cuộc đời sau của mình. Nếu trong đời vừa qua ta làm được nhiều việc thiện thì Tiềm thức tạo ra những giấc mơ êm đềm đưa hồn ta vào cõi Niết bàn tưởng tượng, nhưng nếu trong cõi đời qua, ta lại làm nhiều điều ác thì sẽ có những giấc mộng hãi hùng đưa hồn ta tới địa ngục tưởng tượng để phải chịu cực hình. Song nếu Niết bàn hay địa ngục chỉ là những nơi tưởng tượng thì sự khổ đau, sợ hãi hay sung sướng, mừng vui trải qua trong thời gian đó, đối với người trong cuộc lại là sự thực, cũng như lúc thôi miên, Pháp sư tạo ra những cảnh vui buồn, sướng khổ tưởng tượng, song kẻ bị thôi miên lại cảm thấy thật sự có buồn vui, sướng khổ trong cơn hôn mê, chẳng khác nào kẻ bị mê sảng phải chịu cực hình trong cơn ác mộng vậy. Những hành động thiện hay ác đều để lại trong A lại da thức hay Tiềm thức những tấm âm bản (Plaque négative) hay hạt giống để hiện hình trong kiếp sau như những tấm âm bản trở thành dương bản trong cuốn phim ảnh được chiếu ra.

Như vậy thì sướng hay khổ, Cực lạc hay Ta bà đều do tâm tạo, và Đức Phật A Di Đà cùng Bồ tát Địa Tạng cũng do tâm ta tạo ra mà thôi. Ta không làm điều ác chẳng phải vì lo sợ Trời, Phật bắt tội, phải chịu hình phạt đoạ địa ngục. Ta phải hiểu rằng chính bản thân ta phải trả giá đắt vì những hành vi phạm tội của mình.

Khi ta làm điều thiện thì gây được quả báo tốt lành cho mình được hưởng, dù ta không lưu tâm đến việc thiện đó. Cũng chẳng phải là Phật, Trời đã ban phúc cho ta khi ta làm điều lành. Chính ta tự ban thưởng cho mình nếu ta làm được điều thiện. Nghiệp báo là mối quan hệ theo luật nhân quả và biểu hiện cho hai phương diện: hoạt động tâm lý và hưởng thụ hoạ phúc. Người toạ nghiệp lành làm cho mình thành người tốt và tự cảm thấy mình được hạnh phúc do việc làm của mình gây ra, còn người tạo nghiệp ác thì trái lại.

* Nếu hiểu rõ lý “Nhất thiết duy tâm tạo” thì ta quyết phải thực hiện lời Phật dạy: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”, dù việc làm của ta không ai chứng kiến, ta cũng cố gắng làm điều thiện, tránh điều ác. Ta chẳng quan tâm, lo buồn vì đại nghĩa chưa thành, và quả tu chưa viên mãn tới lúc lâm chung. Hoặc nếu ta đã trót gây nghiệp ác lúc sinh thời thì ta cũng chẳng nên nghĩ rằng chết là hết, bởi lẽ bánh xe nhân quả nghiệp báo vẫn âm thầm lăn đều qua không gian và thời gian.

Kính thưa quý vị,

Trong phần bình luận về Kinh Địa Tạng ở trên, tôi đã đưa ra những ý kiến khách quan và tương phản của hai phái: một bên thiên về Sự Tướng, tin có Bồ tát Địa Tạng bằng thịt, bằng xương; một bên thiên về Lý Tính, cho rằng vị Bồ tát ấy tượng trưng cho tâm con người muốn tích cực thoát ly đau khổ, diệt trừ vọng niệm để trở về nguồn thanh tịnh của bản tâm hồi nguyên thuỷ. Cả hai phái đó đều lấy Kinh Địa Tạng làm căn bản để biện minh cho lập trường của mình. Một bên theo nghĩa đen, một bên theo nghĩa bóng; một bên theo Sự Tướng hay pháp Hữu vi, một bên theo Không Tính hay pháp Vô vi; một bên hướng ngoại cầu Tha lực, nặng về lễ bái, tín ngưỡng (như phái Sự trì danh của tông Tịnh độ thuần tuý), một bên thì xoay ngược luồng nhãn quang, hướng nội, nương vào Tự lực, quán chiếu tự tâm, hay “minh tâm kiến tính” (như phái Lý trì danh hiệu Phật của Thiền Tịnh song tu); một bên tu theo Phúc, một bên tu theo Tuệ, nhưng Tính Tướng vốn Bất Nhị, Lý Sự vốn không hai, bên nào cũng làm theo lời Phật dạy cả. Bởi vậy, người tu, tuỳ theo tình cảm và trình độ của mình mà chọn lối tu, không nên bài bác lẫn nhau. Tốt hơn hết là nên theo cả lối tu Phúc lẫn tu Tuệ, luyện cả Bi lẫn Trí, chẳng nên bám chặt vào Có hoặc Không. Theo về Sự hay tu Phúc thì được quả báo tốt lành, được sinh về Cõi Tây phương Cực lạc, tiếp tục đường tu, không sợ chướng ngại làm cho tâm thoái chuyển. Cho nên những vị Đại Bồ tát như Di Lặc, nhất sinh bổ xứ, tuy đã ngộ được tâm thanh tịnh rồi, nhưng vẫn tiếp tục hành trì tu Phúc, chuyên cần niệm Phật A Di Đà, cầu được vãng sinh Tịnh độ, không bỏ lỡ cơ hội nào chẳng lập đức bồi công, sáu thời siêng năng sám hối để tiêu trừ sạch nghiệp chướng tế vi cho mau chóng đạt tới ngôi chính đẳng, chính giác, đủ cho chúng ta thấy không thể bỏ Sự mà thuần theo về Lý được.

Với công đức thậm thâm vi diệu của sáu chữ hồng danh, cộng với sự tinh tiến hành trì thì mỗi câu niệm Phật diệt được một phần vô minh, trừ được một phần phiền não, hưởng được hai phần Phúc - Trí, lần lần hành giả đi sâu thêm vào cảnh giới thanh tịnh Chân Như.

Xem tiếp Phần3 (2)

---o0o---

Tiêu điểm:
Các tin đã đăng: