Luận tạng Bắc truyền
Dị bộ tôn luân luận
Bồ-tát Thế Hữu tạo Tam Tạng pháp sư Huyền Tráng dịch chữ Hán Nguyên Tuấn dịch và chú thích
26/07/2554 23:43 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Nguyên Do Phát Khới

DỊ BỘ TÔN LUÂN LUẬN
Bồ-tát Thế Hữu tạo
Tam Tạng pháp sư Huyền Tráng dịch chữ Hán
Nguyên Tuấn dịch và chú thích
 
 
1. NGUYÊN DO PHÁT KHỞI
Sau khi đức Thế Tôn,
Đã nhập Bát-niết-bàn,
Thời gian đã trãi qua,
Được hơn một trăm năm.
Bấy giờ trong Thánh giáo,
Xuất hiện các bộ phái,
Từ đó liền phát sanh,
Các điều chẳng lợi ích.
Chính vì bám chấp vào,
Điều dị biệt như thế,
Nên lần lượt phát sinh
Thêm các bộ phái khác.
Vì thế nên phải nương,
Những lời đức Phật dạy,[1]
Phân biệt chấp dị ấy,
Để họ sanh nhàm chán.
Thế Hữu, bậc Bồ-tát,
Đầy đủ trí tuệ giác,
Xuất gia trong dòng Thích,
Hành hạnh chân tỷ kheo,
Thấy cảnh tượng như thế,
Liền suy nghĩ đắn đo.
Lại bình đẳng quán sát,
Khắp tất cả thế gian,
Nào quan điểm luận thuyết,
Cứ trôi nổi quay cuồng,
Rồi công kích đả phá,
Lời dạy của Thế Tôn.
Căn cứ các quan điểm,
Ngài phân giải rõ ràng,
Rằng tất cả phải nên,
Thấy rõ lời Phật dạy,
Hoàn toàn nương dựa vào,
Thánh đế làm tiêu chuẩn.[2]
Cũng ví như có người,
Đãi vàng từ trong cát,
Người phật tử cũng thế,
Phải chọn điều chân thật.


[1]Hán bản dùng chữ A-cấp-ma 阿笈摩, (hay còn gọi là A-hàm,A-già-ma, A-hàm-mộ),được phiên âm từ chữ Āgama, được dịch ý là Pháp quy, Pháp bản, Pháp tạng, Giáo pháp... chỉ cho các bộ kinh căn bản của Phật giáo viết bằng Phạn văn, tập hợp các giáo lí cơ bản mà Phật đã từng thuyết giảng như Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Duyên khởi, Nghiệp... nội dung giống các Bộ kinh (pi. Nikāya) thuộc văn hệ Pali. Các học giả hiện đại giải nghĩa thuật ngữ Āgama từ gốc ā√gam tiếng Phạnđi đến và dịch là Thú quy, Tri thức, Thánh ngôn, Thánh huấn tập.
Có bốn bộ: 1) Trường A-hàm (長阿含, sa. Dīrghāgama); 2) Trung a-hàm ( 中阿含, sa. Mādhyamāgama); 3) Tạp a-hàm (雜阿含, sa. Saṃyuktāgama); 4) Tăng nhất a-hàm (增壹阿含, sa. Ekottarikāgama).
 
[2] Thánh đế 聖諦 chính là Tứ thánh đế. Có thể nói toàn bộ giáo pháp được đức Phật giảng thuyết đều y cứ trên Tứ thánh đế, nếu có pháp nào không y cứ trên Tứ thánh đế thì đó không phải lời đức Phật dạy. Trong Đại Kinh Dụ Dấu Chân Voi, đức Phật dạy: “Chư hiền giả, ví như tất cả dấu chân của mọi loài động vật đều bị nhiếp trong dấu chân voi, vì dấu chân này là lớn nhất trong tất cả dấu chân về mặt to lớn. Cũng vậy chư hiền giả, tất cả các thiện pháp đều tập trung trong Tứ thánh đế” (VNCPHVN, Trung bộ I, tr. 184).
Hay như trong kinh Lá rừng Simsapā(Tương ưng, tr. 442), đức Phật dạy rằng những gì Ngài biết thì như lá cây trong rừng còn những gì ngài giảng dạy thì như lá trong lòng bàn tay của ngài. Sở dĩ Ngài không dạy tất cả bởi những điều ấy không phải là căn bản của đời sống phạm hành, không đưa đến ly tham, giải thoát, Niết bàn, tịch tịnh. Còn những điều Ngài dạy đều nói đến Khổ, Khổ tập, Khổ diệt và Con đường đưa đến Khổ diệt. Vì sao? Vì những điều ấy liên hệ đến mục đích, là căn bản cho đời sống thanh cao, đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
Ở đây, ngài Thế Hữu muốn nói rằng nếu các bộ phái không nương vào Tứ thánh đế để xác định Khổ và con đường diệt khổ mà đặt điều tranh luận thị phi, tranh nhau hơn thua phải trái thì tất cả đều phi phật pháp, vì nó không liên quan đến phạm hạnh, giải thoát và rốt cuộc chỉ đi đến khổ đau.

Tiêu điểm: