Thiền học
Căn bản thiền tập
Tác giả: Thích Thông Huệ
15/02/2553 10:20 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

PHƯƠNG PHÁP TOẠ THIỀN

Trong tinh thần của quyển sách này, chúng tôi chú trọng trình bày những nguyên tắc căn bản về công phu thiền tập, để các thiền sinh có những bước đầu vững chắc trên đường tu. Những chi tiết về tọa thiền nói riêng và thiền tập trong mọi lĩnh vực nói chung, sẽ được đề cập đến một cách cụ thể trong một quyển sách khác[1].

Nguyên tắc chung khi tọa thiền là dùng chánh niệm làm căn bản. Từ lúc thực hiện các nghi thức lễ Phật, sau đó chuẩn bị nhập thiền… cho đến khi xả thiền, chúng ta đều đặt tâm ngay thời điểm hiện tại. Thường chúng ta có thái độ vội vàng khi chuẩn bị, xem lúc tọa thiền mới là lúc tu, mà không hiểu rằng, những hành động sửa soạn cho những giờ ngồi thiền cũng là những nghi lễ thiêng liêng không kém. Cho nên, trong lúc động dụng nói năng, nếu chúng ta có chánh niệm, thì khi tọa thiền chúng ta càng dễ đạt được kết quả tốt.

Thời khóa công phu không cố định, tùy thuộc hoàn cảnh gia đình và sức khỏe của mỗi thiền sinh. Nói chung, cần sắp xếp giờ tọa thiền vào lúc chúng ta rảnh việc, trong nhà tương đối yên tĩnh, lại không quá khuya. Cũng không nên tọa thiền ngay sau khi ăn no, vì ảnh hưởng đến tiêu hóa và dễ bị hôn trầm. Tại các thiền viện thuộc Thiền phái Trúc Lâm, mỗi ngày tọa thiền 2-3 lần, mỗi lần 1-2 giờ. Quý vị cư sĩ vì bận bịu gia duyên, số giờ và số lần tọa thiền có thể ít hơn, nhưng tối thiểu cũng phải một lần mỗi ngày.

Chướng ngại trong công phu tọa thiền, đáng kể nhất là hôn trầm và trạo cử. Đối với hôn trầm, ngoài lý do ăn uống nói trên và sức khỏe (thiếu ngủ, quá mệt mỏi do công việc, đau ốm...), còn do chúng ta chưa nắm vững phương pháp tọa thiền. Một số thiền sinh, bình thường không buồn ngủ, thậm chí khi nằm trên giường cũng trằn trọc không ngủ được, nhưng chỉ ngồi thiền một lát là rơi vào vô ký hay hôn trầm. Chúng ta thường gọi là “bị ma ngủ tấn công”. Lúc ấy, nên mở mắt lớn ra và thở mạnh vài hơi, rồi chỉnh thân lại ngay ngắn, tiếp tục tọa thiền. Nếu vẫn còn buồn ngủ, nên đứng dậy đi thiền hành vài vòng hoặc ra rửa mặt cho tỉnh táo. Luôn luôn có quyết tâm, không chịu thua “con ma ngủ”, như thế một thời gian sẽ khắc phục được chướng ngại này.

Trạo cử gồm khẩu trạo, thân trạo, ý trạo. Khẩu trạo là miệng nói liên tục không ngừng, thân trạo là đứng ngồi không yên, ý trạo là tâm nghĩ ngợi lung tung, hết chuyện này đến chuyện khác. Khi tọa thiền thì miệng không nói nên không có khẩu trạo, nhưng còn thân và ý thì cần phải công phu. Thân có yên thì tâm mới an định. Mọi cảm giác đau tê ở chân tay, nóng bức ngứa ngáy hay khó chịu ở thân... là những khổ thọ. Chánh niệm trên các khổ thọ ấy mà không tìm cách tránh né hay đè bẹp nó, một thời gian các khổ thọ sẽ được chuyển hóa. Lúc tâm an định, chúng ta thấy thời gian qua rất nhanh, các cảm giác khó chịu ở thân sẽ không còn nữa, chứng tỏ có sự liên hệ chặt chẽ giữa thân và tâm. Điều này giải thích tại sao nhiều vị Thiền sư đạt định sâu, những nhu cầu bình thường của cơ thể như ăn ngủ, bài tiết... đều giảm hay mất, nên có thể tọa thiền liên tục vài ngày đến vài mươi ngày.

I. NHẬP THIỀN

1. Chuẩn bị phương tiện

a) Trang phục: Trang phục cần rộng rãi, thoáng mát, thoải mái. Nếu tọa thiền trong chánh điện, tu sĩ mặc áo dài, cư sĩ nên có áo tràng lam để giữ sự trang nghiêm. Ở nơi lạnh, nên mặc đủ ấm. Nếu trời quá nóng bức, có thể dùng quạt nhưng tránh để gió thổi từ sau lưng ót dễ làm nhiễm cảm.

b) Nơi chốn: Nếu có điều kiện, nên có một nơi tọa thiền riêng biệt để tránh bớt ngoại duyên. Trong thiền phòng, thiết kế một bàn thờ Phật đơn giản nhưng trang nghiêm; không nên bài trí nhiều tranh tượng rườm rà. Nếu không có nơi riêng biệt, chúng ta có thể chọn cho mình một chỗ ngồi vào giờ nào đó trong ngày, sao cho thích hợp hơn cả. Về ánh sáng, không nên để đèn quá nhiều vì dễ sanh loạn tưởng, cũng không quá tối vì dễ gây hôn trầm.

c) Dụng cụ tọa thiền, gồm có:

- Một tọa cụ vuông, mỗi cạnh độ 0,6m, trải phía dưới, dùng để lót chân và hai gối khỏi bị đau và lạnh. Có thể lấy vải hay chăn mền xếp gọn lại để thay thế, nếu không có tọa cụ.

- Một bồ đoàn tròn, đường kính độ 0,2m, bề cao tùy vóc dáng từng người mà thay đổi cho thích hợp. Bồ đoàn không nên mềm quá hay cứng quá. Dùng để kê mông hơi cao cho cột sống lưng được thẳng.

- Một khăn lông hay gối nhỏ để chêm dưới bàn tay, nếu lòng bàn chân quá lõm. Mục đích để hai bàn tay ở vào vị trí thích hợp cho hai vai được ngang bằng nhau.

Có người chủ trương, ngày xưa đức Phật chỉ dùng cỏ trải làm tọa cụ chứ không có bồ đoàn, nên bây giờ chúng ta cũng nên theo đúng như thế. Thật ra, dụng cụ chỉ là phương tiện hỗ trợ cho tư thế, làm sao cho chúng ta ngồi đúng phương pháp để công phu trong thời gian dài mà không bị chướng ngại hoặc bệnh hoạn sau này. Dụng cụ phải thích hợp với cấu tạo cơ thể của từng người, không nên cứng nhắc theo một khuôn mẫu nhất định.

2. Tư thế tọa thiền

Có nhiều tư thế, chúng ta có thể lựa chọn sao cho thích hợp với tuổi tác, sức khỏe và vóc dáng của mình.

a) Kiết già: Còn gọi là Toàn già hay tư thế Hoa sen. Đây là tư thế ưu thắng nhất vì khí huyết dễ lưu thông, thân vững vàng do có ba điểm tựa (xương cùng-cụt và hai đầu gối), nên có thể ngồi lâu được. Thuận chân nào thì gác chân ấy lên trước, nhưng thống nhất thì chân trái gác lên đùi phải, sau đó chân phải gác lên đùi trái. Tư thế này phù hợp với người trẻ, chân dài, các khớp linh động.

b) Bán già: Gác chân này lên đùi chân kia, tùy bên nào thuận hơn. Chân trái đặt lên trên, gọi là tư thế Hàng ma; chân phải ở trên là tư thế Kiết tường. Tư thế này phù hợp với người mập, chân ngắn, hoặc tập tọa thiền khi đã lớn tuổi nên xương khớp không còn linh hoạt như lúc trẻ.

c) Các tư thế khác: Đối với người có bệnh ở xương khớp, có thể ngồi xếp bằng bình thường hoặc theo kiểu Miến Điện (xếp bằng nhưng hai bàn chân đều đặt trên tọa cụ). Cũng có thể ngồi trên ghế, hai bàn chân đặt sát mặt đất, xương sống thẳng, không tựa vào lưng ghế. Người Nhật Bản có một tư thế đặc biệt là ngồi trên hai gót chân. Chúng ta không quen thì thấy mỏi nhanh và đau, nhưng nếu quen cũng có thể ngồi được lâu và vững.

3. Cách nhập thiền

a) Điều thân: Ngồi lên bồ đoàn, sao cho xương cùng đặt ngay giữa bồ đoàn. Nghiêng người qua lại vài lần rồi ngồi theo tư thế tọa thiền thích hợp. Cởi nút áo cổ, nới dây thắt lưng. Chỉnh các nếp áo quần để khỏi cấn chân. Xếp các vạt áo ngay ngắn.

Bàn tay phải để trên bàn tay trái, kê gối nhỏ dưới bàn tay nếu lòng bàn chân quá trũng. Hai đầu ngón tay cái chạm nhẹ vào nhau. Hai bàn tay đặt lên lòng bàn chân sao cho đầu ngón tay cái nằm ngay chiều rốn. Hai cánh tay không khuỳnh ra cũng không ép sát quá, khuỷu tay vừa chạm vào hông là được.

Thân cúi xuống ngẩng lên 3 lần, lúc đầu mạnh sau nhẹ dần. Chỉnh thân theo các tiêu chuẩn sau đây:

- Lưng thẳng vừa phải, không ưỡn ngực cũng không cong lưng. Ưỡn quá sẽ tức ngực, quá cúi sẽ dễ sinh hôn trầm và hơi thở không được thông suốt. Tốt nhất là ngồi một cách tự nhiên thoải mái.

- Chóp mũi hướng ngay rốn và hai đầu ngón tay cái. Hai trái tai đối chiếu thẳng xuống vai. Các mốc này giúp đầu không bị nghiêng, không quá cúi hoặc quá ngẩng lên.

- Mắt khép độ 2/3, tầm nhìn không quá 0,6 - 1m từ hai chân. Mắt nhắm hay mở cũng có thể thay đổi tùy người và tùy lúc. Người hay loạn tưởng, hoặc trong phòng ánh sáng hơi chói, bị mỏi hay xốn ở mắt, có thể nhắm mắt lại. Nếu dễ vô ký, hôn trầm, nên mở mắt lớn hơn.

- Gương mặt tươi, bình thản.

b) Điều tức: Thở 3 hơi dài, lúc đầu mạnh sau nhẹ dần. Hít vào bằng mũi, tưởng rằng:

Không khí trong sạch theo hơi thở tỏa lan khắp châu thân”.

Thở ra bằng miệng, tưởng rằng:

Bao nhiêu phiền não, cấu uế, bệnh hoạn đều theo hơi thở ra ngoài”.

Sau đó, ngậm miệng lại, lưỡi để tự nhiên. Từ đây về sau chỉ hít thở bình thường bằng mũi.

II. TRỤ THIỀN

Đối với người sơ cơ, nên lần lượt công phu theo 3 phương pháp, xem như ba giai đoạn tu tập: Sổ tức, Tùy tức và Tri vọng. Khi phương pháp này được thực hiện thuần thục, chúng ta mới chuyển sang phương pháp khác. Không nên nóng vội mà đốt giai đoạn, hoặc tự cho mình có căn cơ đặc biệt nên xem thường những giai đoạn đầu tiên. Chúng ta nên nhớ, những phương pháp Sổ tức và Tùy tức, tuy mới nhìn tưởng là đơn giản, nhưng thật sự là căn bản cho toàn bộ quá trình tu tập của chúng ta. Nếu xây nhà mà không có nền móng vững chắc, ngôi nhà không thể bền vững cùng năm tháng, và càng xây cao bao nhiêu thì càng dễ sụp đổ bấy nhiêu.

1. Sổ tức:

Đây là phương pháp đếm hơi thở, có 2 cách:

- Nhặt: Hít vào đếm 1, thở ra đếm 2, hít vào đếm 3... lần lượt đến 10 rồi trở lại từ 1.

- Khoan: Hít vào và thở ra đếm 1... lần lượt đến 10 rồi trở lại từ 1.

Nếu trong lúc đếm mà quên hay lầm số, phải đếm trở lại từ 1. Khi đã đếm thuần thục không lầm, mới chuyển qua giai đoạn kế tiếp.

2. Tùy tức:

Tùy tức là theo dõi hơi thở: Thở vào ta biết mình đang thở vào, thở ra biết mình thở ra; thở vào ngắn biết thở vào ngắn, thở ra ngắn biết thở ra ngắn; thở vào dài biết thở vào dài, thở ra dài biết thở ra dài. Luôn luôn chúng ta ý thức rõ mình đang thở, hơi thở thế nào biết như thế đó, không bắt buộc hơi thở phải theo ý mình. Trong khi theo dõi hơi thở, ta dễ trực nhận mạng sống rất mong manh, chỉ có trong hơi thở; nếu thở ra không hít vào là không còn tồn tại. Khi thân đã mất thì những tư tưởng tình cảm hiện khởi cũng không còn. Quán sâu xa, chúng ta sẽ thấy rõ lý vô thường của thân và tâm. Từ đó hiểu một cách sâu sắc, vô thường là chân lý tuyệt đối đúng cho mọi nơi mọi lúc, từ cá nhân cho đến toàn thể vũ trụ.

Chánh niệm trên hơi thở, công phu của chúng ta sẽ tiến triển theo 3 trình tự: Lúc đầu, có sự liên hệ giữa tâm và hơi thở, vì tâm luôn luôn duyên theo hơi thở không rời. Sau đó, hơi thở trở thành gạch nối giữa thân và tâm, chúng ta cảm giác được sự tươi mát sảng khoái lan tỏa toàn thân. Cuối cùng, là trạng thái an định, có sự hợp nhất giữa thân và tâm. Lúc này, hơi thở rất nhẹ, như có như không, nghĩa là thở theo “tức tướng”.

Khi Tùy tức thuần thục, chúng ta bước sang giai đoạn Tri vọng. Tuy nhiên, không phải khi qua giai đoạn này là bỏ luôn Tùy tức. Phương pháp theo dõi hơi thở có thể áp dụng bất cứ lúc nào, nhất là khi vọng tưởng lẫy lừng, hết lớp này nổi lên lớp khác, hoặc lúc chúng ta có nhiều việc phiền toái trong cuộc sống hàng ngày, khiến tọa thiền mà tâm vẫn bất an. Lúc ấy, áp dụng phương pháp Tùy tức sẽ có kết quả tốt.

3. Tri vọng:

Con người thường cho rằng những tình cảm, ý nghĩ chợt biến chợt hiện trong đầu là tâm của mình. Do chấp tâm ấy là thật nên ai nói hay làm trái ý, chúng ta liền nổi sân hận. Vì thế, phiền não cứ còn mãi không thôi. Bây giờ, nhờ quán chiếu thấy rõ thân tâm này chỉ do duyên sinh chứ không thật có, không phải là mình, chúng ta đã tiến được một bước trên đường đạo.

Khi được Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma nhận làm đệ tử, Ngài Thần Quang một hôm thưa cùng Tổ:

- Tâm con không an, xin Hòa thượng dạy cho con phép an tâm.

Tổ bảo:

- Đem tâm ra, ta an cho.

Ngài Thần Quang sửng sốt, nhưng lời Tổ dạy, đâu dám không vâng theo. Ngài lục tìm tâm giây lâu không thấy, bèn thật thà thưa:

- Con tìm tâm không được.

Tổ liền nói:

- Ta đã an tâm cho ngươi rồi!

Ngay đây, Ngài Thần Quang liền ngộ. Rõ ràng, phương pháp an tâm chỉ đơn giản là nhìn lại chính mình, xem những ý tưởng lăng xăng mà mình cho là “tâm” đó, phát xuất từ đâu và đi về nơi nào. Nhìn thẳng nó, nó liền mất. Do vậy, tâm được an. Tựu trung, chỉ cần biết cái gọi là tâm” chỉ là vọng tưởng hư dối, không lầm theo nó. Chúng ta không có ý đè nén, dẹp trừ vọng, mà chỉ thắp sáng chánh niệm lên vọng tưởng. Chúng ta cũng không có ý buông vọng, vì ý niệm “buông” đã là một động tác của tâm. Đây là một điều khá tế nhị, chúng ta cần phân biệt rõ để khỏi lầm lẫn trong công phu, giữa “Biết vọng không theo” và “Biết vọng liền buông”. Thực ra “không theo” là một hành vi của ý thức, nhưng không có chủ ý, chỉ biết nó là vọng mà không tác ý gì trên nó. Ngược lại, “Buông” là một hành vi cụ thể, có tác ý, có đối tượng rõ ràng, nên ý niệm “Buông” lại là một vọng tưởng nữa, dù vi tế hơn.

Lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng là một căn bản thứ hai cho phương pháp Tri vọng. Nhiều thiền sinh tự hỏi: “Cứ mãi miết thực hành pháp Biết vọng không theo, rồi khi vọng hết, mình còn cái gì?”. Câu chuyện sau đây là câu trả lời minh bạch:

Khi tăng chúng biết Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đã truyền y bát cho cư sĩ Huệ Năng, liền đuổi theo để dành lại. Thượng tọa Huệ Minh theo kịp, thấy y bát để trên bàn thạch, dùng sức cầm lên vẫn không nhúc nhích, biết có điều huyền diệu bên trong, nên thỉnh Ngài ra nói pháp. Ngài từ trong lùm cây bước ra, bảo:

- Ông đã vì pháp mà đến thì nên dứt sạch các duyên chớ sanh một niệm, tôi sẽ vì ông nói.

Huệ Minh im lặng giây lâu. Lục Tổ bảo:

- Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?

Huệ Minh ngay câu nói đó liền ngộ.

Câu chuyện này cho thấy, nếu tâm không còn kẹt hai bên (thiện-ác, đúng-sai, hay-dở...), mọi vọng niệm dứt sạch, hoàn toàn rỗng rang lặng lẽ, lúc ấy mình còn lại gì? - Lúc ấy, vẫn còn cái hằng biết, biết nhưng không phân biệt chia chẻ. Nhận ra được điều này, chúng ta bắt đầu chợt cảm nhận về một cái gì đó rất gần nhưng cũng rất xa, một điều rất bí mật nhưng cũng khá rõ ràng. Tùy phước duyên và tùy sự tinh tấn của mỗi người mà lời giải đáp đến nhanh hay chậm.

Phương pháp Tri vọng có thể chia ra 2 cấp độ, từ thấp đến cao: Pháp biết vọng và Tánh biết vọng.             

a) Pháp biết vọng: Khởi đầu, chúng ta áp dụng Tùy tức để tâm bớt loạn động. Sau đó, chúng ta nhận diện các vọng niệm. Khi vọng khởi lên liền biết, không theo nó, tự nhiên nó biến mất; vọng lặng thì tâm thanh tịnh. Cứ tiếp tục như thế, vọng thưa dần và im bặt.

Thực hành pháp này, chúng ta còn phân biệt năng và sở: Vọng là sở, người biết vọng là năng. Đây là pháp môn đối trị, còn trong tương đối, nhưng rất cần thiết cho những hành giả còn đang điều phục tâm. Có điều chúng ta nên lưu ý: Thường thì chúng ta chỉ ý thức trên cái vọng, nên khi vọng khởi liền biết; nhưng không có ý thức trên cái không vọng. Vì thế, chỉ lom lom nhìn từng vọng khởi lên để điểm mặt, như người đấu sĩ trên đấu trường, cứ chờ địch thủ tấn công chiêu nào thì đỡ chiêu nấy rồi thôi, mà không biết phản công lại để dành ưu thế. Như vậy thì biết đến bao giờ mới kết thúc được trận đấu? Nói rõ hơn, chúng ta chỉ biết đợi có vọng, không theo nó, vọng biến mất rồi được an, nghĩa là chỉ có định. Chúng ta không biết an lập ngay cái định để có trí huệ. Lúc không còn vọng niệm, mọi sự vật hiện tượng xảy ra xung quanh, ta đều biết. Biết nhưng không có ý niệm lưỡng phân, nên cái biết ấy không phải là ý thức mà là trí tuệ, đây là cái biết của trực giác. Lúc có sự chiếu soi của trí tuệ, chúng ta phải khéo léo hội nhập vào đó. Tâm an định tức sinh trí huệ - mới nghe tưởng là Định và Huệ riêng rẻ, nhưng thực sự không hai, tức Định tức Huệ. Đây là tinh thần “An tâm tại vọng tình, Định Huệ đồng thời” của Lục Tổ.

Một vấn đề khác, lúc làm việc nói năng, ta thường thấy ít có vọng tưởng. Nhưng khi tọa thiền, vọng tưởng lăng xăng sinh diệt không ngừng. Thật ra, do lúc tọa thiền, các duyên bên ngoài tạm cắt, chúng ta tỉnh giác theo dõi những tâm hành sinh diệt, nên nhận rõ từng vọng niệm dấy khởi. Nói khác đi, do niệm khởi lên trong vùng ánh sáng của chánh niệm, nên tất cả niệm đều hiện bày rõ ràng. Sức tỉnh giác càng mạnh, mọi ngõ ngách sâu kín của tâm thức càng lộ rõ.

b) Tánh biết vọng: Khi công phu tăng tiến, một lúc nào đó chúng ta nảy ra một mối nghi: Vọng là đối tượng nhận thức, cái hay biết vọng là chủ thể nhận thức; cả hai đồng thời có mặt khi vọng dấy khởi. Lúc không có vọng, ta ở trong trạng thái lặng lẽ, trạng thái này cũng là một đối tượng nhận thức. Như vậy, vọng và không vọng là hai trạng thái thay đổi luân phiên nhau; còn cái chủ thể nhận thức tức cái biết có vọng và không vọng ấy, thực chất là gì? Cái biết này luôn luôn hiện hữu, không sinh không diệt. Ví như sóng biển, có lúc chìm lúc nổi, lúc to lúc nhỏ, lúc trong lúc đục, nhưng mặt biển vẫn thênh thang và hằng hữu. Ngoài ra, sóng và biển đều cùng bản chất là nước; muốn tìm nước, cứ ngay sóng mà tìm chứ không đợi sóng lặng mới có nước. Sóng biển như vọng tâm, nước biển dụ cho chơn tâm. Vọng và chơn chỉ là hai mặt của một thực thể, do có vọng mới lập bày ra chơn, thật sự chúng không hai không khác. Đây là liễu vọng. Biết được bản chất thật sự của vọng, chúng ta không cần đè nén, dẹp trừ vọng mà ngay vọng nhận được chơn. Không còn phiền não để loại trừ, không có Bồ đề để chứng đắc. Tức vọng tức chơn, phiền não tức Bồ đề, đúng tinh thần Bất nhị của Đại Thừa Phật giáo.

Thiền tông chủ trương “Kiến tánh thành Phật”; nhưng vì căn cơ chúng sinh phần nhiều thấp kém, nên lại lập bày phương tiện “tiệm tu”. Vì thế, các vị Tổ sư đã chỉ rõ từng cấp độ tiến triển của tâm, như các hình ảnh tượng trưng trong mười bức tranh chăn trâu. Trâu chỉ cho tánh giác hằng hữu nơi mỗi người, bản chất là trâu trắng, nhưng do thức tình vọng tưởng phủ che bao nhiêu đời kiếp, nên mang toàn một màu đen, lại ngang ngạnh chạy ngược chạy xuôi, ăn lúa mạ của ruộng người (chạy theo sáu trần tạo nghiệp). Muốn điều phục trâu, phải dùng dây vàm là giới luật, roi vọt chăn giữ là cái biết vọng; luôn luôn chăm chăm nhìn, theo dõi từng vọng niệm dấy khởi mà không chạy theo nó, đó là chăn trâu. Công phu chăn và thuần hóa con trâu ngông cuồng thật gian nan, khó nhọc và đòi hỏi sự kiên trì, siêng năng, giống như người đã nhận ra tánh giác nhưng còn phải dày công bảo nhậm, cho tự tánh luôn hiển bày, thanh tịnh. Thường xuyên tỉnh giác, bào mòn tập khí như thế, một ngày nào đó tâm sẽ thanh tịnh rỗng rang, lúc cần khởi niệm thì đó là dụng của tự tánh, lúc bình thường lại trở về với thể tánh chân thường. Mọi việc làm của chúng ta tự nhiên khế hợp với tự tánh, dụng công mà không dụng nên hằng dụng, chính là Vô công dụng hạnh của các Bậc Bồ tát. Thiền sư Vĩnh-Gia Huyền-Giác nói:

“Khéo khéo lúc dụng tâm

Khéo khéo không tâm dụng

Không tâm khéo khéo dụng

Thường dụng khéo khéo không.”

Vì không có tâm dụng nên không có năng dụng và sở dụng, nhưng không dung túng vọng tưởng nên hàng ngày vẫn khéo khéo dụng công. Dù thường ngày dụng công nhưng không chủ ý khởi vọng niệm, không trừ vọng tâm, cũng không tâm phân biệt người dụng và đối tượng dụng, nên vẫn khéo khéo không. Đây là điều rất sâu xa khó hiểu, không thể dùng ý thức để đo lường, mà phải tự mình đặt chân đến đoạn-đường-tâm ấy mới thầm hội được.

III. XẢ THIỀN

Xả thiền theo thứ tự ngược lại với lúc nhập thiền: Trước nhất là xả tâm, kế đến là xả hơi thở, sau đó là xả thân. Mọi động tác đều phải từ tốn, nhẹ nhàng, tâm vẫn bám chặt vào từng động tác. Cần tránh những cử chỉ thô tháo, vì tuy gọi là giai đoạn xả thiền, nhưng thực chất ta vẫn luôn có chánh niệm trong mọi thời điểm, nghĩa là đang thiền tập trong tư thế động. Thời gian xả thiền mất khoảng 10-15 phút, tùy theo chúng ta tọa thiền lâu hay mau. Các động tác xoa bóp thân thể rất quan trọng và cần thiết để máu huyết lưu thông tốt, ngừa một số bệnh thấp khớp và thần kinh ngoại biên, hoặc có thể làm giảm đau các khớp đã bị bệnh sẵn.

Sau đây là trình tự trong giai đoạn xả thiền:

a) Xả tâm: Đọc thầm bài kệ hồi hướng:

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo.

b) Xả hơi thở: Thở 3 lần từ nhẹ đến mạnh (ngược với lúc nhập thiền), hít vào bằng mũi và thở ra bằng miệng.

Lúc hít vào, tưởng rằng “Máu huyết theo hơi thở lưu thông khắp châu thân”.

Thở ra, tưởng rằng “Bao nhiêu phiền não, cấu uế, bệnh hoạn đều theo hơi thở ra ngoài”.

c) Xả thân: Lần lượt làm các động tác sau:

- Chuyển động hai bả vai, mỗi bên 5 lần, luân phiên nhau.

- Đầu cúi xuống ngước lên 5 lần, xoay qua trái qua phải 5 lần, rồi cúi xuống ngước lên một lần nữa cho quân bình.

- Co duỗi các ngón tay 5 lần.

- Chuyển thân từ nhẹ đến mạnh 5 lần, lần cuối úp hai bàn tay lên đầu gối, ấn mạnh xuống.

- Chà xát hai bàn tay vào nhau cho ấm lên, bắt đầu xoa mặt, tai, gáy và cổ, mỗi nơi 20 lần. Sau đó, dùng mười đầu ngón tay cào nhẹ trên đầu, từ trước ra sau 5 lần.

- Dùng bàn tay phải xoa từ vai xuống cánh tay trái và bàn tay trái xoa từ nách xuống hông phải, làm đồng thời như vậy trong 5 lần. Kế đến, đổi tay làm ngược lại trong 5 lần.

- Lòng bàn tay phải đặt lên ngực, lưng bàn tay trái đặt nơi lưng; hai tay đồng thời xoa theo chiều ngang ở 3 vị trí: Thượng tiêu (trước ngực), Trung tiêu (giữa ngực và bụng, tức vùng thượng vị), Hạ tiêu (vùng bụng dưới); mỗi nơi 5 lần.

- Hai bàn tay chà xát mạnh ở vùng thận, thắt lưng, mông và dọc theo đùi đến đầu gối. Tùy theo sự đau tê nhiều hay ít mà xoa bóp lâu hay mau. Động tác này có thể giúp phòng chống chứng đau dây thần kinh hông (lâu nay gọi nhầm là thần kinh tọa).

- Chà xát hai bàn tay vào nhau cho nóng rồi áp lên mắt. Có thể chà hai ngón tay giữa hoặc các lớp cơ dưới những ngón tay (nơi thịt gồ lên). Nơi lớp cơ dưới ngón tay út (đối diện với lớp cơ dưới ngón tay cái) là dễ nóng và đặt vào mắt thuận tiện nhất. Làm như vậy 5 lần.

- Bắt đầu xoa bóp hai chân, lúc này chúng ta vẫn còn ngồi trên bồ đoàn. Tay nắm các đầu ngón chân kéo xả chân để bàn chân đặt xuống tọa cụ. Xoa bóp kỹ hai chân và lòng bàn chân cho đến khi bớt đau tê mới duỗi thẳng hai chân ra. Cúi người xuống, hai cánh tay duỗi thẳng, sao cho các ngón tay chạm vào đầu ngón chân. Cúi xuống ngẩng lên 3 lần.

- Cuối cùng, bỏ bồ đoàn ra, tiếp tục xoa bóp những chỗ còn đau tê, hoặc những vùng thường ngày mình bị đau nếu có.

Sau khi xả thiền, nếu cùng cộng tu trong thiền đường, nên ngồi lại, xếp bằng ngay ngắn. Chờ tất cả mọi người hoàn tất việc xả thiền, sẽ cùng đi kinh hành hoặc tụng kinh theo nghi thức thống nhất trong thiền viện.

IV. THIỀN HÀNH VÀ KINH HÀNH

Đây là một phương pháp thiền tập. Bình thường, mỗi ngày chúng ta cần đi tản bộ khoảng 30 phút - 1 giờ, nhất là đối với những người làm việc văn phòng, ít vận động chân tay hoặc có nếp sống tĩnh tại. Đi bộ cũng là một môn thể dục nhằm phòng được bệnh loãng xương, một bệnh thường xảy ra ở người lớn tuổi.

Chúng ta có thể thiền hành ở bất cứ đâu: dọc bờ biển, trên đường vắng, quanh sân chùa, trong phòng hoặc trên sân thượng... Hai tay buông thỏng tự nhiên, đánh đàng xa nhẹ nhàng, chân bước từng bước chẫm rãi. Tâm chú mục vào một cảnh vật nào đó trước mắt nhưng không khởi niệm trên đó, hoặc duyên theo hơi thở hay chánh niệm trên từng bước chân...

Phương pháp kinh hành có những chi tiết khác hơn. Chúng ta thường đi kinh hành trong thiền đường, trong chánh điện, là những nơi tôn nghiêm. Hai tay chắp búp sen hoặc đặt trước bụng, bàn tay này để trên bàn tay kia hay các ngón đan vào nhau. Thân giữ thẳng khi đi, đầu không nghiêng qua ngó lại, mắt nhìn xuống cách khoảng 1m - 1,5m. Tâm không duyên theo các pháp, khi niệm khởi lên liền biết, không theo. Nếu kinh hành với nhiều người, chúng ta nên xếp hàng ngay thẳng, trang nghiêm. Nói chung, cần giữ tinh thần hòa chúng trong mọi nghi thức để có sự đồng bộ và nhịp nhàng.



[1] Phương pháp thiền tập

Các tin đã đăng: